Bài Giảng Sinh lý (sau đại hoc)
-
Upload
cuong-vo-tan -
Category
Health & Medicine
-
view
2.521 -
download
30
Transcript of Bài Giảng Sinh lý (sau đại hoc)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ
BỘ MÔN SINH LÝ
BÀI GIẢNG SINH LÝ HỌC
(Sau đại học)
Cần Thơ – 2014
MỤC LỤC
Sinh lý màng bào tương tế bào.....................................................................1
Sinh lý cầm máu.........................................................................................25
Sinh lý niêm mạc đường hô hấp.................................................................48
Sinh lý tiết niệu...........................................................................................64
Sinh lý chuyển hóa xương..........................................................................79
Sinh lý đường huyết.................................................................................100
Sinh lý lipid máu và chuyển hóa lipid máu...............................................119
Sinh lý synap............................................................................................138
SINH LÝ MÀNG BÀO TƯƠNG TẾ BÀO
Con người là một sinh vật đa bào mà mỗi tế bào vừa là đơn vị cấu tạo vừa là
đơn vị chức năng của cơ thể. Tế bào là một đơn vị sống bởi vì nó tự chuyển hóa, tự
sinh sản, tự thích nghi, tự điều hòa và từ chúng các mô sống, cơ quan sống và cơ thể
sống được hình thành, duy trì và phát triển. Trong tế bào, màng đóng vai trò chủ yếu vì
nó chiếm khoảng 80% khối lượng tế bào. Màng tế bào bao gồm: màng bào tương
(màng bề mặt tế bào) và màng các bào quan (màng lưới nội nguyên sinh, màng ty thể,
màng Golgi, màng nhân...).
1. CẤU TRÚC-CHỨC NĂNG CỦA MÀNG BÀO TƯƠNG TẾ BÀO
Màng bào tương tế bào mỏng, đàn hồi, dày 7,5 - 10 nm, được cấu tạo bởi các
thành phần chính là lipid, protein và glucid mà chủ yếu là lipid và protein.
Hình 1. Cấu trúc màng bào tương tế bào
1.1. Thành phần lipid của màng
Thành phần lipid gồm chủ yếu là phospholipid và cholesterol.
1.1.1. Phospholipid
- Cấu hình: các phân tử phospholipid tạo thành lớp lipid kép (phospholipid bilayer)
mỏng, mềm mại, có thể uốn khúc, trượt đi trượt lại và dễ biến dạng. Phospholipid
là một chất phân cực chúng có một đầu kỵ nước là gốc acid béo và một đầu ưa
nước là gốc phosphat. Nền móng tạo nên màng sinh học là tính chất kỵ nước của
gốc acid béo khiến chúng bị dịch ngoại bào và dịch nội bào đẩy quay vào trong,
gặp nhau, hấp dẫn nhau và nằm ở trung tâm của màng. Đầu ưa nước nằm ở hai
1
Dịch ngoại bào
Dịch nội bào
phía của màng, tiếp xúc với dịch nội bào và dịch ngoại bào. Mỗi nửa của lớp
phospholipid kép tạo nên một tấm lá (leaflet).
- Chức năng: lớp phospholipid kép là đơn vị cấu trúc cơ bản của màng sinh học,
các thành phần khác sẽ khảm vào trong đó tạo thành cấu trúc ngăn cách tế bào
với môi trường xung quanh. Bên cạnh đó lớp phospholipid cũng tham gia vận
chuyển các chất qua màng bằng khoảng kẽ giữa các phân tử phospholipid hoặc
bằng cơ chế hòa màng.
1.1.2. Cholesterol
- Cấu hình: cholesterol phần nhiều ở dạng este hóa, liên kết lỏng lẻo với màng. Nó
cũng có hai đầu, một đầu ưa nước là gốc hydroxyl hướng ra ngoài và một đầu là
kỵ nước là nhân steroid vùi vào trong lớp phospholipid kép.
- Chức năng: quyết định tính lỏng của màng.
1.2. Thành phần protein của màng
Các phân tử protein được khảm vào trong lớp phospholipid kép. Dựa vào liên
kết trong cấu trúc màng, protein được chia làm hai loại: protein xuyên màng (intergral
membrane protein) và protein ngoại vi (peripheral membrane protein).
1.2.1. Protein xuyên màng
- Cấu hình: protein này nằm xuyên qua màng, thò 2 đầu ra ngoài và được khảm
vào trong lớp phospholipid kép bằng ba cách liên kết: liên kết ion với những
nhóm có cực của lipid, liên kết kỵ nước với khoảng giữa chứa đựng chuỗi acyl
của lipid màng và những liên kết đặc biệt với những cấu trúc nhất định của lipid
màng (như những vùng chứa cholesterol hoặc các phức hợp glycolipid).
- Chức năng: protein xuyên màng chủ yếu là các protein vận chuyển (gồm protein
kênh, protein mang có tính chất enzym và protein mang không có tính chất
enzym), protein kháng nguyên và các protein nhận diện.
1.2.2. Protein ngoại vi
- Cấu hình: protein này bám vào một bên màng, thường là mặt trong. Chúng
thường được nối với màng hoặc gián tiếp bởi ảnh hưởng qua lại với protein
xuyên màng hoặc trực tiếp bởi tác dụng với những nhóm phân cực của lipid.
- Chức năng: protein ngoại vi là các protein enzym, ngoài ra cũng có thể là các cấu
trúc sợi và ống siêu vi nằm dưới màng tạo bộ khung cho màng và thực hiện chức
năng co rút.
2
1.3. Thành phần glucid của màng
- Cấu hình: các phân tử glucid mà thành phần hóa học chính là oligosaccharid kết
hợp với bề mặt ngoài tế bào của protein màng tạo thành glycoprotein hoặc lipid
màng tạo thành glycolipid. Ngoài ra còn có các hợp chất glucid gọi là
proteoglycan gồm các phân tử glucid bám xung quanh một cái lõi nhỏ protein.
Như vậy, các phân tử glucid đã tạo thành một lớp áo lỏng lẻo, lắc lư, phủ bên
ngoài của màng bào tương tế bào, được gọi là glycocalyx.
- Chức năng: lớp áo glycocalyx có 4 chức năng chính là đẩy các phân tử tích điện
âm do tính tích điện âm, làm các tế bào dính vào nhau do áo glucid tế bào này
bám vào áo glucid tế bào khác, hoạt động như những receptor của hormon và
tham gia vào các phản ứng miễn dịch .
2. HOẠT ĐỘNG CHỨC NĂNG CỦA MÀNG BÀO TƯƠNG TẾ BÀO
Màng bào tương tế bào thực hiện nhiều hoạt động chức năng quan trọng như
phân cách tế bào với môi trường xung quanh, vận chuyển các chất qua màng tế bào,
kết dính tế bào và tương tác tế bào.
2.1. Phân cách tế bào với môi trường xung quanh
Màng bào tương tế bào phân cách các thành phần bên trong tế bào với môi
trường xung quanh do đó tạo cho tế bào thành một tổ chức sống độc lập tương đối với
môi trường xung quanh. Các thành phần trong tế bào gồm có:
- Các bào quan của tế bào: nhân, ty thể, mạng lưới nội bào tương, ribosom,
lysosom, bộ golgi...
- Dịch trong tế bào còn gọi là dịch nội bào: dịch nội bào chứa protein và một lượng
lớn ion K+, Mg++, phosphat, sulfat so với dịch ngoại bào chứa chủ yếu các chất
dinh dưỡng cho tế bào như oxy, glucose, acid amin, acid béo và một lượng lớn
ion Na+, Cl-, HCO3-.
2.2. Vận chuyển các chất qua màng tế bào
Tuy tế bào là một tổ chức sống độc lập nhưng nó vẫn có mối liên hệ với môi
trường xung quanh thông qua hoạt động vận chuyển các chất qua màng bào tương tế
bào. Có hai chiều vận chuyển: từ ngoài vào và từ trong ra khỏi tế bào. Có hai cách
3
thức vận chuyển: vận chuyển qua các phân tử cấu tạo lên màng bào tương tế bào và
vận chuyển bằng một đoạn màng bào tương tế bào.
2.2.1. Vận chuyển qua các phân tử cấu tạo lên màng bào tương tế bào
Đây là quá trình vận chuyển có chọn lọc các chất và phụ thuộc vào đặc tính của
các phân tử cấu tạo lên màng bào tương tế bào.
2.2.1.1. Vận chuyển qua lớp lipid kép
- Hình thức vận chuyển: vận chuyển thụ động theo lối khuếch tán đơn giản qua
khoảng kẽ giữa các phân tử của lớp lipid kép.
- Chất được vận chuyển: các chất hòa tan trong lipid như O2, CO2, nitơ, acid béo,
vitamin tan trong dầu A, D, E, K, rượu ... Mặc dù nước không hòa tan trong lipid
nhưng một phần nước vẫn có thể khuếch tán qua lớp lipid kép vì kích thước của
chúng nhỏ nhưng động năng của chúng lại rất lớn nên chúng có thể xuyên qua
lớp lipid kép như những “viên đạn” (bullets).
- Tính chất của lớp lipid kép: các ion không thể thấm qua lớp lipid kép cho dù kích
thước của chúng rất nhỏ bởi vì: các ion mang điện làm cho rất nhiều phân tử
nước gắn xung quanh (hiện tượng hydrat hóa) nên kích thước thực của chúng bị
tăng lên rất nhiều, mặt khác điện tích của các ion phản ứng với điện tích của lớp
lipid kép khiến chúng không đi qua được.
- Tốc độ khuếch tán: tốc độ khuếch tán phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có khả
năng hòa tan của chất khuếch tán trong lipid. Tốc độ khuếch tán của CO2 gấp 20
lần O2.
2.2.1.2. Vận chuyển qua các protein xuyên màng
* Vận chuyển qua các protein kênh:
- Hình thức vận chuyển: vận chuyển thụ động theo lối khuếch tán đơn giản qua
kênh protein.
- Chất được vận chuyển: nước và các chất hòa tan trong nước.
- Tính chất của kênh:
+ Tính chọn lọc chất khuếch tán do đặc điểm về đường kính, hình dạng và điện
tích của kênh.
+ Tính chất đóng mở bằng cổng, sự đóng mở các kênh được kiểm soát bằng một
trong hai cách: đóng mở do điện thế, đóng mở do ligand.
4
- Tốc độ khuếch tán: tốc độ khuếch tán phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có số
lượng kênh trên một đơn vị diện tích màng.
- Ví dụ: 3 loại kênh quan trọng
+ Kênh Na+: kích thước 0,3x0,5nm, mặt trong tích điện âm mạnh. Cổng kênh
nằm ở mặt ngoài màng bào tương tế bào, cổng đóng khi bên trong tế bào tích
điện âm rất mạnh và mở ra đột ngột khi bên trong tế bào mất điện tích âm đó
cho phép ion Na+ đi từ ngoài vào trong tế bào.
+ Kênh K+: kích thước 0,3x0,3nm, mặt trong không tích điện âm. Cổng kênh
nằm ở mặt trong màng bào tương tế bào, cổng mở khi bên trong tế bào trở
thành điện tích dương cho phép ion K+ đi từ trong ra ngoài tế bào.
+ Kênh Ca++: thời gian hoạt hóa của kênh này rất chậm, chậm hơn kênh Na+ từ
10-20 lần vì vậy kênh Ca++ được gọi là kênh chậm trong khi kênh Na+ là kênh
nhanh. Kênh này cho phép Ca++ và Na+ đi từ ngoài vào trong tế bào.
* Vận chuyển qua các protein mang không có tính chất enzym:
- Hình thức vận chuyển: vận chuyển thụ động theo lối khuếch tán được tăng cường
qua các protein mang không có tính chất enzym.
- Chất được vận chuyển: chất hữu cơ có kích thước lớn như glucose, acid amin.
- Tính chất của protein mang: chất được vận chuyển gắn vào protein mang làm cho
protein mang thay đổi cấu hình và mở ra ở phía bên kia của màng. Do lực liên
kết giữa chất được vận chuyển và protein mang yếu nên chuyển động nhiệt của
chất được vận chuyển sẽ tách nó ra khỏi protein mang và giải phóng vào phía đối
diện.
Hình 2. Cơ chế khuếch tán dược tăng cường
- Tốc độ khuếch tán: tốc độ khuếch tán phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có số
lượng protein mang trên một đơn vị diện tích màng do đó tốc độ khuếch tán có
giá trị tối đa (sự bảo hòa của vận chuyển).
5
Chất được vận chuyển Điểm gắn
Chất mangthay đổi cấu hình
Phóng thích
- Ví dụ: glucose được hấp thu vào tế bào bằng cơ chế khuếch tán được tăng cường,
insulin làm tăng tốc độ khuếch tán lên 10-20 lần do làm tăng số lượng các protein
mang.
* Vận chuyển qua các protein mang có tính chất enzym
- Hình thức vận chuyển: vận chuyển chủ động theo lối sơ cấp qua các protein
mang có tính chất enzym (bơm).
- Chất được vận chuyển: các ion như Na+, K+, Ca++, H+, Cl-.
- Tính chất của protein mang: protein mang vừa đóng vai trò là chất chuyên chở để
chất được vận chuyển gắn vào vừa đóng vai trò là một enzym thủy phân ATP để
lấy năng lượng. Năng lượng đó sẽ làm thay đổi cấu hình của protein mang giúp
chúng bơm các chất được vận chuyển qua màng.
- Tốc độ vận chuyển: vận chuyển tích cực cũng bị bảo hòa giống như khuếch tán
dược tăng cường. Khi nồng độ chất được vận chuyển thấp, tốc độ vận chuyển
tăng tỷ lệ thuận với sự tăng nồng độ. Ở nồng độ cao, sự vận chuyển đạt mức tối
đa (Vmax). Sự bảo hòa là do: tốc độ các phản ứng hóa học lúc gắn hoặc lúc giải
phóng chất được vận chuyển khỏi chất mang và thời gian cần cho sự thay đổi
hình dạng của protein mang.
- Ví dụ:
+ Bơm Na+-K+-ATPase: hiện diện ở tất cả tế bào trong cơ thể, gồm hai protein
hình cầu, trong đó protein lớn có 3 vị trí receptor gắn với Na+ ở phía trong tế
bào và 2 vị trí receptor gắn với K+ ở phía ngoài tế bào. Phần phía trong bơm
gần receptor của Na+ có men ATPase hoạt động. Khi bơm hoạt động sẽ bơm 2
K+ từ ngoài vào trong tế bào và 3 Na+ từ trong ra ngoài.
Hình 3. Hoạt động của bơm Na+-K+-ATPase
+ Bơm Ca++: hiện diện ở hầu hết tế bào trong cơ thể, khi bơm hoạt động sẽ bơm
Ca++ từ trong ra ngoài tế bào duy trì nồng độ Ca++ thấp trong tế bào.
* Vận chuyển phối hợp qua các protein mang có và không có tính chất enzym
6
- Hình thức vận chuyển: vận chuyển chủ động theo lối thứ cấp qua sự phối hợp của
các protein mang.
- Chất được vận chuyển: các chất hữu cơ như glucose, acid amin và các ion.
- Tính chất của sự phối hợp các protein mang: protein mang thứ nhất có tính chất
enzym hoạt động theo cơ chế vận chuyển chủ động sơ cấp tạo ra một bậc thang
nồng độ của ion. Năng lượng được giải phóng từ bậc thang nồng độ ion cho phép
protein mang thứ hai không có tính chất enzym vận chuyển ion theo bậc thang
nồng độ và chất cùng vận chuyển khác ngược bậc thang nồng độ.
- Tốc độ vận chuyển: tương tự vận chuyển chủ động sơ cấp.
- Ví dụ:
+ Đồng vận chuyển thuận (co-transport) với Na+ của glucose và acid amin ở tế
bào biểu mô ống tiêu hóa và ống thận để hấp thu các chất này vào máu.
Hình 4. Cơ chế đồng vận chuyển thuận Na+ - Glucose
+ Đồng vận chuyển nghịch (counter-transport) với Na+ của K+ hoặc H+ ở tế bào
biểu mô ống lượn xa và ống góp để tái hấp thu Na+ và bài tiết K+ hoặc H+ trao
đổi.
2.2.2. Vận chuyển bằng một đoạn màng bào tương tế bào
2.2.2.1. Hiện tượng nhập bào (endocytosis)
* Thực bào (phagocytosis):
- Bản chất: là hiện tượng tế bào nuốt vi khuẩn, mô chết, bụi... Chỉ một số tế bào có
khả năng này đó là các đại thực bào ở mô và và các bạch cầu.
- Cách thức thực bào: màng bào tương tế bào kết dính với chất được thực bào.
Phía trong màng bào tương tế bào sát với những chỗ kết dính này là một mạng
lưới các sợi protein có cấu tạo bởi các sợi actin và myosin. Các sợi này sẽ co rút
với năng lượng từ ATP làm cho màng bào tương lõm vào trong và dần dần hình
7
thành túi thực bào tách khỏi màng bào tương đi vào bên trong tế bào. Phần màng
bào tương còn lại kết hợp lại với nhau bằng cơ chế hòa màng.
* Ẩm bào (pinocytosis):
- Bản chất: là hiện tượng tế bào nuốt các dịch lỏng và các chất tan có kích thước
nhỏ... Ẩm bào xảy ra liên tục ở màng hầu hết các tế bào trong cơ thể.
- Cách thức ẩm bào: các chất được ẩm bào đến tiếp xúc với màng bào tương tế bào
và hiện tượng ẩm bào diễn ra tương tự cơ chế thực bào.
Hình 5. Cơ chế ẩm bào
2.2.2.2. Hiện tượng xuất bào (exocytosis):
- Bản chất: là hiện tượng tế bào bài tiết các chất được tổng hợp trong tế bào như
hormon, chất truyền đạt thần kinh hoặc các chất cặn bã (residual body) sau quá
trình tiêu hóa ra khỏi tế bào
- Cách thức xuất bào: các chất bài tiết được đóng gói trong các túi và được vận
chuyển đến màng bào tương tế bào nhờ năng lượng ATP. Tại đây, bằng cơ chế
hòa màng các túi này mở thông ra bên ngoài giải phóng các chất bài tiết và trở
thành một phần của màng bào tương tế bào.
2.3. Kết dính tế bào
Màng bào tương tế bào với hệ thống các phân tử kết dính trong lớp áo
glycocalyx cho phép kết dính tế bào với tế bào hoặc tế bào với các đại phân tử
collagen, fibrinogen, heparin... Với sự kết dính này các tế bào được cố định, đây là cơ
sở để xây dựng nên các mô, các cơ quan và cơ thể toàn vẹn. Không chỉ có ý nghĩa hình
thái, sự kết dính này còn giúp các tế bào trao đổi với nhau về vật chất cũng như các tín
8
hiệu trong quá trình sống và hơn thế nữa nó còn có thể đóng vai trò quan trọng trong
quá trình biệt hóa và phát triển tế bào. Sự kết dính được thực hiện theo các cơ chế: tác
dụng tương hỗ giữa các nhóm chức hóa học, cầu nối trung gian của các ion hóa trị 2+,
lực tĩnh điện giữa hai tế bào. Có một số mô hình kết dính đã được nghiên cứu như kết
dính kiểu enzym-cơ chất, kiểu protome bổ xung và bởi fibronectin.
2.3.1. Kết dính kiểu enzym-cơ chất
Lớp áo glycocalyx bao phủ bên ngoài màng bào tương tế bào làm cho lớp áo
của tế bào này xen lẫn và kết dính vào lớp áo của tế bào kia. Nhiều phân tử kết dính
đặc hiệu đã được phát hiện đặc biệt là các glycoprotein với các gốc ose (hydratcarbon)
của tế bào này kết dính với enzym glycosyl – transferase của tế bào kia. Sự kết dính
này là kiểu kết dính enzym-cơ chất đặc hiệu và phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện môi
trường như pH, nhiệt độ, nồng độ ion... Lý thuyết về sự kết dính này cho phép giải
thích sự bền vững trong gắn kết giữa các tế bào vì đó là liên kết đồng hóa trị. Di căn
trong bệnh ung thư do các tế bào ung thư có sự khóa các enzym bề mặt và xuất hiện sự
kết dính xảy ra trên cùng một tế bào chứ không phải tế bào này với tế bào kia.
Hình 6. Kết dính tế bào theo kiểu hydratcarbon với glycosyl – transferase
* Ví dụ điển hình: kết dính bởi fibronectin
- Bản chất: fibronectin là một phân tử glycoprotein, trong lượng phân tử 200.000-
250.000. Thành phần cấu tạo gồm 2 phần: phần protein với nhiều acid amin như
tyrosin, lysin, glutamin và nhất là prolin, nghèo cystein; phần hydratcarbon có
chứa các gốc ose tận là galactose, D-mannosamin, acid sialic và fructose. Hai
phần liên kết với nhau bằng liên kết N-glucosid. Fibronectin tồn tại ở dạng 2
chuỗi và dạng 4 chuỗi, nối với nhau bằng cầu disulfua.
9
Tế bào bình thường Tế bào ung thư
Glucosyl transferase
Hydratcarbon
Hydratcarbon
Glucosyl transferase
- Chức năng: fibronectin tác dụng thông qua enzym glucosyl transferase làm tập
hợp các tế bào, kết dính chúng với nhau, ngăn trở sự biến hình của tế bào bằng
cách sắp thẳng hàng các tế bào trong quá trình phân chia và phát triển, đồng thời
tham gia vào sự biệt hóa tế bào, làm tăng sự di động của tế bào, góp phần liên kết
tế bào với các đại phân tử như collagen, fibrogen, heparin...
- Bệnh lý: trong nuôi cấy tế bào, nếu dùng protease phá hủy các phân tử
fibronectin trên bề mặt tế bào thì các tế bào nuôi cấy phát triển theo hướng ác
tính nghĩa là sinh sản và phân chia hỗn loạn thành nhiều lớp và tạo nên khối u,
nhưng khi cho thêm fibronectin vào môi trường nuôi cấy thì sự phát triển tế bào
trở lại bình thường. Người ta đã định lượng fibronectin của màng bề mặt tế bào
của tổ chức ung thư và thấy rằng hàm lượng fibronectin bị giảm nhiều hoặc mất
hẳn.
2.3.2. Kết dính kiểu protome bổ xung
Trên màng bề mặt tế bào có một số protome (tức là các chuỗi polypeptid) và
các protome này bổ xung cho nhau để làm thành một kết cấu toàn diện hoàn chỉnh khi
các tế bào kết dính với nhau. Kiểu liên kết này tương tự như sự liên kết của chuỗi α và
chuỗi β trong phân tử hemoglobin hoặc sự liên kết của các protome trong phân tử
enzym polyme.
2.4. Tương tác tế bào
Tương tác tế bào là sự phản ứng giữa các thành phần của màng bào tương tế
bào mà chủ yếu là các protein với các phân tử chất bên ngoài một cách đặc hiệu. Với
tương tác này tế bào sẽ thực hiện các hoạt động chức năng của nó. Các mô hình tương
tác chủ yếu là tương tác kiểu kháng nguyên-kháng thể, kiểu enzym-cơ chất và kiểu tín
hiệu hóa học-receptor.
2.4.1. Tương tác kiểu kháng nguyên-kháng thể
Tương tác kiểu kháng nguyên-kháng thể là cơ sở để tế bào thực hiện các chức
năng miễn dịch. Màng bào tương tế bào vừa có các nhóm kháng nguyên, vừa có thể có
kháng thể bám dính.
2.4.1.1. Các kháng nguyên trên bề mặt tế bào
Các phân tử protein có tính chất sinh kháng thể hay nói cách khác chúng có tính
kháng nguyên. Màng bào tương tế bào được cấu trúc bởi nhiều phân tử protein cho
nên chúng tạo thành các kháng nguyên bề mặt của tế bào. Có nhiều loại kháng nguyên
10
bề mặt đã được biết đến như kháng nguyên bề mặt hồng cầu (kháng nguyên nhóm
máu), kháng nguyên đặc hiệu đơn dòng tế bào máu và tế bào miễn dịch (CD), các
kháng nguyên hòa hợp tổ chức (HLA).
- Kháng nguyên bề mặt hồng cầu: hiện nay có khoảng 300 kháng nguyên bề mặt
hồng cầu đã được biết đến, hầu hết các kháng nguyên này thuộc 1 trong 29 hệ
nhóm máu. Các kháng nguyên màng hồng cầu là các đại phân tử cắm vào lớp
phospholipid của màng hồng cầu. Hầu hết các kháng nguyên nhóm máu này là
những glycoprotein, với tính đặc hiệu được xác định đầu tiên bởi chuỗi
oligosaccharid (ví dụ nhóm ABO) hay bởi chuỗi acid amin (như nhóm MN, Kell,
Duffy, Kidd, Diego). Các kháng nguyên Rh là những protein không glycosyl
hóa, mặc dù sự hiện diện của các glycoprotein phối hợp cần thiết cho sự biểu
hiện của chúng.
- Kháng nguyên đặc hiệu đơn dòng tế bào máu và tế bào miễn dịch-CD (cluster of
differentiation antigen: kháng nguyên biệt hóa) hay còn gọi là dấu ấn bề mặt tế
bào (surface markers of cells): các kháng nguyên này mang tính cá thể, đa dạng
và có hàng trăm loại được chia thành 5 typ.
- Phức hợp hòa hợp mô chính ở người (MHC: major histocompatibility complex),
thường gọi là kháng nguyên bạch cầu người (HLA: human leucocyte antigen):
những phân tử này có vai trò quan trọng trong trình diện kháng nguyên và đáp
ứng miễn dịch.
2.4.1.2. Các kháng thể bám dính trên bề mặt tế bào
Phần Fc của các phân tử Ig thuộc một số lớp và dưới lớp có khả năng gắn với
một số tế bào khác như:
- Phân tử IgE, IgG1, IgG3, IgG4: có khả năng gắn lên bề mặt tế bào mast và bạch
cầu ái kiềm thông qua những receptor của chúng với phần Fc. Khi Fab của những
Ig này kết hợp với kháng nguyên sẽ hoạt hóa các tế bào làm phóng thích ra các
hóa chất trung gian như serotonin, histamin...
- Phân tử IgG và IgM: cũng có khả năng gắn lên bề mặt các đại thực bào và bạch
cầu trung tính thông qua những receptor của chúng với phần Fc. Nếu kháng
nguyên là vi khuẩn hay đơn bào đã phủ bởi IgG và IgM thì chúng dễ bị các tế
bào thực bào bắt và nuốt.
2.4.2. Tương tác kiểu enzym-cơ chất
11
Hiện nay người ta đã biết trên 30 enzym liên kết màng trong đó có những
enzym là thành phần thường xuyên của màng bào tương tế bào hoặc với nồng độ hằng
định như Mg++-ATPase hoặc với nồng độ thay đổi như Na+-K+-ATPase; phosphatase
kiềm, nucleotidase và phosphodiesterase... Phần lớn các enzym này có bản chất hóa
học là glycoprotein, vị trí để liên kết với cơ chất là phần huydratcarbon được hướng
trực tiếp ra phía gian bào bên ngoài.
- Các cyclase màng: như adenylcyclase và guanylcyclase. Những enzym này có ở
tất cả các tế bào có nhân, bản chất hóa học là lipoprotein khu trú sâu trong màng
bào tương, gắn chặt vào lớp lipid. Hoạt động của các cyclase liên quan đến nồng
độ của một số hormon và các yếu tố đặc biệt khác, ví dụ: adenylcyclase được
hoạt hóa bởi ACTH, PTH, vasopressin, glucagon, catecholamin và bị ức chế bởi
insulin, prostaglandin.
adenylcyclase
ATP AMPc + Pi∼Pi
Guanylcyclase
GTP GMPc + Pi∼Pi
AMPc và GMPc tham gia vào quá trình điều hòa nội tế bào thông qua việc điều
chỉnh hoạt động của các hệ thống ezym phụ thuộc proteinkinase của tế bào.
- ATPase: màng bề mặt tế bào là nơi khu trú của các loại ATPase khác nhau bao
gồm ATPase được hoạt hóa bởi Na+, K+, Mg++, Ca++. Bản chất hóa học của chúng
là glycoprotein. Các phospholipid màng là những yếu tố cần thiết cho hoạt động
xúc tác của những enzym này: phosphatidyl inositol cần cho Ca++-ATPase;
phosphatidyl cholin, phosphatidyl serin và cholesterol cần thiết cho Na+-K+-
ATPase. Vai trò của các ATPase của màng bào tương tế bào là vận chuyển các
ion Ca++, Mg++, Na+, K+ qua màng tế bào và thông qua đó góp phần vận chuyển
glucose, các acid amin và một số chất khác qua màng tế bào.
2.4.3. Tương tác kiểu tín hiệu hóa học-receptor
Trên màng bào tương tế bào có rất nhiều receptor nhưng chủ yếu là các receptor
nhận diện hormon. Hormon tác dụng lên tế bào với nồng độ rất thấp, nhờ có receptor
mà hiệu quả tác dụng của nó sẽ được phóng đại lên. Receptor của hormon có thể nằm
trên bề mặt màng bào tương tế bào hoặc nằm trong tế bào (trong bào tương hoặc trong
nhân).
12
- Về cấu trúc: mỗi receptor có ít nhất hai nhóm là nhóm điều hòa và nhóm hiệu
ứng. Nhóm điều hòa làm nhiệm vụ nhận biết và liên kết với tín hiệu hóa học
(hormon), nhóm hiệu ứng có tác dụng gây ra hiệu quả đầu tiên trên tế bào.
- Về bản chất: receptor là những phân tử protein, chúng có thể đóng vai trò là
những enzym, protein vận chuyển...
- Về sự tương tác: các receptor tiếp nhận các tín hiệu hóa học với tính đặc hiệu cao
do sự tương ứng trong cấu trúc đặc thù của receptor với phân tử đặc hiệu. Ngoài
tính đặc hiệu ra các tín hiệu này còn gắn với receptor bằng một ái lực cao, nhờ đó
chỉ có chính phân tử tín hiệu mới có thể duy trì sự gắn kết với receptor. Tính chất
này đặc biệt quan trọng đối với các receptor của hormon vì hormon thường chỉ
có mặt trong máu với nồng độ rất thấp và lẫn lộn với các phân tử khác.
3. MÀNG BÀO TƯƠNG TRONG HOẠT ĐỘNG TRAO ĐỔI THÔNG TIN
GIỮA CÁC TẾ BÀO
Màng bào tương tham gia vào nhiều hoạt động chức năng của tế bào như
chuyển hóa năng lượng, sinh sản và biệt hóa, thực bào, tổng hợp và bài tiết các chất,
điện thế màng... Một trong những hoạt động chức năng quan trọng nhất là sự trao đổi
thông tin giữa các tế bào.
Trong cơ thể động vật đa bào, sự phối hợp giữa các tế bào trong cùng một mô
để hoàn thành một chức năng hoặc giữa các tế bào trong các loại mô khác nhau để
hoàn thành nhiều chức năng khác nhau được thực hiện thông qua các hệ thống thông
tin giữa các tế bào. Sự thông tin có thể được thực hiện thông qua các mối liên kết hở
(gap junction) giữa các tế bào nằm sát nhau hoặc qua các tín hiệu hóa học (chemical
signal) giữa các tế bào xa nhau.
3.1. Trao đổi thông tin giữa các tế bào sát nhau
Giữa các tế bào kế nhau trong mô động vật như các tế bào biểu mô, thần kinh,
cơ trơn, cơ tim thường có các cấu trúc được gọi là các liên kết hở giúp các tế bào trao
đổi thông tin với nhau.
13
Hình Liên kết hở giữa hai tế bào sát nhau
- Cấu trúc: liên kết hở được cấu tạo gồm 6 phân tử protein gọi là connexin ở mỗi
bên màng bào tương tạo thành 1 kênh ở giữa hình lục giác gọi là connexon. Kênh
có đường kính khoảng 1,5nm nối thông giữa hai tế bào.
- Hoạt động: kênh cho phép các phân tử nhỏ hòa tan trong nước có trọng lượng
phân tử nhỏ hơn 1.000 đi trực tiếp từ bào tương tế bào này tới tế bào khác sát
cạnh nó. Do chỉ di chuyển trên một đoạn đường ngắn và không bị ảnh hưởng của
các tác nhân bên ngoài nên cách tác động này diễn ra nhanh chóng và hiệu quả.
- Ý nghĩa: kiểu tác động này cho phép các tế bào cạnh nhau có thể nhanh chóng
chia sẻ các sản phẩm chuyển hóa. Ngoài ra các liên kết hở còn cho phép thực
hiện việc truyền các tín hiệu điện giữa các tế bào qua dòng chảy của các ion một
cách nhanh chóng. Điều này đặc biệt có vai trò quan trọng ở:
+ Các tế bào thần kinh cho phép xung động đi nhanh hơn nhiều so với sự dẫn
truyền qua synap.
+ Các tế bào cơ tim giúp chúng co lại cùng một lúc, đảm bảo cho việc bơm máu
diễn ra một cách hiệu quả.
3.2. Trao đổi thông tin giữa các tế bào xa nhau
Cách thức truyền tin được thực hiện theo phương thức các tín hiệu hóa học dưới
dạng các phân tử đặc hiệu giải phóng ra từ một tế bào sẽ tác động lên một tế bào khác
ở xa gọi là tế bào đích. 3 thành tố chính tham gia vào hoạt động này là: các tín hiệu
ngoại bào hay còn gọi là chất truyền tin thứ nhất, các receptor ở tế bào đích và các tín
hiệu nội bào hay còn gọi là chất truyền tin thứ hai. Các tín hiệu ngoại bào sẽ di chuyển
từ tế bào sản xuất ra nó đến tác động trên các receptor của tế bào đích, các receptor sau
khi tiếp xúc với tín hiệu ngoại bào sẽ làm xuất hiện các tín hiệu nội bào, qua đó dẫn
đến sự hình thành các đáp ứng sinh lý trên tế bào đích.
14
3.2.1. Các tín hiệu ngoại bào
Có nhiều loại tín hiệu ngoại bào khác nhau được tế bào sử dụng để tác động lên
các tế bào đích. Trừ một trường hợp ngoại lệ là các prostaglandin, còn lại hầu hết các
tín hiệu hóa học đều được tổng hợp từ các tế bào đặc hiệu và tồn trữ ở đó cho đến khi
được giải phóng dưới tác động của các tác nhân kích thích. Phân loại các tín hiệu
ngoại bào:
- Phân loại theo tính tan:
+ Các tín hiệu hóa học tan trong nước: như các hormon peptid, catecholamin,
các chất truyền đạt thần kinh. Đặc điểm của loại tín hiệu này là nhanh chóng
bị phân hủy sau khi được giải phóng, đôi khi chúng chỉ tồn tại vài giây hoặc
vài mili giây như đối với các chất truyền đạt thần kinh. Loại tín hiệu này rất
hiệu quả trong việc tạo ra các đáp ứng nhanh nhưng chỉ cần thiết trong một
thời gian ngắn.
+ Các tín hiệu hóa học tan trong lipid: như các hormon steroid, hormon T3-T4.
Đặc điểm của loại tín hiệu này là chúng có khả năng tồn tại lâu hơn trong máu,
từ vài giờ đến vài ngày như đối với các hormon T3-T4 của tuyến giáp. Loại tín
hệu này phục vụ cho việc tạo ra các đáp ứng chậm hơn nhưng kéo dài hơn.
- Phân loại theo cách tác động lên tế bào đích: các chất trung gian hóa học tại chỗ,
các chất truyền đạt thần kinh và các hormon.
3.2.1.1. Các chất trung gian hóa học tại chỗ (local chemical mediator)
- Tính chất: hầu hết tế bào trong cơ thể đều có khả năng tiết ra loại tín hiệu này.
Chúng còn được gọi là các hormon địa phương bởi vì chúng thường được tiết
vào dịch kẽ và chỉ tác động trên các tế bào bên cạnh do chúng bị phá hủy rất
nhanh sau khi giải phóng hoặc do được gắn ngay với các receptor có mặt ở các tế
bào lân cận sau khi được giải phóng.
- Các loại: histamin và các prostaglandin là những ví dụ điển hình cho loại tín hiệu
hóa học tại chỗ này.
+ Histamin: được hình thành từ acid amin histidin và dự trữ trong các dưỡng bào
(mast cell) có mặt trong các mô liên kết. Histamin được giải phóng dưới tác
động của các phản ứng dị ứng, nhiễm trùng hoặc khi tổ chức bị tổn thương, tác
động chính của nó là gây ra giãn mạch, tăng tính thâm thành mạch.
15
+ Các prostaglandin: được tổng hợp bởi hầu hết các loại mô từ acid béo, nó có
chứa 20 nguyên tử carbon như arachidonic acid và được giải phóng một cách
liên tục. Chúng có các tác dụng trái ngược nhau trên các loại mô khác nhau
hoặc trên cùng một loại mô, ở cơ trơn chẳng hạn, tùy thuộc vào loại
prostaglandin mà có thể gây ra hiện tượng co hoặc giãn cơ.
3.2.1.2. Các chất truyền đạt thần kinh (neurotransmitter)
- Tính chất: đây là các tín hiệu hóa học do các tế bào thần kinh sản xuất, được gọi
là các chất truyền đạt thần kinh. Các tế bào thần kinh sử dụng tín hiệu này để dẫn
truyền xung động qua synap thần kinh. Sau khi tác động, chất truyền đạt thần
kinh bị loại bỏ bằng 1 trong 3 cách: phân hủy bởi enzym, tái nhập trở lại cúc tận
cùng hoặc khuếch tán ra nô xung quanh.
- Phân loại: toàn hệ thần kinh có khoảng 40 chất truyền đạt và được chia nhóm có
phân tử nhỏ như glycin, acetylcholin và nhóm có phân tử lớn như neruopeptid.
3.2.1.3. Các hormon
- Tính chất: hormon hay hormon chung (general hormon) là một chất trung gian
hóa học được bài tiết bởi các tế bào chuyên biệt nằm trong các tuyến nội tiết,
được chuyên chở trong máu đến các tế bào đích và có tác dụng sinh học trên các
tế bào này. Do phải di chuyển đi xa như vậy nên tín hiệu thuộc loại này được
truyền đi chậm hơn nhiều so với các chất truyền đạt thần kinh.
- Phân loại: các hormon được chia thành 3 loại theo bản chất hóa học.
+ Hormon steroid: là các hormon có nhân steroid, tan trong lipid không tan trong
nước. Gồm: hormon vỏ thượng thận (aldosteron, cortisol), sinh dục
(testosteron, estrogen, progesteron), vitamin D3.
+ Hormon acid amin: là các dẫn xuất của acid amin tyrosin. Gồm: hormon tuyến
giáp (T3, T4) tan trong lipid, hormon tủy thượng thận (catecholamin) tan trong
nước.
+ Hormon peptid: là các hormon có liên kết peptid, nếu có hai chuỗi thì hai
chuỗi liên kết nhau bởi cầu nối disulfur (-S-S-). Một số hormon có thêm gốc
carbohydrat tạo thành glycoprotein. Các hormon này tan trong nước không tan
trong lipid. Gồm hormon của hypothalamus (GHRH, GHIH, TRH, CRH,
GnRH, PIH), tuyến yên (GH, TSH, ACTH, FSH, LH, prolactin, ADH,
16
oxytocin), tuyến giáp (calcitonin), tuyến cận giáp (PTH), tuyến tụy (insulin,
glucagon).
3.2.2. Receptor
Receptor là những phân tử protein có mặt ở tế bào đích, đóng vai trò tiếp nhận
các tín hiệu hóa học ngoại bào với tính đặc hiệu và ái lực cao, qua đó sẽ khởi phát các
hoạt động chức năng nhất định của tế bào.
3.2.2.1. Vị trí của receptor
Receptor có thể nằm ở một trong ba vị trí: trên màng bào tương tế bào, trong
bào tương tế bào và trong nhân tế bào.
* Receptor trên màng bào tương:
- Tính chất: các receptor trên màng bào tương tế bào là những protein xuyên màng,
chiếm chưa đến 1% khối lượng protein có mặt trên màng nên rất khó xác định,
phân lập và nghiên cứu. Các receptor này đóng vai trò như một biến năng
(transducer), chuyển một tín hiệu ngoại bào sau khi gắn vào receptor thành một
tín hiệu nội bào để qua đó làm thay đổi hoạt động của tế bào đích, nhờ vậy
hormon khi gắn với receptor trên màng sẽ gây ra sự đáp ứng trong tế bào mà
không cần đi vào bên trong tế bào.
- Tiếp nhận các hormon: receptor này tiếp nhận các hormon tan trong nước, đó là
các hormon polypepetid và catecholamin tác động theo cơ chế chất truyền tin thứ
hai.
* Receptor trong bào tương tế bào
- Tính chất: các receptor trong bào tương tế bào là những protein có vai trò tiếp
nhận các hormon tạo thành phức hợp hormon-receptor, sau đó phức hợp này sẽ
đi vào trong nhân để gắn vào các vị trí tiếp nhận đặc hiệu trên DNA và điều
chỉnh hoạt động sao mã của các gen.
- Tiếp nhận các hormon: receptor này tiếp nhận các hormon tan trong lipid, đó là
các hormon steroid tác động theo cơ chế hoạt hóa gen tế bào.
* Receptor trong nhân tế bào
- Tính chất: các receptor trong nhân tế bào là những protein có vai trò tiếp nhận
các hormon tạo thành phức hợp hormon-receptor, phức hợp này gắn vào các vị
trí tiếp nhận đặc hiệu trên DNA và điều chỉnh hoạt động sao mã của các gen.
17
- Tiếp nhận các hormon: receptor này tiếp nhận các hormon tan trong lipid, đó là
các hormon T3-T4 tác động theo cơ chế hoạt hóa gen tế bào.
3.2.2.2. Ligand
- Khái niệm: bất cứ một phân tử tín hiệu nào có khả năng gắn vào receptor với độ
đặc hiệu cao đều được gọi là ligand.
+ Nếu phân tử sau khi gắn với receptor dẫn đến một đáp ứng sinh lý của tế bào
thì được gọi là agonist.
+ Nếu phân tử sau khi gắn với receptor mà không gây ra một đáp ứng nào cả sẽ
được gọi là antagonist, chúng làm cản trở tác động của agonist bằng cách
chiếm lấy receptor của nó.
- Tương quan giữa receptor và agonist:
+ Trên màng bào tương, một số receptor có số lượng lớn hơn so với nhu cầu
thực sự, hiện tượng này được gọi là sự thặng dư receptor. Đây là hiện tượng
cần hiện tượng cần thiết để giúp tăng độ nhậy cảm của tế bào đối với các
agonist có nồng độ thấp, càng nhiều receptor bao nhiêu sẽ càng giúp cho các tế
bào đích có nhiều cơ may gặp được các phân tử agonist bấy nhiêu.
+ Cơ chế điều chỉnh số lượng receptor ở các tế bào đích chưa được biết rõ, có lẽ
có liên quan đến sự bất hoạt của các receptor hoặc các thay đổi trong việc tổng
hợp và giáng hóa của các protein receptor. Một số receptor có số lượng liên
quan đến số lượng của các phân tử agonist tương ứng trong máu: giảm số
lượng receptor khi số lượng agonist giảm và qua đó làm giảm đáp ứng của tế
bào đích với agonist hoặc ngược lại tăng số lượng receptor khi agonist giảm
nhờ đó giúp tế bào duy trì được sự đáp ứng bình thường trước sự sụt giảm
agonist.
+ Trong một số trường hợp, sự đáp ứng của tế bào đối với một agonist tỷ lệ
thuận với số receptor gắn với agonist. Ở một số trường hợp khác, sự đáp ứng
của tế bào chỉ xảy ra sau khi đã có một tỷ lệ nhất định receptor gắn với
agonist, tỷ lệ này được gọi là ngưỡng đáp ứng. Sự đáp ứng tối đa của tế bào
trong một số trường hợp sẽ xảy ra trước khi 100% số receptor gắn với agonist.
+ Đối với các receptor trên màng bào tương, sự gắn kết agonist và receptor có
thể kích thích quá trình đưa phức hợp này vào bên trong tế bào qua hiện tượng
nhập bào.18
- Vai trò của antagonist trong điều trị: catecholamin là một ví dụ, đây là hormon
tác động trên tim làm tăng nhịp đập của tim và tăng lượng máu bơm, tác động
quá mức của catecholamin có thể gây ra tăng huyết áp và làm xuất hiện cơn đau
thắt ngực. Bằng cách sử dụng propranolol, một antagonist của catecholamin sẽ
làm đình chỉ các tác dụng này của catecholamin.
3.2.3. Các tín hiệu nội bào
Tín hiệu ngoại bào khi gắn vào receptor nằm trên màng bào tương tế bào sẽ làm
cấu hình của receptor thay đổi, sự thay đổi này dẫn đến xuất hiện một phân tử tín hiệu
bên trong tế bào, được gọi là tín hiệu nội bào (intracellular). Quá trình này được xem
là cơ sở khởi đầu của hiện tượng khuếch đại tín hiệu vì sẽ có nhiều tín hiệu nội bào
được hình thành từ một phân tử tín hiệu ngoại bào. Các tín hiệu nội bào sau đó sẽ tạo
ra một loạt phản ứng bên trong tế bào dẫn đến xuất hiện các đáp ứng sinh lý đặc trưng.
Có 3 loại tín hiệu nội bào phổ biến: AMPc, Ca++-protein, inositol triphosphat và
diacylglycerol.
3.2.3.1. Các cơ chế hình thành tín hiệu nội bào
* AMPc (cyclic 3',5'-Adenosine Monophosphate) hoặc GMPc (cyclic 3',5'-Guanosine
Monophosphate)
(+) ATP ← 5'-AMP
Tín hiệu ngoại bào-Receptor → Adenyl cyclase → ↓ Phosphodiesterase
↓ (+)
Protein kinase A
↓ Phosphoryl hóa
Phospho + Protein → Phosphoprotein
↓
Đáp ứng sinh lý
Ví dụ: AMPc trong tế bào tuyến giáp → chuyển hóa T3-T4.
AMPc trong tế bào vỏ thượng thận → bài tiết corticosteroid.
AMPc trong tế bào ống thận → tăng tái hấp thu nước.
* Ca++-protein
19
AMPc
Tín hiệu ngoại bào-Receptor → Mở cổng kênh Ca++
↓
Ca++ vào tế bào protein có ái lực với Ca++
↓
Hoạt hóa enzym
↓
Đáp ứng sinh lý
- Dòng chảy Ca++ vào bào tương tế bào: khi một tín hiệu ngoại bào đến gắn vào
receptor gây ra sự thay đổi trong cấu hình receptor và dẫn đến mở kênh Ca++ trên
màng, có 2 khả năng xảy ra:
+ Khả năng thứ nhất: tạo nên một dòng chảy thoáng qua của ion Ca++ vào bên
trong tế bào cơ hay thần kinh làm thay đổi điện thế giữa trong và ngoại tế bào,
sự thay đổi này có thể khởi phát một điện thế hoạt động lan tỏa nhanh chóng
khắp màng của tế bào đích. Phần lớn các chất truyền đạt thần kinh hoạt động
theo cách này.
+ Khả năng thứ hai: tạo nên dòng chảy thật sự của ion Ca++ vào bên trong tế bào
làm tăng nồng độ của ion đó tới một ngưỡng mà nó có thể tác động như một
tín hiệu thứ hai để kích thích sự đáp ứng của tế bào.
- Các protein có ái lực với ion Ca++: có hai loại
+ Loại thứ nhất là các protein không có hoạt tính enzym: sau khi gắn với ion Ca+
+ chúng thay đổi cấu hình và phức hợp Ca++-protein trở thành chất truyền tin
thứ hai. Ví dụ điển hình cho loại protein này là troponin C, thấy ở trong tế bào
cơ vân và cơ tim và calmodulin thấy ở hầu hết các loại tế bào. Troponin C khi
gắn với Ca++ sẽ khiến cho phân tử tropomyosin dịch khỏi điểm hoạt động của
sợi actin, khi đó đầu myosin có cơ hội kết hợp với actin gây nên sự co cơ.
Calmodulin có 4 vị trí gắn Ca++, khi có từ 3 vị trí trở lên được gắn với Ca++ thì
phức hợp này sẽ có hoạt tính, chúng hoạt hóa enzym kinase phụ thuộc
calmodulin (calmodulin-dependent kinase) và enzym này sẽ phosphoryl hóa
các protein đặc hiệu để qua đó làm thay đổi hoạt động sinh lý của tế bào. Phức
20
Ca++-protein
hợp Ca++-calmodulin linh hoạt hơn so với AMPc vì ngoài khả năng làm thay
đổi hoạt động sinh lý của tế bào phức hợp này còn có thể tác động trực tiếp
trên các enzym như adenyl cyclase và phosphodiestase là những enzym tạo ra
và phá vỡ AMPc, tạo nên mối tương quan giữa AMPc và ion Ca++ nội bào.
+ Loại thứ hai là các protein enzym gắn ion Ca++ một cách trực tiếp: một ví dụ
điển hình cho loại này là enzym C-kinase. Enzym C-kinase của bào tương
không chịu ảnh hưởng của ion Ca++, tuy nhiên khi có mặt diacylglycerol, nó sẽ
gắn với màng bào tương tại đây nó được hoạt hóa bởi các phospholipid và trở
nên dễ bị kích thích bở ion Ca++. Khi nồng độ ion Ca++ của bào tương gia tăng,
enzym C-kinase sẽ phosphoryl hóa các protein đặc hiệu dẫn đến các đáp ứng
sinh lý của tế bào.
* Inositol triphosphat và diacylglycerol:
(+) Phosphatidyl inositol 4,5-Diphosphate
Tín hiệu ngoại bào-Receptor → Phospholipase C →
(Khuếch tán vào bào tương) (Ở tại màng tế bào)
(+)
Ty thể MLNBT
Ca++ Protein kinase C
Protein → Phosphoryl hóa
Ca++-Protein Phosphoprotein
↓ ↓
Đáp ứng sinh lý Đáp ứng sinh lý
+ PIP2 (Phosphatidyl inositol 4,5-Diphosphate) là một phần phospholipid của
màng bào tương tế bào bị tách ra thành IP3 (inositol triphosphat) và
21
Inositol Triphosphat Diacylglycerol
diacylglycerol dưới tác động của phospholipase C. Nói chung tác dụng của
DAG và IP3 có tính chất hợp lực.
+ Phần lipid của diacylglycerol là acid arachidonic - một tiền chất của
prostaglandin và các hormon địa phương khác gây ra những tác động tại chỗ.
+ Hormon tác động theo cơ chế này thường là những hormon địa phương nhất là
những yếu tố được phóng thích từ các phản ứng miễn dịch và dị ứng của mô.
Một số hormon khác cũng tác dụng qua trung gian thông tin nội bào là DAG
và IP3 như TRH, GnRH, TSH, agiotensin II.
3.2.3.2. Sự thay đổi nồng độ của các tín hiệu nội bào
- Sự thay đổi nồng độ các tín hiệu nội bào chủ yếu phụ thuộc vào tốc độ tổng hợp
hoặc dòng chảy của chúng vào trong tế bào:
+ Sự gia tăng tốc độ tổng hợp hoặc dòng chảy sẽ nhanh chóng làm gia tăng nồng
độ tín hiệu trong bào tương, cho phép tế bào đích đáp ứng nhanh chóng với tín
hiệu ngoại bào.
+ Khi không có tín hiệu ngoại bào, tín hiệu nội bào sẽ nhanh chóng bị phân hủy
hoặc được chuyển khỏi bào tương và nồng độ của nó sẽ giảm tới mức mà tế
bào ngừng đáp ứng.
- Kiểm soát nồng độ của AMPc trong bào tương:
+ Bình thường nồng độ AMPc chỉ ở mức 1 µM, nhưng sau khi một hormon gắn
với một receptor trên màng và kích thích enzym adenylcyclase thì lập tức
nồng độ AMPc có thể tăng lên đến 5 lần chỉ trong vòng vài giây và dẫn đến sự
đáp ứng của tế bào.
+ Ngược lại AMPc sẽ bị giáng hóa nhanh chóng thành adenosin 5’-
monophosphat dưới tác dụng của enzym phosphodiesterase và làm ngừng tác
dụng của AMPc.
- Cơ chế kiểm soát nồng độ của ion Ca++ trong bào tương:
+ Bình thường nồng độ Ca++ trong bào tương tế bào là 0,1µM. Khi một hormon
gắn với một receptor trên màng làm mở kênh Ca++, Ca++ sẽ nhanh chóng
khuếch tán từ ngoài vào trong tế bào. Dòng chảy này còn được hỗ trợ thêm bởi
gradient điện tích ở hai bên màng và sự giải phóng ion Ca++ ra khỏi các kho dự 22
trữ trong tế bào như lưới nội sinh chất dưới tác dụng của inositol triphosphat.
Như vậy nồng độ Ca++ trong tế bào sẽ tăng từ 0,1µM lên tới 1-10µM.
+ Sau khi tác dụng, ion này nhanh chóng được chuyển ra khỏi bào tương tế bào
với sự phối hợp của nhiều cơ chế: một phần ion Ca++ được bơm ra khỏi tế bào
hoặc vào ty thể, mạng nội bào tương ngược với chiều gradient điện-hóa thông
qua bơm Ca++-ATPase với năng lượng được cung cấp trực tiếp từ ATP; một
phần Ca++ sẽ đi ra khỏi tế bào qua con đường đồng vận chuyển nghịch với
Na+; một phần Ca++ tự do sẽ được gắn với các phân tử khác trong bào tương.
Như vậy, Ca++ tự do trong bào tương sẽ giảm xuống.
4. MỘT SỐ BỆNH LÝ PHÂN TỬ CỦA MÀNG BÀO TƯƠNG TẾ BÀO
Nhiều bệnh lý có liên quan chặt chẽ đến chức phận của màng bào tương tế bào,
đặc biệt là sự nhầm lẫn trong truyền đạt các tín hiệu qua màng bào tương tế bào ở múc
độ phân tử.
4.1. Bệnh của receptor acetylcholin
- Bệnh nhược cơ: cơ thể hình thành tự kháng thể kháng receptor acetylcholin ở cơ
vân. Hậu quả là các receptor không nhận diện được các xung động thần kinh, các
kênh ion ở màng tế bào cơ không mở, tế bào cơ không chuyển được sang trạng
thái kích thích. Đây là một bệnh tự miễn.
- Bệnh Huntington: một trong những nguyên nhân gây nên bệnh là giảm số lượng
receptor acetylcholin ở hệ thần kinh trung ương dẫn đến sự dẫn truyền thần kinh
không bình thường làm bệnh nhân có biểu hiện múa giật không tự chủ và có rối
loạn tâm thần.
4.2. Bệnh của receptor TSH
- Bệnh Grave: cơ thể hình thành tự kháng thể có cấu trúc giống TSH đến kích
thích các receptor TSH của tuyến giáp gây cường giáp. Đây là một bệnh tự miễn.
- Chứng lồi mắt trong bệnh Grave: nguyên nhân gây bệnh là do các tế bào phía sau
ổ mắt cũng có các receptor TSH giống tế bào nang giáp. Bình thường các
receptor này hoạt động rất yếu nên còn gọi là receptor TSH yên lặng, trong bệnh
Grave, khi tự kháng thể tăng cao làm các tế bào phía sau ổ mắt phát triển mạnh
và xuất hiện lồi mắt.
4.3. Bệnh của các receptor độc tố vi khuẩn
23
- Bệnh tả: vi khuẩn tả xâm nhập vào cơ thể và sản xuất ra độc tố có cấu tạo gồm
hai chuỗi polypeptid, trong đó có một chuỗi liên kết với receptor trên bề mặt tế
bào thành ruột và một chuỗi liên kết với enzym adenylcyclase nằm dưới các
receptor màng. Hậu quả là lượng AMPc tăng lên dẫn đến sự tăng cường vận
chuyển HCO3- và Na+, K+ qua màng ruột, kéo theo 20-30 lít nước vào lòng ruột
gây tiêu chảy nặng. Trong điều trị có thể dùng một số ose thích hợp để chiếm chỗ
receptor loại trừ các ngoại độc tố này.
- Bệnh uốn ván: độc tố vi khuẩn uốn ván tác động lên các receptor của bề mặt tế
bào thần kinh gây ra hưng phấn quá mức ở các tế bào cơ. Độc tố uốn ván gồm
hai nhóm: một nhóm liên kết với receptor trên bề mặt tế bào thần kinh và một
nhóm tác động đến hoạt động của adenylcyclase làm tăng tạo AMPc. Mặt khác,
độc tố uốn ván còn tác động lên receptor TSH của tuyến giáp gây nhịp tim
nhanh, tăng chuyển hóa...
4.4. Bệnh của receptor chuyển hóa
- Bệnh tăng cholesterol máu: đây là bệnh di truyền, số lượng receptor LDL trên tế
bào giảm, cholesterol không được thu nhận vào tế bào, ứ đọng lại trong máu gây
xơ vữa động mạch.
- Bệnh đái tháo đường không phụ thuộc insulin: receptor glucose của màng tế bào
bị giảm hoặc hư hỏng, glucose không vào tế bào được gây tăng glucose máu.
4.5. Bệnh dị ứng và hen
- Bệnh dị ứng: trên bề mặt các tế bào mastocyte có các receptor với IgE do vậy IgE
sẽ gắn lên bề mặt các tế bào này. Khi dị nguyên xâm nhập sẽ được IgE bắt lấy.
Hậu quả là tế bào mastocyte giải phóng ra histamin gây giãn mạch, tăng tính
thấm thành mạch.
- Bệnh hen: các tế bào cơ trơn phế quản có hai loại receptor của phó giao cảm (gây
co) và giao cảm (gây giãn). Ở bệnh nhân hen có tình trạng mất cân bằng trong
hoạt động của hai loại receptor này theo chiều hướng gây co phế quản.
24
SINH LÝ CẦM MÁU
Cầm máu là quá trình hạn chế hoặc ngăn cản sự mất máu khi thành mạch bị tổn
thương. Cầm máu có tính chất sinh mạng bởi vì sự chảy máu nếu không được kiểm
soát sẽ dẫn đến trụy tim mạch và chết.
1. CÁC THÀNH PHẦN THAM GIA VÀO QUÁ TRÌNH CẦM MÁU
Cầm máu là một quá trình phức tạp với sự tham gia của nhiều yếu tố, có thể
chia thành 2 thành phần chính: mạch máu và máu.
1.1. Mạch máu
Về mặt mô học, thành động mạch và tĩnh mạch nói chung được tạo bởi 3 lớp áo
với các thành phần chính: áo trong gồm có lớp nội mạc phủ trên màng đáy và lớp dưới
nội mạc, áo giữa gồm gồm nhiều sợi cơ trơn và lá chun, áo ngoài gồm mô liên kết,
mạch của mạch và thần kinh của mạch. Trong đó các thành phần chính tham gia vào
quá trình cầm máu là lớp nội mạc, lớp dưới nội mạc của áo trong và cơ trơn của lớp áo
giữa.
Hình 1. Cấu trúc thành mạch máu
1.1.1. Lớp nội mạc
- Cấu trúc: các tế bào nội mạc mạch máu là dạng biểu mô lát đơn gồm một lớp tế
bào dẹt hình thoi (30x8µm2) tựa trên màng đáy và gắn kết với nhau một cách chặt
chẽ nhờ sự đan chéo dạng ngón tay ở phần màng tiếp giáp nhau (“khớp mộng”).
Các tế bào này là những tế bào phân cực, cực ngọn hướng về phía lòng mạch tiếp
xúc trực tiếp với máu, cực đáy tựa trên màng đáy qua đó tiếp cận với mô liên kết
của lớp dưới nội mạc.
25
Động mạch Tĩnh mạch
Van
Áo trong
Áo giữa
Áo ngoài
- Chức năng: với vị trí chiến lược là nằm giữa dòng máu tuần hoàn và các mô của
cơ thể, lớp nội mạc mạch máu tham gia vào việc điều hòa trương lực mạch máu,
quá trình cầm máu, cấu trúc mạch máu, tính thấm thành mạch, phản ứng miễn
dịch và các hoạt động chuyển hóa của thành mạch. Đối với quá trình cầm máu,
lớp nội mạc không chỉ là một hàng rào đơn giản ngăn giữa máu và các mô, tạo bề
mặt trơn láng che phủ màng đáy và lớp dưới nội mô mà nó còn có khả năng đặc
biệt là tổng hợp và bài tiết một số chất. Chính nhờ khả năng này mà lớp nội mạc
vừa mang đặc tính chống sinh huyết khối vừa mang đặc tính tiền sinh huyết khối.
1.1.1.1. Các đặc tính chống sinh huyết khối
Lớp nội mạc có khả năng tổng hợp và bài tiết một số chất chống sinh huyết
khối.
* Các chất gây giãn mạch và chống ngưng tập tiểu cầu:
- Prostaglandin I2 (PGI2 hay prostacyclin):
Phospholipid (màng tế bào)
↓ phospholipase A2
Acid arachidonic
↓ Cyclo-oxygenase
Tiểu cầu → Endoperoxyt (prostaglandin G2 và H2)
↓ prostacyclin-synthetase
PGI2
PGI2 tác động thông qua AMPc làm giảm lượng Ca++ bào tương và vì vậy giảm
hoạt hóa tế bào. PGI2 tác động rất khu trú do thời gian bán hủy chỉ vài phút và bị đối
kháng bởi thromboxan A2 của tiểu cầu.
- Nitric oxid (NO): tổng hợp từ acid amin L-arginin dưới sự xúc tác của enzym
nitric oxid synthetase (NOS)
- Các enzym thoái hóa ADP (ADPase) và serotonin (monoamin oxydase)
- Acid 13 HODE (13-hydroxy-octadecadienoic acid): tổng hợp từ acid béo dưới sự
xúc tác của enzym lipooxygenase.
* Các chất chống đông máu:
- Sulfat heparan: đồng dạng với heparin nên có hoạt tính chống đông qua trung
gian antithrombin III. Màng tế bào trình diện một lớp mịn các proteoglycan giàu
sulfat heparan trên đó có gắn antithrombin ức chế nhanh chóng các yếu tố hoạt 26
hóa quá trình đông máu nhất là yếu tố Xa và thrombin. Như vậy chúng tạo ra một
pha chống đông gắn với bề mặt mạch máu.
- Thrombomodulin: gắn trên bề mặt tế bào, phối hợp với protein C và S để thực
hiện hoạt tính chống đông.
- Chất ức chế con đường yếu tố tổ chức (TFPI: tissue factor pathway inhibitor): là
yếu tố ức chế con đường đông máu ngoại sinh.
* Chất kích thích tiêu sợi huyết:
- Yếu tố hoạt hóa plasminogen tổ chức (tPA: tissue plasminogen activator).
1.1.1.2. Các đặc tính tiền sinh huyết khối
Lớp nội mạc có khả năng tổng hợp và bài tiết một số chất gây sinh huyết khối.
* Các chất gây co mạch và kết dính tiểu cầu:
- Yếu tố Von-Willebrand: là một glycoprotein trọng lượng phân tử cao đa trùng
hợp được tổng hợp bởi tế bào nội mạc (70%) và cả mẫu tiểu cầu (30%). Yếu tố
Von-Willebrand khi được hấp thụ trên các sợi collagen của lớp dưới nội mạc sẽ
thay đổi cấu trúc và có khả năng gắn với glycoprotein Ib trên màng tiểu cầu. Như
vậy, yếu tố Von-Willebrand đảm bảo cho sự kết dính tiểu cầu vào tổ chức dưới
nội mạc.
- Endothelin: đối kháng với NO.
- Acid 15-HETE (15-hydroxy-eicosatetraenoic acid): tổng hợp từ acid béo dưới sự
xúc tác của enzym lipooxygenase, chất này đối kháng với acid 13 HODE.
* Các chất gây đông máu:
- Yếu tố tổ chức hoặc thromboplastin: gắn trên bề mặt tế bào làm khởi phát con
đường đông máu ngoại sinh.
- Đưa thrombomodulin vào bên trong tế bào nội mạc làm mất chức năng chống
đông.
* Chất ức chế tiêu sợi huyết:
- Chất ức chế yếu tố hoạt hóa plasminogen typ I (PAI1: plasminogen activator
inhibitor typ I).
1.1.2. Lớp dưới nội mạc
- Cấu trúc: lớp dưới nội mạc thuộc dạng mô liên kết hình thành từ một hỗn hợp
phức tạp của các đại phân tử collagen, elastin. Collagen (sợi tạo keo) có dạng vân
hình thành từ sự trùng hợp các tiểu đơn vị tropocollagen, mỗi tropocollagen lại
27
được tạo thành từ 3 chuỗi polypeptid cuộn thành vòng xoắn. Collagen của lớp
dưới nội mạc chủ yếu là collagen typ III mà sự tổng hợp rất cần vitamin C.
Elastin (sợi chun) cũng là một loại sợi protein như collagen.
- Chức năng: lớp dưới nội mạc tạo sức căng, sức đàn hồi và khung chống đỡ cho
thành mạch. Khi lớp nội mạc bị tổn thương, lớp dưới nội mạc sẽ trơ ra ngoài máu
làm cho tiểu cầu đến kết dính thông qua các protein bám dính như yếu tố Von-
Willebrand.
1.1.3. Lớp cơ trơn
- Cấu trúc: lớp áo giữa được cấu thành chủ yếu từ các tế bào cơ trơn và các sợi
chun với tỷ lệ và độ dày thay đổi khác nhau tùy theo mạch máu. Các tế bào cơ
trơn xếp sát nhau theo dạng vòng.
- Chức năng: lớp áo giữa thực hiện nhiệm vụ co thắt (cơ trơn) và đàn hồi (sợi
chun) cho thành mạch. Các tế bào cơ trơn còn đóng vai trò quan trọng trong việc
tái tạo mạch máu bằng cách tăng sinh, di cư và thay thế các tế bào nội mạc tổn
thương.
1.2. Máu
Máu gồm hai thành phần: huyết tương và huyết cầu (hồng cầu, bạch cầu, tiểu
cầu), trong đó thành phần chính tham gia vào quá trình cầm máu là tiểu cầu, các yếu tố
ảnh hưởng đến đông máu và các yếu tố ảnh hưởng đến tiêu sợi huyết của huyết tương.
1.2.1. Tiểu cầu
Tiểu cầu là một trong những tế bào máu có kích thước nhỏ, số lượng trong máu
ngoại vi khoảng 150–400x109/L máu. Bình thường mỗi ngày khoảng 75.000 tiểu cầu
mới được tạo ra từ tủy xương, như vậy các tiểu cầu trong máu sẽ được đổi mới hoàn
toàn trong vòng 4 ngày. Sau khi rời khỏi tủy xương, khoảng 1/3 số lượng tiểu cầu
được lưu giữ ở lách và 2/3 còn lại lưu hành trong máu ngoại vi. Đời sống tiểu cầu
trong tuần hoàn kéo dài từ 8 – 12 ngày. Tiểu cầu già bị phá hủy trong các tổ chức liên
võng, chủ yếu là lách.
Hình 2. Tiểu cầu trong phết máu ngoại vi
28
1.2.1.1. Nguồn gốc và hình thái
- Nguồn gốc: một vài mẫu tiểu cầu được tìm thấy trong túi noãn hoàng vào tuần
thứ 6–7 của thai kỳ. Sau đó chúng phát triển trong gan, lách và cuối cùng là ở tủy
xương vào tuần 13. Tiểu cầu được được hình thành từ sự vỡ ra của bào tương các
mẫu tiểu cầu theo cơ chế nội phân bào. Thời gian phát triển từ nguyên mẫu tiểu
cầu đến tiểu cầu mất khoảng 7-10 ngày.
- Yếu tố điều hòa sinh tiểu cầu: thrombopoietin (TPO) có nguồn gốc từ gan và
thận đóng vai trò chính trong việc kiểm soát sự sinh trưởng của tiểu cầu. TPO có
hai tác dụng quan trọng:
+ Kích thích tăng sinh số lượng các mẫu tiểu cầu.
+ Kích thích tăng tốc độ trưởng thành bào tương của mẫu tiểu cầu và tốc độ giải
phóng tiểu cầu.
- Hình thái tiểu cầu: chính cách hình thành khiến cho tiểu cầu mang hình ảnh là
các mảnh tế bào nhỏ, hình dáng không nhất định thường là dạng hình đĩa, không
nhân, đường kính lớn từ 2–4µm và thể tích khoảng 6-7fl. Ở trạng thái chưa hoạt
hóa bề mặt tiểu cầu trơn nhẵn nhưng chúng sẽ nhanh chóng tạo ra các giả túc
hình gai khi được hoạt hóa.
1.2.1.2. Cấu trúc
Tiểu cầu có một siêu cấu trúc phức tạp, có thể chia thành các vùng sau:
Vùng Cấu trúc Chức năng
Ngoại vi Màng Kết dính/ngưng tập
Sol-gel Các vi sợi, vi ống Co thắt
Tiểu thể Các bào quan Dự trữ/bài tiết
Hệ thống liên kết màng Các ống Tổng hợp
* Vùng ngoại vi: là màng tế bào có nhiều chỗ lõm rất sâu, màng gồm 3 lớp:
- Lớp giữa: là lớp phospholipid kép và các phân tử protein xuyên màng mà cấu
trúc và chức năng giống như những những màng tế bào khác.
- Lớp ngoài: là các phân tử glucid mà thành phần hóa học chính là oligosaccharid
kết hợp với bề mặt ngoài tế bào của protein xuyên màng tạo thành glycoprotein
(GP). Dùng các kỹ thuật sinh hóa và đánh dấu phóng xạ có thể xác định đến 8
GP. Đây chính là lớp áo glycocalyx lỏng lẻo, lắc lư, phủ bên ngoài như màng bào
29
tương các tế bào khác, ở tiểu cầu chúng được gọi là lớp khí quyển bao quanh tiểu
cầu. Lớp khí quyển này thực hiện nhiều chức năng quan trọng mà đặc biệt là:
+ Hấp phụ các ion hóa trị 2 và các yếu tố đông máu. Do vậy có vai trò rất quan
trọng trong quá trình cầm máu, nếu rửa tiểu cầu thì lớp khí quyển sẽ bị trôi đi
dẫn đến chức năng tiểu cầu bị suy giảm.
+ Đóng vai trò là các receptor giúp tiểu cầu kết dính và ngưng tập mà đặc biệt là
GPIb và GPIIb/IIIa.
Bảng 1. Các glycoprotein quan trọng trên màng tiểu cầu
Glycoprotein Chất gắn kết Chức năngGPIa/IIa collagen Kết dính tiểu cầu vào collagenGPIb/IX vWF Kết dính tiểu cầu vào lớp dưới nội mạcGPIc/IIa fibronectin Kết dính tiểu cầu vào thành mạchGPIIb/IIIa fibrinogen Ngưng tập tiểu cầu, kết dính vào collagenGPIV Thrombospondin Ngưng tập tiểu cầu, kết dính vào collagenGPV Thrombin Chưa rõ chức năng7-GPs Thrombin, adrenalin, ADP Ngưng tập tiểu cầu và chế tiết
- Lớp trong: là các protein ngoại vi đóng vai trò là các enzym truyền tin hóa học có
thể gây hoạt hóa tiểu cầu.
* Vùng sol-gel dưới màng: nằm ngay bên dưới màng tiểu cầu gồm hệ thống các vi
sợi, vi ống:
- Các vi ống: tạo nên bộ khung đỡ duy trì dạng hình đĩa của tiểu cầu, đồng thời
tham gia vào hiện tượng co thắt tạo giả túc khi tiểu cầu bị kích thích.
- Các vi sợi: gồm các sợi actin tham gia vào hiện tượng co thắt tạo giả túc.
* Vùng tiểu thể (vùng bào quan): gồm các hạt có đường kính từ 0,2 – 0,3µm
- Các hạt đậm: chứa các chất hoạt hóa tiểu cầu Ca++, ADP, ATP và serotonin.
- Các hạt alpha type I (20–200/tiểu cầu): chứa các protein
+ Các protein huyết tương: protein kết dính (fibrinogen, yếu tố Von-Willebrand,
fibronectin, thrombospondin), các protein đông máu (fibrinogen, yếu tố V) và
protein tiêu sợi huyết (PAI1).
+ Các protein đặc hiệu của tiểu cầu: β thromboglobulin (BTG), yếu tố 4 tiểu cầu
(PF4), yếu tố tăng trưởng nguồn gốc tiểu cầu (PDGF).
- Các hạt alpha type II (2 – 10/tiểu cầu): chứa các enzym lysosom như N-
acetylglucominidase, N-glucuronidase và N-galactosidase.
30
* Hệ thống liên kết màng: hai hệ thống liên kết quan trọng về mặt giải phẫu được tìm
thấy trong tiểu cầu là hệ thống ống dẫn đậm đặc và hệ thống ống dẫn bề mặt:
- Hệ thống ống dẫn đậm đặc: là lưới nội bào tương đóng vai trò dự trữ Ca++, đòng
thời là nơi tổng hợp cyclo-oxygenase và prostaglandin của tiểu cầu.
- Hệ thống ống dẫn bề mặt: là những chỗ lõm vào trong của màng bào tương tế
bào làm tăng diện tích tiếp xúc của tiểu cầu và làm cho tiểu cầu có tính chất xốp.
Hệ thống này có vai trò trong việc thu nhận các chất trong huyết tương và giải
phóng các chất chứa trong các hạt.
1.2.1.3. Các yếu tố của tiểu cầu
Hiện nay người ta đã phát hiện một số yếu tố sau :
- Yếu tố 1: Là yếu tố có thể thay thế cho AC-globulin huyết tương để hoạt hoá
prothrombin thành thrombin được Ware và cộng sự phát hiện năm 1948.
- Yếu tố 2: Là yếu tố có tác dụng rút ngắn thời gian đông của Fibrinogen dưới
tác dụng của thrombin .
- Yếu tố 3: Bản chất là lipoprotein được tổng hợp bởi tiểu cầu,chủ yếu là ở phần
hạt, có thể là hạt tự do hoặc hạt dính vào màng. Yếu tố 3 tiểu cầu rất cần thiết để hình
thành thromboplastin ngoại sinh bằng cách tương tác với các yếu tố chống hemophilia.
Sau đó xúc tác cho quá trình chuyển prothrombin thành thrombin.
- Yếu tố 4: Còn gọi là yếu tố chống heparin, bản chất là một glycoprotein.Yếu
tố 4 có tác dụng trung hoà hoạt tính chống đông của heparin.
- Yếu tố 5: Là một yếu tố có khả năng làm đông máu, có lẽ tác dụng tương tự
fibrinogen.
- Yếu tố 6: còn gọi là yếu tố chống tiêu sợi huyết .
- Yếu tố 7: Là đồng yếu tố với thromboplastin vì nó có khả năng chuyển
prothrombin thành thrombin khi có một nồng độ thấp thromboplastin tổ chức, ion calci
hay yếu tố 5.
- Yếu tố 8: Là yếu tố chống thromboplastin của tiểu cầu . Trong đó hoạt tính
chống đông có liên quan đến phosphatidinserin.
- Yếu tố 9: Là yếu tố co rút giống như thrombosthenin tạo điều kiện cho sự co
cục máu tốt hơn.
- Yếu tố 10: Là serotonin không phải do tiểu cầu tạo ra mà do tiểu cầu hấp thu
được từ đường tiêu hoá. Serotonin có tác dụng gây co mạch do kích thích cơ trơn.
31
- Yếu tố 11: Là thromboplastin của tiểu cầu .
- Yếu tố 12: Chính là yếu tố XIII của huyết tương, là yếu tố ổn định sợi huyết
do chính tiểu cầu hấp thu lên bề mặt của nó.
- Yếu tố 13: Là ADP.
1.2.1.4. Đặc tính chính của tiểu cầu
* Khả năng hấp phụ và vận chuyển các chất:
Tiểu cầu có khả năng hấp phụ các chất trong huyết tương để tạo ra một lớp khí
quyển bao xung quanh. Nhờ đó các chất thiết yếu cho quá trình cầm máu nói chung và
đông máu nói riêng được vận chuyển đến những nơi cần thiết. Ví dụ: tiểu cầu có khả
năng hấp phụ adrenalin, noradrenalin và các yếu tố đông máu của huyết tương.
* Khả năng kết dính của tiểu cầu:
Tiểu cầu có khả năng dãn ra và dính vào một số bề mặt. Trong in-vitro thì tiểu
cầu không dính vào lớp tế bào nội mạc nhưng lại có thể dính rất nhanh với tổ chức
dưới nội mạc, đặc biệt là với collagen. Dính là sự khởi đầu cho sự bài tiết phóng thích
các chất hoạt động, là hiện tượng vật lý do lực hút tĩnh điện giữa tiểu cầu với cơ chất.
Hiện tượng dính tăng lên sau mổ, sau một sự phá huỷ tổ chức. Các chất ức chế sự dính
bám của tiểu cầu là promethazin, cocain, guinin, aspirin…
Hiện tượng dính của tiểu cầu có sự tham gia của một số yếu tố: ion calci, các
yếu tố huyết tương, yếu tố Von-Willebrand. Trong đó sự dính với collagen xảy ra
không cần sự có mặt của ion calci nhưng có vai trò quan trọng của yếu tố Von-
Willebrand…
* Khả năng gây ngưng tập tiểu cầu:
Tiểu cầu có khả năng gắn kết lẫn nhau tạo nên nút chận tiểu cầu, gọi là hiện
tượng ngưng tập tiểu cầu. Đây là một khả năng rất đặc biệt của tiểu cầu, thông qua
hiện tượng này mà tiểu cầu thực hiện chức năng của mình. Có nhiều chất có khả năng
gây ngưng tập tiểu cầu như: ADP, thrombin, adrenalin, … các chất này gọi là “chất
kích hoạt” tiểu cầu. Ngoài ra còn có một số chất khác như một số men hoà tan, phức
hợp kháng nguyên kháng thể, một số các vi khuẩn và virus….Các cơ chế gây ngưng
tập tiểu cầu:
- Giả thiết về vai trò ADP: bình thường các tiểu cầu được giữ không ngưng tập
nhờ năng lượng được tạo ra từ sự thoái hoá ATP thành ADP. Trong trường hợp
32
có nhiều ADP (như do đưa từ ngoài vào tiểu cầu) thì phản ứng này bị ức chế gây
ra thiếu năng lượng dẫn đến tiểu cầu bị ngưng tập.
ADP ngoại lai
↓(-)
ATP ADP AMP
Năng lượng
(-) Phosphatase
Xâm nhập Ngưng tập tiểu cầu
vào tiểu cầu
Adenosin
Sơ đồ 1. Cơ chế gây ngưng tập tiểu cầu của ADP
- Hiện nay nhiều tác giả đã chứng minh được vai trò của phospholipid màng mà cụ
thể hơn là của acid arachidonic: trong cơ chế này, ngưng tập tiểu cầu là kết quả
của sự tương tác giữa các yếu tố kích tập với phospholipid màng và các men
như:cyclo-oxygenase và thromboxan synthetase
33
ATPase Adenylakinase
Sơ đồ 1. Cơ chế gây ngưng tập tiểu cầu của throboxan A2
- Ngoài ra thrombin còn gây ngưng tập tiểu cầu qua một cơ chế khác nữa:
thrombin đã tác động lên yếu tố 5 có trên bề mặt tiểu cầu, nhờ đó mà gây ra
ngưng tập tiểu cầu. Bởi vậy khi dùng men trypsin để thủy phân yếu tố 5 của tiểu
cầu thì tiểu cầu không còn ngưng tập nữa.
- Adrenalin và noradrenalin gây ngưng tập qua hai cơ chế: Gián tiếp qua ADP do
gây ra sự phóng thích ADP; và trực tiếp kích thích sự ngưng tập qua vai trò của
acid arachidonic.
34
Chú thích: (+) Thúc đẩy, xúc tác (-) Ức chế
Cyclo – oxygenase(của tiểu cầu và tế bào nội mạc)
PHOSPHOLIPID
ACID ARACHIDONIC
Các endoperoxyde(PGG2 – PGH2)
NGƯNG TẬP TIỂU CẦU
Prostacylin (PGI2) Thromboxan A2
AMP
AMPc
CẦM MÁU
ATP
Adenylate
cyclase
ProstacyclinSynthetase
(của tế bào nội mạc)
ThromboxanSynthetase
(của các tiểu cầu)
Phospho - diesterase
(+)
(-)
Phospholipase ADP(+)
ADP (-)
Cơ chế gây ngưng tập phải qua trung gian liên kết của fibrinogen với GPIIb/IIIa
đã hoạt hoá có mặt ở lớp ngoài của màng bào tương. Bình thường phức hợp GPIIb/IIIa
được phân bố đều trên màng bào tương của tế bào tiểu cầu. Khi tiểu cầu hoạt hóa do
sự dịch chuyển của màng tiểu cầu, các phức hợp GPIIb/IIIa được bộc lộ, chúng sẽ gắn
với nhiều protein huyết tương như fibrinogen, Von-Willebrand… theo nguyên tắc là
đã gắn với loại protein này thì loại trừ khả năng gắn với protein khác. Tuy nhiên
GPIIb/IIIa gắn với fibrinogen là chủ yếu vì fibrinogen có nồng độ tập độ cao nhất ở
trong huyết tương và GPIIb/IIIa có ái lực với fibrinogen là mạnh nhất Như vậy
fibrinogen được xem như là một cầu nối những GPIIb/IIIa của các tiểu cầu với nhau
và do đó tạo ra được sự ngưng tập tiểu cầu. Điều kiện để tiểu cầu ngưng tập phải là
màng tiểu cầu phải nguyên vẹn không bị tổn thương và có mặt một số yếu tố huyết
tương đặc biệt là fibrinogen.
* Khả năng thay đổi hình dạng và phóng thích các chất:
Khi được hoạt hóa (sau khi kết dính), tiểu cầu có khả năng thay đổi hình dạng
và bài xuất ra các chất.
1.2.1.5. Chức năng của tiểu cầu
Tiểu cầu đã thực hiện một cách rất hiệu quả các chức năng sau
- Tham gia vào quá trình cầm máu: Nhờ có khả năng kết dính, ngưng tập, phóng
thích các chất mà tiểu cầu có thể tham gia rất tích cực vào quá trình cầm máu thì
đầu. Bên cạnh đó tiểu cầu còn tham gia vào quá trình đông máu qua một số cơ
chế sau:
+ Ngay khi tiếp xúc với collagen, bên cạnh việc kết dính và ngưng tập, tại màng
tiểu cầu đã xảy ra hiện tượng chuyển yếu tố XI thành XIa để khởi động quá
trình đông máu.
+ Sau khi có hiện tượng thay hình đổi dạng thì tiểu cầu phóng thích ra yếu tố 3
tiểu cầu - đó là yếu tố có vai trò rất quan trọng trong việc tạo phức hợp IXa,
VIIIa và Ca++ trong thác đông máu.
- Bảo vệ nội mô: Tiểu cầu rất cần thiết cho sự trọn vẹn của thành mạch. Dễ thấy
rằng ở những bệnh nhân có số lượng tiểu cầu giảm ( Đặc biệt khi < 50 x 10 g/l thì
tính bền vững của thành mạch không còn nữa, bệnh nhân rất dễ bị xuất huyết).
Hoặc những bệnh nhân bị giảm tiểu cầu nếu được truyền tiểu cầu thì sức bền
của thành mạch cũng tăng lên. Cơ chế để tiểu cầu củng cố thành mạch là do tiểu
35
cầu có khả năng làm non hoá các tế bào nội mạc và củng cố màng của nội mạc
qua vai trò của yếu tố tăng trưởng tế bào nội mạc nguồn gốc từ tiểu cầu.
- Ngoài ra, trung hòa hoạt động chống đông của heparin, tổng hợp protein và lipid,
đáp ứng viêm...
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến đông máu
Hệ thống đông máu trong huyết tương và mô gồm hai thành phần: các yếu tố
gây đông và các yếu tố chống đông. Máu đông hay không là tùy thuộc vào sự cân bằng
giữa hai nhóm chất này. Bình thường các chất chống đông hoạt động mạnh hơn và
máu luôn ở thể lỏng.
1.2.2.1. Các yếu tố đông máu
Hội nghị quốc tế về đông máu năm 1959 qui định dùng các chữ số la mã để gọi
tên 12 yếu tố đông máu. Ngoài 12 protein này, gần đây đã xác định thêm 2 protein
không mang chữ số la mã. Các yếu tố đông máu có sẵn trong máu (trừ yếu tố III)
nhưng đều ở dạng chưa hoạt động. Khi một yếu tố được hoạt hóa sẽ khởi động các yếu
tố khác, kết quả là chuyển fibrinogen thành fibrin và làm cho máu đông.
Bảng 2. Các đặc điểm chính của các yếu tố đông máu
Yếu tố đông máu Chức năng Tổng hợp Phân bố T1/2 (giờ)I (fibrinogen) Tiền fibrin Tế bào gan
Mẫu tiểu cầu
Huyết tương
Tiểu cầu
120
II (prothrombin) Tiền enzym Tế bào gan Huyết tương 80III (thromboplastin,
yếu tố tổ chức)
Đồng yếu tố Các mô Các mô, các chất
nền
-
IV (Ca++)V (proaccelerin) Tiền enzym Tế bào gan
Mẫu tiểu cầu
Huyết tương
Tiểu cầu
24
VII (proconvertin) Tiền enzym Tế bào gan Huyết tương 6VIII (yếu tố chống
hemophilia A)
Đồng yếu tố Nội mạc Huyết tương
(liên kết với
Von-Willebrand)
12
IX (yếu tố chống
hemophilia B)
Tiền enzym Tế bào gan Huyết tương 24
X (yếu tố Stuart) Tiền enzym Tế bào gan Huyết tương 48XI (Rosenthal) Tiền enzym Tế bào gan Huyết tương 60XII (Hageman) Tiền enzym Tế bào gan Huyết tương 60XIII (yếu tố ổn định
fibrin)
Tiền enzym Tế bào gan Huyết tương 240
36
Prekallikrein (yếu
tố Fletcher)
Tiền enzym Tế bào gan Huyết tương 35
Kininogen trọng
lượng phân tử cao
(yếu tố Fitzgerald)
Đồng yếu tố Tế bào gan Huyết tương 150
Các yếu tố đông máu có thể được chia thành các nhóm sau:
- Nhóm các yếu tố tiếp xúc: gồm các yếu tố XI, XII, prekallikrein, kininogen tham
gia vào giai đoạn đầu đông máu là giai đoạn tiếp xúc. Chúng có đặc tính không
phụ thuộc vào vitamin K khi tổng hợp, không phụ thuộc vào Ca++ trong quá trình
hoạt hóa, ổn định tốt trong huyết tương lưu trữ và là những yếu tố bền vững.
- Nhóm prothrombin: gồm các yếu tố II, VII, IX, X. Chúng có đặc tính phụ thuộc
vào vitamin K khi tổng hợp, cần có vào Ca++ trong quá trình hoạt hóa, ổn định
trong huyết tương lưu trữ và không bị tiêu thụ trong quá trình đông máu trừ yếu
tố II (có mặt trong huyết thanh).
- Nhóm fibrinogen: gồm các yếu tố I, V, VIII, XIII. Chúng có đặc tính tác dụng
qua lại với thrombin, bị tiêu thụ trong quá trình đông máu (không có mặt trong
huyết thanh), yếu tố V và VIII mất hoạt tính trong huyết tương lưu trữ.
- Yếu tố tổ chức: đây không phải là yếu tố của huyết tương và cũng không có hoạt
tính men mà tác động như một đồng yếu tố trong hoạt hóa yếu tố VII, X.
- Ca++: ion này tạo thuận lợi cho các protein phụ thuộc vitamin K kết hợp với
phospholipid đồng thời cũng can thiệp vào các phản ứng không liên quan đến các
protein phụ thuộc vitamin K. Ca++ cũng cần thiết cho sự thể hiện hoạt tính men
của yếu tố XIIIa, cho sự ổn định yếu tố V và phức hệ yếu tố Von-Willebrand-yếu
tố VIII.
1.2.2.2. Các yếu tố chống đông máu
Các yếu tố chống đông có vai trò chủ yếu trong việc ngăn cản sự khởi phát
đông máu không thích hợp cũng như điều hòa giảm sinh thrombin ở vị trí tổn thương.
Bảng 3. Các đặc điểm chính của các yếu tố chống đông máu
Yếu tố đông máu Chức năng Tổng hợp Phân bố T1/2 (giờ)Antithrombin Yếu tố ức
chế
Tế bào gan Huyết tương
Nội mạc
60
Protein C Tiền enzym Tế bào gan(*) Huyết tương 6Protein S Đồng yếu tố Tế bào gan(*) Huyết tương đặc ?
37
Mẫu tiểu cầu biệt liên kết với
C4 BP tiểu cầuChất ức chế con
đường yếu tố tổ
chức (TFPI)
Yếu tố ức
chế
Nội mạc Huyết tương
Nội mạc
?
Cơ chế chống đông
- TFPI: ức chế phức hợp khởi đầu
- Antithrombin: ức chế trực tiếp các serin protease hoạt động.
- Con đường protein C: protein C với protein S là đồng yếu tố cùng với sự hiện
diện của Ca++, phospholipid sẽ cắt các yếu tố Va và VIIIa làm các chất này mất
chức năng đồng yếu tố của chúng.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiêu sợi huyết
Hệ thống tiêu sợi huyết của huyết tương gồm hai thành phần: các yếu tố gây
tiêu sợi huyết và các yếu tố ức chế tiêu sợi huyết
1.2.3.1. Các yếu tố gây tiêu sợi huyết
- Plasminogen: gan tổng hợp plasminogen dưới dạng một tiền enzym có trọng
lượng phân tử 92.000M tuần hoàn trong huyết tương với nồng độ 1,5µM. Thời
gian bán hủy của plasminogen khoảng 2 ngày.
- Các yếu tố hoạt hóa plasminogen:
+ Yếu tố hoạt hóa plaminogen tổ chức (t-PA: tissue plasminogen activator):
được tổng hợp và bài tiết chủ yếu bởi các tế bào nội mạc dưới sự kiểm soát
của thrombin, histamin, bradykinin, epinephrin, acetylcholin, vasopressin,
hormon hướng sinh dục, nghẽn tĩnh mạch và lực xé động mạch. t-PA có trọng
lượng phân tử 72.000M, thời gian bán hủy khoảng 5 phút.
+ Urokinase (u-PA): được tổng hợp và bài tiết bởi tế bào nội mạc, đại thực bào,
các tế bào biểu mô thận và một số tế bào khối u. u-PA có ái lực đối với fibrin
kém hơn t-PA và là yếu tố hoạt hóa plaminogen hiệu quả trong trường hợp có
hay không có fibrin.
+ Các yếu tố hoạt hóa plasminogen khác: trong một số trường hợp, các men
protease của con đường đông máu có khả năng hoạt hóa trực tiếp
plasminogen. Đó là kalikrein, yếu tố XIa và yếu tố XIIa .
1.2.3.2. Các yếu tố ức chế tiêu sợi huyết
38
- Các yếu tố ức chế plasmin:
+ Các serpin như α2-antiplasmin (α2-AP): là một glycoprotein, trọng lượng phân
tử 70.000, nồng độ 0,9µM với thời gian bán hủy 48 giờ. α2-AP chứa trong hạt
α của tiểu cầu, khi được phóng thích ra ngoài sẽ tạo thành một phức hợp
không hồi phục với plamin.
+ α2-macroglobulin: là một protein nhị phân trọng lượng phân tử 725.000, được
tổng hợp bởi các tế bào nội mạc, đại thực bào và tìm thấy trong các hạt α của
tiểu cầu. α2-macroglobulin kết hợp với plasmin và gây ức chế nó.
- Các yếu tố ức chế hoạt hóa plasminogen:
+ Yếu tố ức chế hoạt hóa plasminogen-1 (PAI-1: plasminogen-activator
inhibitor-1): là một glycoprotein, trọng lượng phân tử 52.000, được phóng
thích từ tế bào nộ mạc, mono, đại thực bào, tế bào gan, tế bào mỡ và tiểu cầu.
+ Yếu tố ức chế hoạt hóa plasminogen-2 (PAI-2: plasminogen-activator
inhibitor-1): là một glycoprotein, trọng lượng phân tử 60.000, được phóng
thích từ bạch cầu và tế bào u sarcom sợi. PAI-2 chỉ được phát hiện trong huyết
tương người trong quá trình thai nghén.
2. CÁC GIAI ĐOẠN VÀ CƠ CHẾ CẦM MÁU
Có 4 cơ chế tham gia vào quá trình cầm máu hay còn gọi là 4 giai đoạn: co
mạch tại chỗ, tạo nút tiểu cầu, tạo cục máu đông, co và tan cục máu đông. Trong đó,
co mạch tại chỗ và hình thành nút tiểu cầu được gọi là cầm máu thì đầu.
2.1. Co thành mạch
Ngay sau khi mạch máu bị tổn thương, thành mạch sẽ co thắt lại làm giảm
lượng máu bị mất qua chỗ tổn thương. Sự co thắt này kéo dài và mạnh ở các động
mạch, tĩnh mạch lớn. Điều kiện để co mạch tốt là thành mạch phải vững chắc và có
khả năng đàn hồi tốt, khi thiếu một trong hai điều kiện này sẽ gây chảy máu bất
thường trên lâm sàng. Sự co thắt mạch máu xảy ra do kết quả của phản xạ thần kinh và
do sự co thắt cơ tại chỗ.
- Phản xạ thần kinh gây co mạch được phát động do những xung động đau từ nơi
tổn thương truyền về.
- Sự co thành mạch tại chỗ tổn thương do sự xuất hiện điện thế hoạt động tại nơi
đó. Điện thế hoạt động xuất hiện, lan dọc theo thành mạch gây co thắt mạch.
39
Càng nhiều mạch máu bị tổn thương thì mức độ co thắt càng lớn. Co mạch tại
chỗ có thể kéo dài từ 20 – 30 phút, tạo điều kiện cho tiểu cầu kết dính và kết tụ
vào nơi tổn thương.
- Co mạch còn do tiểu cầu bài tiết ra serotonin, adrenalin và thromboxan A2.
2.2. Nút chặn tiểu cầu
Nút chặn tiểu cầu được thành lập để bịt kín chỗ tổn thương trên thành mạch.
Quá trình này diễn ra qua nhiều hiện tượng.
2.2.1. Hiện tượng kết dính tiểu cầu
Kết dính là khả năng tiểu cầu bám thành một lớp đơn trên mạch máu bị tổn
thương. Cơ chế như sau:
- Khi mạch máu bị tổn thương bộc lộ lớp dưới nội mạc. Tiểu cầu kết dính vào các
cấu trúc dưới nội mạc qua protein kết dính Von-Willebrand đã được hấp thụ trên
các sợi collagen và GPIb trên màng tiểu cầu.
- Hồng cầu sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự kết dính này. Do đường kính lớn,
hồng cầu nằm ở phần trung tâm của mạch máu và đẩy ra ngoại vi các phần tử
nhỏ hơn như tiểu cầu. Kết quả là tiểu cầu cơ nhiều khả năng tương tác với thành
mạch. Trong trường hợp thiếu máu, hematocrit <25%, thời gian máu chảy bị kéo
dài.
2.2.2. Hiện tượng hoạt hóa tiểu cầu
Hiện tượng kết dính làm cho tiểu cầu được hoạt hóa. Tác nhân gây hoạt hóa tiểu
cầu mạnh nhất là collagen và thrombin. Sau khi hoạt hóa, tiểu cầu phóng thích ra nhiều
chất như ADP, thromboxan A2 và serotonin. Các phân tử này sẽ khuếch đại sự hoạt
hóa. Cơ chế của sự hoạt hóa là do sự kích hoạt men phospholipase C dẫn đến hình
thành diacylglycerol (DG) và inositol-triphosphat (IP3) làm tăng nồng độ Ca++ nội bào.
AMPc điều hòa sự hoạt hóa thông qua việc kiểm soát nồng độ Ca++ nội bào dự trữ. Sự
hoạt hóa được thể hiện thông qua sự biến đổi về hình thái và phóng xuất các chất trong
tiểu cầu:
- Thay đổi hình thái: từ dạng hình đĩa, tiểu cầu thay đổi hình dạng, trở nên hình
cầu, xuất hiện giả túc và các lỗ thủng, các hạt tập trung vào trung tâm và bắt đầu
bài xuất.
40
- Phản ứng phóng xuất: các hoạt chất tồn trữ bên trong hạt đậm và hạt alpha được
phóng xuất ra ngoài. Sau giai đoạn phóng xuất, tiểu cầu dường như “trống rỗng”,
mất hạt.
2.2.3. Hiện tượng ngưng tập tiểu cầu
Ngưng tập là khả năng các tiểu cầu kết dính lại với nhau thành một khối. Cơ
chế như sau:
- Khi được hoạt hóa tiểu cầu sẽ bộc lộ phức hệ GPIIb/IIIa, phức hệ này sẽ gắn kết
với fibrinogen. Nhờ có cấu trúc như một phân tử kép nên fibrinogen trở thành
cầu nối giữa hai tiểu cầu. Trong một số hoàn cảnh, đặc biệt là ở những vùng
mạch máu bị hẹp, lực xé mạnh, yếu tố Von-Willebrand có thể thay thế fibrinogen
gây ngưng tập tiểu cầu.
- Thrombospondin, có nhiều trong tiểu cầu, tham gia vào việc làm vững chắc cầu
nối GPIIb/IIIa-fibrinogen.
2..2.4. Hiện tượng co cục máu
Cục tiểu cầu lúc đầu mong manh, dễ bị dòng máu chảy cuốn trôi, sau đó sẽ trở
nên chắc chắn nhờ hiện tượng co cục máu. Tiểu cầu có vai trò quan trọng trong hiện
tượng co cục máu do hệ thống actin – myosin và cấu trúc sườn cơ bản của tế bào chất
tiểu cầu. Vì vậy giảm tiểu cầu về mặt số lượng hay chất lượng sẽ làm cho thời gian co
cục máu kéo dài.
2.3. Đông máu
Nút chận tiểu cầu chỉ đảm bảo cầm máu tạm thời ở những mạch máu nhỏ. Để
cầm máu ở những mạch máu lớn bị tổn thương cần phải có sự hình thành cục máu
đông. Trên cơ sở nút chận tiểu cầu, quá trình đông máu sẽ được khởi phát nhờ các yếu
tố đông máu của huyết tương, tiểu cầu và của mô giải phóng ra. Bình thường máu lưu
thông trong mạch máu ở thể lỏng và không bị đông là nhờ:
- Sự lành mạnh của thành mạch: thành mạch nhẵn, không cản trở sự lưu thông của
máu.
- Máu có tốc độ lưu thông nhất định.
- Trong máu có những chất chống đông: antithrombin, heparin… Khi một trong ba
yếu tố trên bị thay đổi, máu có thể bị đông lại trong mạch máu và gây tắc mạch.
Đông máu là một hiện tượng thay đổi lý tính của máu từ trạng thái lỏng sang
trạng thái gel biểu hiện bằng sự tạo thành cục máu. Sự chuyển trạng thái này xảy ra
41
bởi một quá trình biến đổi các protein trong máu và tự xúc tác. Đông máu xảy ra qua 3
giai đoạn liên tiếp nhau.
2.3.1. Giai đoạn 1: Thành lập phức hợp men prothrombinase
Đây là giai đoạn phức tạp và kéo dài nhất trong dây chuyền phản ứng gây đông
máu. Prothrombinase được thành lập theo hai đường: nội sinh và ngoại sinh.
2.3.1.1. Đường ngoại sinh
Khi mạch máu tổn thương máu sẽ tiếp xúc với nơi bị tổn thương. Mô tổn
thương sẽ giải phóng ra yếu tố III. Yếu tố III sẽ hoạt hóa yếu tố VII. Yếu tố III cùng
với yếu tố VII hoạt hóa, với sự có mặt của ion Ca++ làm hoạt hoá yếu tố X. Yếu tố X
hoạt hoá cùng với phospholipid, ion Ca++ và yếu tố V hoạt hoá (được hoạt hóa bởi
thrombin đã hình thành rất sớm) tạo ra phức hợp prothrombinase ngoại sinh.
2.3.1.2. Đường nội sinh
Kích hoạt bằng nhóm các yếu tố đông máu tiếp xúc: yếu tố XII, kininogen cao
phân tử (yếu tố Fitzerald), prekallicrein (yếu tố Fletcher), yếu tố XI.
Yếu tố Fitzerald tiếp xúc trực tiếp vào thành mạch, tiếp nhận thông tin về “tình
trạng bề mặt thành mạch”, nếu có sự “khác bình thường” thì kích hoạt yếu tố XII tạo
yếu tố XII hoạt hóa (XIIa). Yếu tố XIIa kích hoạt prekallicrein thành kallicrein và chất
này có khả năng kích hoạt ngược lại yếu tố XII (hiện tượng tự khuếch đại). Yếu tố XII
hoạt hóa sẽ hoạt hóa yếu tố XI. Yếu tố XI hoạt hoá cùng với Ca++ hoạt hóa yếu tố IX.
Yếu tố IX hoạt hóa cùng với yếu tố VIII hoạt hóa (do thrombin hoạt hóa) và
phospholipid của tiểu cầu, Ca++ hoạt hoá yếu tố X. Yếu tố X hoạt hóa cùng với yếu tố
V hoạt hóa (bởi thrombin), Ca++ và phospholipid tiểu cầu tạo ra phức hợp men
prothrombinase.
2.3.2. Giai đoạn 2: Thành lập thrombin
Phức hợp men Prothrombinase tạo thành sẽ xúc tác cho phản ứng chuyển
prothrombin thành thrombin. Phản ứng này xảy ra trong vài giây.
Thrombin đóng vai trò quan trọng trong các phản ứng của quá trình đông máu:
- Thành lập fibrin: thrombin co vai trò chuyển fibrinogen thành fibrin, hoạt hóa
yếu tố XIII ổn định sợi huyết.
42
- Làm tăng tốc độ hình thành của bản thân (tự khuếch đại): thrombin gây hoạt hóa
yếu tố VIII dẫn đến gia tăng sự hình thành yếu tố Xa bằng cả hai con đường nội
sinh và ngoại sinh. Nó cũng hoạt hóa yếu tố V
2.3.3. Giai đoạn 3: Thành lập fibrin
Thrombin thủy phân phân tử fibrinogen để tạo thành các monomer của fibrin và
các fibrinopeptid (A và B). các monomer của fibrin tự trùng hợp tạo thành phân tử
fibrin S (fibrin hòa tan). Cuối cùng yếu tố XIII họat hoá làm cho mạng lưới polymer
của fibrin S thành fibrin I ổn định (fibrin không hòa tan).
Sơ đồ 3. Đông máu
2.4. Tiêu sợi huyết
Fibrin tạo ra có vai trò hạn chế là cầm máu, và mạng fibrin hay cục máu cầm
phải biến mất “đúng lúc” để tái lập lưu thông. Do đó cần có sự hiện diện của hệ tiêu
sợi huyết, có tác dụng dọn sạch các cục máu đông nhỏ ly ti trong lòng mạch máu, ngăn
ngừa sự hình thành huyết khối gây tắc mạch.
Hiện tượng tiêu sợi huyết làm cục máu tan dần do các sợi fibrin bị phân ly dưới
tác dụng của plasmin – một enzyme tiêu protein rất mạnh, mà tiền chất của nó là
plasminogen.
43
Sau khi sợi huyết tiêu hoàn toàn, thành mạch trở lại lành mạnh, máu lưu thông
bình thường.
Plasminogen được hoạt hóa thành plasmin bởi các chất sau:
• Thrombin
• Yếu tố XII hoạt hoá
• Các enzyme của lysosom từ các mô tổn thương.
• Những yếu tố hoạt hóa do tế bào nội mô thành mạch bài tiết.
• Men urokinase của tổ chức thận
• Độc tố của vi khuẩn: streptokinase của liên cầu khuẩn.
3. CÁC XÉT NGHIỆM ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH CẦM MÁU
3.1. Các xét nghiệm đánh giá cầm máu ban đầu
- Thời gian máu chảy (TS)
- Nghiệm pháp dây thắt (Lacet): đánh giá sức bền mao mạch
- Các xét nghiệm đánh giá số lượng và chất lượng tiểu cầu:
+ Đếm số lượng tiểu cầu
+ Phết máu ngoại vi
+ Co cục máu
+ Đo độ kết dính tiểu cầu
+ Đo độ ngưng tập tiểu cầu
+ Các yếu tố tiểu cầu
3.2. Các xét nghiệm đánh giá đông máu
- Đông máu ngoại sinh:
+ Tỷ lệ phức hệ prothrombin
+ Định lượng yếu tố II, V, VII, X.
- Đông máu nội sinh:
+ Thời gian phục hồi calci của huyết tương (Howell)
+ APTT (thời gian sinh thromboplastin hoạt hóa từng phần)
+ Định lượng yếu tố VIII, IX, XI và các yếu tố tiếp xúc
- Giai đoạn hình thành fibrin:
+ Định lượng fibrinogen, yếu tố XIII
44
+ Thời gian thrombin
3.3. Các xét nghiệm đánh giá tiêu sợi huyết, đông máu nội mạch rải rác, tăng
đông
4. CÁC BỆNH LÝ LIÊN QUAN
4.1. Các bệnh lý tiểu cầu
Có nhiều bệnh lý của tiểu cầu, trong đó thường gặp nhất là xuất huyết giảm tiểu
cầu. Xuất huyết giảm tiểu cầu có nhiều nguyên nhân, do đó có nhiều cách xếp loại
- Xuất huyết giảm tiểu cầu do giảm số lượng:
+ Giảm sản xuất tại tủy: hóa chất, tia xạ...
+ Tăng tiêu hủy ở ngoại vi: miễn dịch, rối loạn đông máu nội mạch, huyết khối,
cường lách.
- Xuất huyết giảm tiểu cầu do rối loạn chất lượng:
+ Do di truyền: bệnh Glanzmann (giảm GPIIb/IIIa), hội chứng Bernard Soulier
(giảm GPIb)
+ Mắc phải: điều trị bằng heparin, tăng γ globulin, hội chứng tăng sinh tủy, tăng
urê máu.
4.2. Hội chứng mất sợi huyết-đông máu nội mạch rải rác
Đông máu nội mạch rải rác là một hội chứng rối loạn đông máu mắc phải thuộc
nhóm huyết khối-chảy máu, thứ phát sau nhiều quá trình bệnh lý khác, là kết quả của
tiêu thụ nhiều tiểu cầu và các yếu tố đông máu, đặc biệt là fibrinogen. Bệnh nhân có
biểu hiện điển hình là chảy máu ở nhiều nơi, ngoài ra còn có thể bị tắc mạch.
45
Hoạt hóa quá trình đông máu
↓
Đông máu rải rác trong lòng mạch
Dính tiểu cầu TSH thứ phát
↓
Tiêu thụ các Tăng plasmin
Yếu tố đông máu ↓
Giảm tiểu cầu Tăng tiêu sợi huyết
↓
FDP
Hội chứng chảy máu
Sơ đồ 4. Cơ chế bệnh sinh của đông máu nội mạch rải rác
4.3. Tăng đông và huyết khối
4.3.1. Tăng đông
- Tăng đông tiên phát
+ Thiếu hụt antithrombin III: di truyền trội, nhiễm sắc thể thường
+ Thiếu hụt protein C: di truyền trội, nhiễm sắc thể thường
+ Thiếu hụt protein S: đồng yếu tố của protein C hoạt hóa do vậy giống thiếu hụt
protein C
+ Kháng protein C hoạt hóa: đột biến yếu tố V Leiden
- Tăng đông thứ phát:
+ Do bất thường thành mạch: xơ vữa động mạch, tăng huyết áp...
+ Do bất thường dòng chảy: ứ trệ do bất động lâu ngày, chèn ép, sốc...
+ Tăng nồng độ hoặc mức độ hoạt hóa yếu tố đông máu, giảm hệ thống ức chế
đông máu và hệ thống tiêu sợi huyết: lupus, hội chứng thạn hư...
4.3.2. Sinh bệnh học của huyết khối
- Huyết khối động mạch: thành phần chủ yếu của cục đông là tiểu cầu, sau đó mới
là fibrin và những thành phần khác. Tổn thương thành mạch và hoạt hóa tiểu cầu
đóng vai trò chủ yếu trong tăng đông gây huyết khối động mạch. Các yếu tố nguy
46
cơ thường gặp là tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid, hút thuốc, cao
tuổi...
- Huyết khối tĩnh mạch: thành phần chính là fibrin. Tăng đông do giảm các chất ức
chế sinh lý đông máu (antithrombin III, protein C, protein S...) hoặc tăng hoạt
hóa các yếu tố đông máu (hoạt hóa yếu tố đông máu bởi yếu tố tổ chức sau phẫu
thuật, tai biến sản khoa...) là nguyên nhân chính gây huyết khối. Một tình trạng
bất động, nhiễm trùng, có thai ... sẽ làm tăng khả năng bị huyết khối tĩnh mạch ở
những bệnh nhân này.
- Huyết khối ở các vi quản: thường gặp ở bệnh nhân DIC, xuất huyết giảm tiểu cầu
huyết khối. Co chế gây nên bởi đa yếu tố: thành mạch, tiểu cầu, hoạt hóa yếu tố
đông máu huyết tương.
4.3.3. Điều trị huyết khối
- Thuốc kháng tiểu cầu: aspirin, dipyridamol, ticlopidin.
- Thuốc chống đông: heparin, coumarin
- Thuốc tiêu sợi huyết: streptokinase, urokinase, t-PA
4.4. Bệnh hemophillia
Bệnh hemophilia là bệnh ưa chảy máu (máu khó đông) do thiếu (hay bất
thường) các yếu tố tạo thành thromboplastin nội sinh đó là các yếu tố VIII (hemophilia
A), IX (hemophilia B) hay XI (hemophilia C). Đây là những bệnh di truyền.
47
SINH LÝ NIÊM MẠC ĐƯỜNG HÔ HẤP
1. ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐƯỜNG HÔ HẤP
1.1. Phân chia đường hô hấp
Đường hô hấp được chia làm hai phần là đường hô hấp trên và đường hô hấp
dưới.
1.1.1. Đường hô hấp trên
- Mũi: là phần đầu tiên của bộ phận hô hấp có nhiệm vụ dẫn khí, sưởi ấm, làm ẩm
và lọc sạch nguồn không khí qua mũi. Mũi còn là cơ quan khứu giác để ngửi.
- Hầu: là ngã tư của đường hô hấp và đường tiêu hóa. Hầu được chia làm 3 phần:
phần mũi (tị hầu), phần miệng (khẩu hầu), thanh hầu.
- Thanh quản: thanh quản là một ống ở trên liên tục với hầu và ở dưới nối với khí
quản. Thanh quản có hai nhiệm vụ phát âm và dẫn khí.
1.1.2. Đường hô hấp dưới
- Khí quản: khí quản là ống dẫn khí nằm trong cổ và ngực.
- Phế quản và tiểu phế quản: chia thành nhiều thế hệ
+ Từ thế hệ 0 (khí quản)-16 (tiểu phế quản tận cùng) chỉ làm nhiệm vụ dẫn khí.
+ Từ thế hệ 17-19 (tiểu phế quản hô hấp), thế hệ 20-22 (ống phế nang) và thế hệ
23 (phế nang), trên đường dẫn khí đã có phế nang nên làm thêm nhiệm vụ trao
đổi khí.
1.2. Mô học của niêm mạc và các tuyến đường hô hấp
1.2.1. Mô học của niêm mạc đường hô hấp
Niêm mạc nằm phía trong cùng của đường hô hấp, có nhiều nếp gấp làm cho
lòng ống hô hấp nhăn nhúm gồm hai lớp biểu mô và lớp đệm.
- Lớp đệm: là một mạng lưới các sợi mô liên kết thưa, có đủ các loại sợi của mô
liên kết, ít tế bào lympho.
- Biểu mô: biểu mô niêm mạc đường hô hấp tựa trên màng đáy có cấu trúc khác
nhau tùy theo từng vùng và chức năng của nó nhưng nhìn chung là loại biểu mô
trụ giả tầng có lông chuyển, vào đến tiểu phế quản tận là biểu mô vuông đơn.
Biểu mô của những xoang cạnh mũi nối thông với khoang mũi cũng là biểu mô
trụ có lông chuyển. Biểu mô ở phế quản dày khoảng 5µm. Tế bào của biểu mô
48
niêm mạc đường hô hấp có đời sống dài, sự thoái hóa tế bào tương đối ít vì vậy
tỷ lệ đổi mới ở đây chậm. Các loại tế bào biểu mô đường hô hấp gồm:
+ Tế bào có lông chuyển: là những tế bào hình trụ phủ suốt từ mũi đến các tiểu
phế quản, trung bình 5 lần nhiều hơn các tế bào đài. Bộ golgi và lưới nội bào
kém phát triển. Bề mặt tế bào có vi nhung mao, trên các vi nhung mao có các
lông chuyển. Mỗi tế bào có khoảng 200 lông là những nhánh bào tương dài từ
5-7µm, đường kính khoảng 0,25µm.
+ Tế bào tiết nhầy: là những tế bào hình đài, bào tương có lưới nội bào rất phát
triển và giàu hạt chế tiết. Tế bào hình đài bài tiết ra lớp dịch nhầy phủ lên bề
mặt tế bào biểu mô.
+ Tế bào tiết thanh dịch: là những tế bào hình dáng đa dạng, bào tương có lưới
nội bào và các hạt chế tiết phát triển. Sản phẩm của các tế bào này là thanh
dịch có độ quánh thấp, chủ yếu là nước, ion bao quanh các lông chuyển.
+ Tế bào mâm khía: là những tế bào ở mặt ngọn có các vi nhung mao cao
khoảng 2µm, hướng vào trong lòng ống hô hấp. Trong trục của các vi nhung
mao có các sợi actin chạy dài. Bào tương tế bào mâm khía không có hạt chế
tiết nhưng giàu lưới nội bào không hạt, glycogen và không bào. Chức năng
của các tế bào mâm khía chưa được xác định rõ, có lẽ là những thụ thể cảm
giác.
+ Tế bào trung gian: là loại tế bào đang biệt hóa thành tế bào có lông chuyển
hoặc tế bào chế tiết.
+ Tế bào đáy: là những tế bào hình tháp nhỏ, thường thấy ở khoảng cách giữa
chân các tế bào trụ, ngay trên màng đáy. Tế bào đáy ít bào quan và là những tế
bào nguồn có thể biệt hóa để thay thế cho các tế bào phía trên.
+ Tế bào Clara: là những tế bào không có lông chuyển, nhưng mặt ngọn tế bào
có những vi nhung mao ngắn hướng vào lòng ống hô hấp. Tế bào Clara nằm
rải rác trong lớp biểu mô, không tiết nhầy mà tiết ra chất surfactant. Các tế bào
này có khả năng tái tạo biểu mô của tiểu phế quản sau khi bị tổn thương.
+ Tế bào nội tiết (tế bào Kultschitzky): là những tế bào có hạt chế tiết nhỏ, đứng
thành từng đám và liên hệ với đầu tận cùng thần kinh. Chúng được coi là
49
những thụ thể hóa học. Có thể có nhiều loại tế bào bài tiết ra các nội tiết tố
khác nhau trong đó có catecholamin.
Hình 1. Niêm mạc đường hô hấp
1.2.2. Các tuyến đường hô hấp
Các tuyến của đường hô hấp là những tuyến ngoại tiết hỗn hợp nằm trong mô
liên kết của tầng dưới niêm mạc khí quản và phế quản gốc. Các tuyến gồm có hai
phần:
- Phần chế tiết: cấu tạo dạng nang, thành nang là các tế bào tiết dịch gồm cả tế bào
tiết nhầy và tế bào tiết thanh dịch. Phía ngoài tế bào chế tiết là các tế bào cơ biểu
mô.
- Phần ống dẫn: mỗi nang có một ống dẫn đổ dịch ra bên ngoài. Ở khí quản,
khoảng một chục ống dẫn mở chung vào một nhánh ống bài xuất, nhiều nhánh
ống bài xuất mở chung vào ống bài xuất lớn đổ lên bê mặt biểu mô hô hấp. Vào
đến phế quản, các ống dẫn mở thẳng vào lòng phế quản.
1.3. Chức năng của đường hô hấp
Đường hô hấp thực hiện nhiều chức năng quan trọng như:
- Làm đường dẫn và điều hoà lưu lượng khí ra vào phổi: để đảm bảo là đường dẫn
cho khí ra vào phổi trong các thì hô hấp đường dẫn khí phải luôn mở rộng không
bị xẹp. Chức năng này được thực hiện nhờ các vòng sụn ở khí quản, phế quản.
Các tiểu phế quản không có vòng sụn nhưng vẫn nở rộng là nhờ áp suất xuyên
phổi. Tuy nhiên đường hô hấp không làm chức năng dẫn khí một cách thụ động
mà nó còn điều hoà lưu lượng khí ra vào phổi là nhờ các tiểu phế quản có sợi cơ
50
Tế bào lông
Tế bào chế tiết
Lớp đệm
trơn (cơ Reissessen). Khi cơ co dãn có thể làm thay đổi thiết diện các tiểu phế
quản dẫn đến thay đổi lưu lượng khí.
- Làm ẩm khí vào phổi: nhờ các tế bào tiết dịch nhầy nằm trong lớp niêm mạc và
các tuyến nằm ở lớp dưới niêm mạc bài tiết dịch đảm bảo cho khí vào phổi được
bảo hòa hơi nước.
- Làm ấm khí vào phổi: nhờ hệ thống mao mạch dưới niêm mạc sưởi ấm không
khí, đảm bảo cho khí vào đến phế nang có nhiệt độ gần bằng nhiệt độ cơ thể.
- Thanh lọc khí bảo vệ cơ thể: phổi là cơ quan nội tạng mở thông với bên ngoài.
Hàng ngày, rất nhiều chất lạ xâm nhập đường dẫn khí, trong đó có không ít tác
nhân gây hại là chất vô cơ hoặc hữu cơ như: khí độc, khói, bụi, vi khuẩn, virus...
Các hạt có kích thước ≥ 10µm có thể vào đến mũi-hầu, các hạt có kích thước 2-
10µm có thể vào đến khí phế quản và các hạt có kích thước ≤ 2µm có thể vào
đến tận phế nang. Tuy nhiên, mô phổi bình thường hầu như vô khuẩn, đó là nhờ
cơ chế thanh lọc khí của đường hô hấp.
- Các chức năng ngoài hô hấp như: khứu giác, phát âm, điều nhiệt, nội tiết, xúc
cảm…
Trong số các chức năng trên của đường hô hấp, niêm mạc đường hô hấp đóng
vai trò chính trong việc đảm nhiệm chức năng quan trọng là thanh lọc khí. Hai cơ chế
thanh lọc khí bảo vệ cơ thể là cơ chế cơ học (hệ thống lông mũi, cơ chế xoáy lắng, hệ
thống nhầy lông, phản xạ ho, phản xạ hắt hơi) và cơ chế miễn dịch (đại thực bào phế
nang, kháng thể bề mặt IgA).
2. CƠ CHẾ CƠ HỌC THANH LỌC KHÍ
Cơ chế cơ học chủ yếu bảo vệ vùng ngoài của hô hấp bằng cách ngăn cản, bắt
giữ và đào thải các hạt có kích thước lớn và vừa ra khỏi hệ thống hô hấp.
2.1. Hệ thống lông mũi
Mũi là một cơ quan rỗng do xương, sụn, cơ và mô liên kết tạo thành. Da lợp
mặt ngoài mũi có những tuyến bã lớn và nhiều lông nhỏ.
Phần trước của lỗ mũi sát cạnh cửa mũi trước gọi là tiền đình mũi. Trong tiền
đình có các lông mũi và những tuyến tạo thành hàng rào đầu tiên ngăn các hạt bụi
không để chúng đi vào đường hô hấp.
2.2. Cơ chế xoáy lắng của mũi và đường hô hấp
51
Mũi có cấu trúc hình chóp với các cuốn mũi, như vậy không khí khi vào mũi
phải đi xoáy lên trên, các hạt có đường kính lớn hơn 5µm sẽ bị lắng đọng lại ở các
cuốn mũi. Các hạt nhỏ hơn xâm nhập vào sâu hơn trong đường hô hấp, do hiện tượng
vật lý vừa đi vừa xoáy đập vào thành phế quán sẽ bị niêm dịch giữ lại rồi được các
lông rung phế quản đẩy ra ngoài. Chỉ có những hạt có đường kính rất nhỏ mới tới được
phế nang.
2.3. Hệ thống nhầy lông đường hô hấp
2.3.1. Thành phần của hệ nhầy lông
Hệ thống nhầy lông đường hô hấp gồm hai phần: tế bào và chất nhầy.
2.3.1.1. Tế bào
Hai loại tế bào tham gia hệ thống nhầy lông: tế bào có lông chuyển và tế bào
chế tiết. Tế bào có lông chuyển chiếm khoảng 30% tổng số tế bào biểu mô, tế bào hình
đài tiết nhầy chiếm khoảng 28% tại khí quản. Càng vào sâu trong đường hô hấp, tỷ lệ
tế bào có lông chuyển tăng dần trong khi tỷ lệ tế bào hình đài giảm dần.
- Tế bào có lông chuyển: tế bào có lông chuyển hình trụ với bào tương chứa nhiều
ti lạp thể cung cấp năng lượng cần thiết cho việc chuyển động của lông. Bề mặt
tự do tế bào có các vi nhung mao, trên vi nhung mao là các lông chuyển mà thực
chất là những nhánh bào tương.
+ Siêu cấu trúc của lông: phần bào tương ở đáy mỗi lông chứa một cấu trúc
giống cấu trúc của tiểu thể trung tâm điển hình với 9 nhóm ống, mỗi nhóm có
3 ống. Hai trong số ống của mỗi nhóm kéo dài lên theo trục của lông đến tận
cùng lông gọi là tay, tạo thành hệ thống ống ngoại vi. Vì vậy, khi xẻ dọc lông
thấy có 9 nhóm ống, mỗi nhóm có 2,5 ống. Ngoài ra ở vùng trung tâm của
lông còn có 2 ống gọi là ống trung tâm. Giữa 2 ống trung tâm và 9 nhóm ống
ngoại vi là 9 sợi thứ cấp nhỏ. Hệ thống ống gắn lên hạt đáy, nằm ở cực ngọn tế
bào, ngay sát màng. Từ hạt đáy có những tơ nhỏ mọc ra gọi là rễ lông.
52
Màng bào tương
Dynein ngoàiDynein trong
NexinĐầu sợi thứ cấpSợi thứ cấp
Ống ngoại vi
Đáy lông
Mặt cắt đáy lông
Cầu nối trung tâmỐng trung tâm
Hình 2. Siêu cấu trúc của lông
+ Cấu tạo hóa học của lông: lông chứa 60% protein và 6% hydrat carbon. Trong
số protein có spermosin là một loại protein có tính co rút giống myosin của tơ
cơ.
- Tế bào chế tiết: là những tế bào tiết nhầy (tế bào hình đài) và tế bào tiết thanh
dịch nằm ở biểu mô niêm mạc hô hấp và tuyến dưới niêm mạc khí quản, phế
quản gốc. Màng bào tương tế bào nhầy có những vi nhung mao như ở tế bào
lông, bào tương tế bào chứa nhiều hạt chế tiết.
2.3.1.2. Chất nhầy
Chất nhầy đường hô hấp do các tế bào chế tiết của lớp biểu mô niêm mạc và
các tuyến dưới niêm mạc bài tiết. Chất nhầy phủ lên trên lông chuyển đường hô hấp
thành 2 pha, pha gel ở cực ngọn của lông với thành phần chủ yếu là chất nhầy và pha
sol ở chân lông với thành phần chủ yếu là nước.
* Thành phần sinh hóa của chất nhầy:
- Chất nhầy bình thường chứa 95-97% nước kết hợp 1% mucin (chất nhầy-
glycoprotein), 1% lipd và các ion.
- Ngoài ra trong chất nhầy còn có nhiều protein có vai trò diệt khuẩn tham gia bảo
vệ niêm mạc đường hô hấp cùng với cơ chế cơ học của hệ nhầy lông. Trong số
protein diệt khuẩn có những IgA của huyết thanh và IgA chế tiết, lysozym và
chất "transferin" phế quản.
- Một hệ quân bình protease-chống protease cũng có trong niêm dịch phế quản.
Chất ức chế protease do niêm mạc tổng hợp chính là chất ức chế phế quản.
* Tính chất vật lý của chất nhầy:
- Tính chất chuyển vận:
+ Độ nhớt-đàn hồi: chất nhầy hô hấp vừa có thể chảy được ( hiện tượng không
phục hồi) như một chất lỏng vừa có thể chuyển dạng được (hiện tượng hồi
phục) như một chất đặc. Tính chất đặc trưng phức tạp này tùy thuộc vào lực
tác động. Thí dụ: chuyển dạng trong chốc lát do tác động của ho hay chảy
được do lông đập. Lực chuyển từ lông sang nhầy càng cao nếu thời gian tiếp
xúc giữa lông và nhầy càng ngắn.
+ Độ loãng: chất nhầy hô hấp có đặc tính loãng. Độ loãng cao thường kết hợp
với tốc độ vận chuyển nhầy cũng cao.
53
- Tính chất bề mặt:
+ Tính chất bám dính: sự bám dính kém có thể làm nhầy đọng lại ở phế quản
sâu. Trái lại sự bám quá chặt là yếu tố hạn chế độ loãng của nhầy.
+ Tính chất gây ướt: đặc tính dễ ướt của chất nhầy hô hấp, nghĩa là khả năng lan
ra khắp niêm mạc, là đặc tính quan trọng trong việc bảo vệ niêm mạc và việc
vận chuyển chất nhầy do cơn ho. Sức bám kém và ướt cao rất thuận lợi cho sự
chuyển vận nhầy lông.
2.3.2. Hoạt động của hệ nhầy lông
- Cơ chế hoạt động của lông: lông hoạt động như cánh tay của một người bơi, nó
không đập trong không khí mà đập trong lớp chất nhầy. Các lông hoạt động đồng
thời, từ tư thế nghỉ gần như song song với bề mặt tế bào, nó bỗng dựng đứng lên
rồi trở lại vị trí nằm ngang lúc khởi phát. Các chuyển động mau lẹ này tạo thành
tiếng đập khoảng 10-20 chu kỳ/giây (10-20Hz) có tác dụng làm đẩy các vật lạ
dính trong chất nhầy theo một chiều ra ngoài với tốc độ khoảng 10mm/phút.
Hoạt động của lông được chia làm 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn chủ động (khoảng 10ms): giai đoạn này ngắn, lông chuyển động ở
ngọn nơi chất nhầy có pha gel với độ nhớt-đàn hồi cao. Tại khí quản, tốc độ
chuyển động của ngọn lông lớn khoảng 800µm /giây, có tác dụng đẩy chất
nhầy đi với tốc độ 10-15mm/phút. Tại tiểu phế quản, phế quản chất nhầy di
chuyển theo chiều từ trong ra ngoài như những làn sóng với vận tốc 0,6-
0,8mm/giây.
+ Giai đoạn nghỉ (khoảng 20ms).
+ Giai đoạn hồi phục (khoảng 30ms): lông co lại trong pha sol nơi chất nhầy có
độ nhớt rất thấp nhờ chuyển động của chân lông khiến cho gần như toàn bộ
thân lông tắm mình trong chất nhầy.
Hình 3. Hoạt động của lông
54
Giai đoạn chủ động Giai đoạn hồi phục
Chuyển động của lông Lông chuyển động như cánh tay người bơi
- Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của lông: tốc độ đập của lông và tốc độ vận
chuyển nhầy phụ thuộc vào nhiều yếu tố như số lượng lông đập được, tốc độ của
ngọn lông, chuyển động của lông, sự phối hợp của lông và tác động qua lại lông-
nhầy trong đó đặc tính về chuyển vận và bề mặt của nhầy đóng vai trò chủ yếu.
Hoạt động của lông phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
+ Nhiệt độ: các sợi lông giao động mạnh nhất ở 370C, ngưng lại khi quá lạnh
hoặc quá nóng. Do vậy, khi mở khí quản, đặt nội khí quản hay cho bệnh nhân
thở máy ta phải làm ấm và ẩm không khí. Nếu không khí không đủ ấm thì
lông cũng ngừng chuyển động.
+ Các khí và khói độc gây kích thích như khói thuốc lá, khí CO, SiO2... có thể
kìm hãm hoạt động của lông hoặc thoái hóa niêm mạc tế bào lông. Hỗn hợp
khí bụi ví dụ khói thuốc lá có tác động kéo dài trên niêm mạc hô hấp vì các
khí có thể cố định, bám vào các hạt bụi và các hạt này dính vào niêm dịch phế
quản. Chính vì tác động kéo dài này hỗn hợp khí bụi trở thành một trong
những yếu tố thuận lợi để khói thuốc lá gây ung thư.
+ Tác động qua lại nhầy-lông: đặc điểm của chất nhầy sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến tốc độ vận chuyển nhầy lông do đó ảnh hưởng đến cơ chế thanh lọc khí
của đường hô hấp. Độ nhầy quá thấp hay quá cao đều khiến cho lông đập
chậm lại do đó giảm tốc độ vận chuyển nhầy. Bề dầy của chất nhầy phủ lên
biểu mô cũng là yếu tố quan trọng trong tác động qua lại nhầy-lông. Nếu chất
nhầy bao quanh lông quá ít, lông sẽ đập rất yếu hoặc không đập. Trái lại, nếu
lớp nhầy bao quanh lông tăng lên quá mức thì sẽ làm mất đi tính cơ động sánh
đôi lông-nhầy, làm trì trệ vận chuyển nhầy lông.
2.3.3. Điều hòa hoạt động hệ nhầy lông
Thần kinh giao cảm và phó giao cảm phân bố đến các tế bào chế tiết. Ngoài
những chất dẫn truyền thần kinh như noradrenalin và acetylcholin còn có các
neuropeptid khác như neuropeptid Y, VIP (vasoactive intestinal peptid), chất P và
CGRP (calcitonin gen related peptid).
Kích thích thụ thể β-adrenergic, cholinergic và chất P: bài tiết nhiều dịch lỏng.
Kích thích thụ thể α-adrenergic: bài tiết ít đi nhưng quánh.
55
Quá trình viêm nhiễm và dị ứng kích thích chế tiết qua đường phản xạ hoặc tác
dụng trực tiếp bởi histamin, prostaglandin và leucotrien lại làm cho sự vận chuyển
chậm đi do giảm hoạt động của lông.
2.4. Phản xạ ho
Phản xạ ho là một phản xạ tối cần thiết cho sự sống, để giữ sạch cho đường dẫn
khí.
Kích thích từ đường hô hấp và phế nang sẽ tác động lên các thụ thể ho thuộc
thần kinh tam thoa, thiệt hầu, thanh quản trên và phế vị. Xung động này được truyền
hướng tâm về trung tâm ở hành não. Sau đó gây chuỗi phản xạ ly tâm theo các dây
thần kinh đến các cơ hô hấp gây:
- Hít vào khoảng 2,5L.
- Nắp thanh quản đóng lại, hai dây thanh âm khép chặt.
- Cơ bụng co rất mạnh và những cơ thở ra phụ cũng co rất mạnh, nâng áp suất
trong phổi lên đến 100mmHg.
- Nắp thanh quản và dây thanh âm thình lình mở ra. Khí bị nén phóng ra ngoài với
vận tốc lên đến 1000km/giờ.
Điểm rất quan trọng là áp suất cao trong lồng ngực làm xẹp các đường dẫn khí,
nên luồng khí chà xát các mặt trong của chúng, đem đi mọi vật lạ.
2.5. Phản xạ hắt hơi
Phản xạ hắt hơi cũng như phản xạ ho nhưng dây hướng tâm là dây tam thoa và
lúc tống khí ra lưỡi gà hạ thấp nên phần lớn khí đi qua mũi, làm sạch đường dẫn khí ở
mũi.
3. CƠ CHẾ MIỄN DỊCH THANH LỌC KHÍ
Cơ chế miễn dịch chủ yếu bảo vệ các vùng sâu của phổi bằng cách tiêu hủy các
hạt có kích thước nhỏ.
3.1. Đại thực bào phế nang (tế bào bụi)
Đại thực bào phế nang đóng vai trò quan trọng nhất trong cơ chế miễn dịch
thanh lọc khí. Đại thực bào phế nang có trong mọi chỗ của bộ máy hô hấp nhưng đặc
biệt quan trọng ở tầng phế nang là tầng không có lông rung. Như vậy đại thực bào đảm
nhiệm chức năng bảo vệ các vùng sâu của phổi.
3.1.1. Nguồn gôc và cấu trúc của đại thực bào phế nang
56
- Nguồn gốc:
+ 70% là từ monocyte đến bằng tuần hoàn.
+ 30% là từ các tế bào biểu mô tại chỗ của phổi chuyển thành.
- Cấu trúc: đại thực bào phế nang là loại tế bào có bộ máy golgi phát triển, nhiều ti
lạp thể, đặc biệt rất nhiều lysosom có chứa các enzym như: protease, lipase,
esterase, ribonuclease, desoxy ribonuclease, β-glucuronidase, β-galactosidase,
phosphatase acid. Ngoài ra còn có ATPase, NADase, LDH, các monokin
(interleukin I, TNF, interferon, các gốc tự do của chuyển hóa H2O2…). Như vậy,
khác hẳn đại thực bào ở các nơi khác, các đại thực bào phế nang có hệ thống
enzym rất phong phú khiến nó tiêu hủy được hầu hết các thành phần chủ yếu của
vật sống.
3.1.2. Cơ chế miễn dịch của đại thực bào phế nang
Đại thực bào phế nang có 2 hoạt động miễn dịch quan trọng:
- Khả năng thực bào:
+ Trên bề mặt đại thực bào phế nang có nhiều receptor, nhất là các receptor đối
với mảnh Fc của các globin miễn dịch, bổ thể và các kháng nguyên HLA. Khi
một vi khuẩn lọt vào đường hô hấp, nhờ các globulin miễn dịch đã cố định
trên màng, đại thực bào phế nang dễ dàng bắt lấy vi khuẩn, tạo túi thực bào
bao quanh, sau đó tiết enzym lysosom vào và tiêu hủy vi khuẩn… Do chứa hệ
enzym rất phong phú, khả năng cơ động cao, đại thực bào có thể thực bào tiêu
hủy hầu hết các hạt trong không khí hít vào như các vi khuẩn, virus, các bụi vô
cơ, hữu cơ… bảo vệ đường hô hấp.
57
Đại thực bào
Lympho Receptor của lympho
Vi khuẩn
Hình 4. Đại thực bào thực bào Hình 5. Đại thực bào tiêu hóa
Vi khuẩn và trình diện kháng nguyên
+ Tuy nhiên, đại thực bào phế nang cũng chỉ có thể tiêu hủy các chất, các vi
khuẩn v.v. có cấu trúc phù hợp với hệ enzym của nó, nói cách khác khả năng
thực bào của đại thực bào phế nang thay đổi tùy theo từng chất mà nó đối
diện. Phế cầu có lớp vỏ mucopolysaccharid mà đại thực bào phế nang khó tiêu
hủy nên thường gây viêm phổi. Tụ cầu trắng bị thực bào nhanh hơn tụ cầu
vàng và proteus. Trong các loại nấm thì candida albicans dễ bị tiêu hủy hơn
aspergillus fumigatus và microspora v.v…. Một số loại tụ cầu có độc lực cao,
vi khuẩn lao có thể chống lại khả năng tiêu hủy của đại thực bào sau khi bị
thực bào, chúng nhân lên ngay trong lòng tế bào này, sau đó lan ra xung quanh
gây viêm phổi, lao phổi. Các hạt bụi có chứa tinh thể silic, bụi than, bụi
amiăng khi bị thực bào không tiêu hóa được, tích tụ lại gây bệnh bụi phổi.
Trong một số bệnh tim có sự ứ máu ở phổi, các đại thực bào chứa nhiều hạt
hemosiderin và sắc tố.
- Khả năng thông tin:
+ Các vật lạ vào đại thực bào sẽ được nó tiêu hủy, chuyển hóa và giải phóng ra
phần kháng nguyên đã gắn với ARN dưới dạng một siêu kháng nguyên. Chất
này mang đầy đủ tính chất lý hóa của kháng nguyên trong mật mã của nó.
Nhận được siêu kháng nguyên do đại thực bào trình diện, tế bào lympho B sẽ
sản xuất ra kháng thể, còn tế bào lympho T tiết ra các cytokin..
+ Số lượng đại thực bào phế nang làm nhiệm vụ thông tin để sản xuất kháng thể
rất ít so với số lượng đại thực bào phế nang làm nhiệm vụ thực bào, chỉ có
khoảng 10.000 đại thực bào phế nang làm nhiệm vụ này.
3.2. Các yếu tố miễn dịch tại chỗ của phổi
Trong cơ chế bảo vệ phổi, đại thực bào phế nang không hoạt động đơn độc mà
luôn quan hệ với quần thể lympho và các kháng thể thông qua hoạt động trình diện
kháng nguyên, giúp nhau hoạt hóa và tăng cường khả năng phát hiện, tiêu diệt vi
khuẩn. Các chất như transferin, kallikrein do tế bào niêm mạc phế quản tiết ra, các
globulin miễn dịch trong đó chủ yếu IgA v.v… góp phần vào việc bảo vệ đường hô
hấp.
58
3.2.1. IgA tiết (SIgA: Secretory-IgA)
Có hai loại IgA: IgA1 và IgA2. IgA1 có trong huyết tương và IgA2 có trong chất
tiết gọi là IgA tiết (SIgA). Trong đáp ứng miễn dịch ở niêm mạc hô hấp SIgA phản
ứng rất sớm và mạnh mẽ so với IgA trong huyết tương. Như vậy, SIgA đóng vai trò là
kháng thể tại chỗ bảo vệ đường hô hấp chủ yếu ở khu vực các phế quản, đối kháng rất
hiệu quả với các vi khuẩn, vius và độc tố. Các SIgA tồn tại chủ yếu dưới dạng nhị
trùng, một số ít dưới dạng đơn phân.
Hình 6. Cấu trúc của SIgA
- Cấu trúc SIgA nhị trùng gồm:
+ 2 phân tử IgA đơn phân.
+ Chuỗi J: là một oligosaccharid, có hai cầu nối disulfua nối với mỗi IgA đơn
phân, chuỗi J nằm ở trung tâm của IgA nhị trùng.
+ Mảnh chế tiết SC (secretory component): là một glycoprotein được các tế bào
biểu mô phế quản tổng hợp, độc lập với sự tạo thành các IgA và đặc hiệu của
các SIgA. Mảnh SC có vai trò như một receptor đặc hiệu để SIgA chọn lựa nơi
bám dính và làm cho SIgA có được sức đề kháng cao đối với các tác nhân khử
và các tác nhân tiêu đạm. Do đó SIgA hoạt động được trong cả môi trường có
mủ và đờm.
- Cơ chế hoạt động: SIgA làm dính các vi khuẩn lại, làm cho vi khuẩn không bám
được vào niêm mạc, do đó ngăn cản sự phát triển của vi khuẩn. Bên cạnh đó,
SIgA cũng đóng vai trò là opsonin đối với các đại thực bào phế nang và các bạch
cầu đa nhân trung tính; hoạt hóa bổ thể để có thể có tác dụng hiệp đồng với
lysozym. Đặc biệt, SIgA có vai trò ưu thế trong đề kháng chống Mycoplasma
pneumoniae là loại vi khuẩn tấn công các tế bào biểu mô có lông.
3.2.2. Các kháng thể khác-IgM và IgE
59
Chuỗi J
Mảnh chế tiết SC
IgAIgA
Niêm mạc hô hấp còn sản sinh IgM, IgE cũng giữ vai trò quan trọng trong cơ
chế bảo vệ miễn dịch đặc hiệu chống các nhiễm khuẩn phổi phế quản. Các kháng thể
nói trên hoạt động theo cơ chế trung hòa, kết dính, kết tủa và nhất là hoạt hóa các tế
bào có nhiệm vụ thực bào, hoạt hóa bổ thể, khiến cho các đáp ứng tiêu diệt dị chất
được tăng cường.
3.2.3. Đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào B và T:
Lympho B và T có nguồn gốc khác nhau, tuyến hung đối với lympho T và tủy
xương hoặc túi Fabricius đối với lympho B. Khi được kích thích, lympho B sẽ sản sinh
ra kháng thể trong khi lympho T tiết ra lymphokin với rất nhiều tác dụng quan trọng có
khả năng hoạt hóa đại thực bào và là cở sở của tăng mẫn cảm muộn.
4. MỘT SỐ CƠ CHẾ BỆNH SINH LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG THANH
LỌC KHÍ
4.1. Sinh bệnh học của tổn thương hệ nhầy lông đường hô hấp
4.1.1. Cơ chế bệnh sinh
Đa số các bệnh lý hô hấp đều gây tổn thương hệ nhầy lông. Sinh bệnh học của
quá trình tổn thương diễn ra như sau:
- Các tác nhân tấn công hệ nhầy lông: tác nhân hữu cơ hoặc vô cơ như khí độc,
khói, bụi, vi khuẩn, vius… khi hít vào đều có thể công phá hệ nhầy lông. Đặc
biệt hỗn hợp khí bụi như khói thuốc lá có thể tích trữ lâu ngày làm kéo dài tác
dụng gây hại.
- Các tổn thương quy nạp: tổn thương đầu tiên là phì đại tế bào chế tiết, tăng tiết
chất nhầy, thay đổi tính chất lý hóa của chất nhầy như tăng tính bám dính, giảm
độ loãng đi kèm với giảm hoạt động của lông và hiện tượng viêm tại chỗ. Tiếp
theo là thoái hóa lông và cuối cùng là thoái hóa biểu mô còn trơ lại màng đáy và
những thụ thể thần kinh dưới biểu mô.
- Sự phục hồi biểu mô: các tế bào chế tiết và tế bào đáy có khả năng phát triển và
biệt hóa thành tế bào lông. Sau các tổn thương quy nạp gây thoái hóa biểu mô, có
hiện tượng dị sản malpighi và tăng sản tế bào hình đài trong tuyến dưới niêm
mạc, biệt hóa và tái tạo lại biểu mô nhầy lông bình thường của niêm mạc. Thời
gian cần thiết cho sự phục hồi hoàn toàn biểu mô từ nhiều tuần đến nhiều tháng
tùy thuộc vào tác nhân gây bệnh. Đặc biệt biểu mô phế quản có thể thích nghi với
tác nhân tấn công. Người ta đã chứng minh trên loài vượn cho tiếp xúc với ozon
60
một thời gian dài gây hoại tử tế bào lông, sau giai đoạn phục hồi, tiếp tục cho tiếp
xúc với ozon thì thấy biểu mô gần như bình thường. Tuy nhiên, nếu sự tái tạo
biểu mô diễn ra liên tục như trong trường hợp nghiện thuốc lá với những đám tế
bào mất hết lông, tăng sản tế bào đáy có thể dẫn đến ung thư tiên phát.
4.1.2. Cơ sở sinh lý của một số biện pháp điều trị thải loại chất nhầy
- Các biện pháp không dùng thuốc:
+ Vỗ rung: là biện pháp quan trọng giúp vận chuyển chất nhầy tránh ứ đọng do
tăng cường hoạt động của lông và hạn chế tính bám dính của chất nhầy.
+ Khí dung: tạo ra những hạt rất nhỏ có thể vào sâu trong đường hô hấp làm
loãng chất nhầy tăng cường vận chuyển nhầy lông.
+ Hút đờm: là biện pháp quan trọng trong việc chăm sóc đường hô hấp đặc biệt
là trong thông khí nhân tạo (đặt nội khí quản, thở máy, mở khí quản).
Các biện pháp không dùng thuốc phải được thực hiện đúng kỹ thuật nếu không
có thể gây hậu quả ngược lại. Chẳng hạn, khi hút đờm, nếu sử dụng ống hút quá cứng,
to, áp lực hút quá mạnh, hút trong thì đưa ống vào, thao tác không nhẹ nhàng, thời
gian mỗi lần hút quá lâu (trên 15 giây) có thể làm tổn thương hệ nhầy lông. Hơn thế
khi hút đờm người ta thường nhỏ nước muối sinh lý vào để làm loãng đờm. Nếu nhỏ
quá nhiều có thể làm tăng thể dịch gây tắc nghẽn thêm đường hô hấp. Nhỏ nước muối
sinh lý chỉ có ích đối với những bệnh nhân bị đờm bám dai dẳng, không nên dùng như
một thủ thuật thườn qui.
- Các biện pháp dùng thuốc:
+ Thuốc tác động lên hệ thần kinh thực vật: các thuốc giống giao cảm làm tăng
vận chuyển nhầy lông. Atropin làm giảm tốc độ vận chuyển chất nhầy do làm
tăng độ quánh.
+ Theophylin: làm tăng vận chuyển nhầy lông, tuy nhiên tác động của nó chỉ
khu trú tại khí quản (tăng 50%) và phế quản gốc (tăng 27%). Theophylin sẽ
có tác dụng tốt nếu được dùng kéo dài trên 8 ngày.
+ Corticoid: làm thay đổi độ nhớt-đàn hồi của chất nhầy theo hướng tích cực.
+ Các thuốc long đờm: N-acetylcystein thuộc nhóm thiol tự do có tác dụng làm
đứt gãy mucin giúp tăng vận chuyển nhầy lông. Carbocystein là một dẫn xuất
61
của cystein có tác dụng điều hòa chất nhầy bằng cách hoạt hóa
sialyltransferase cần cho việc tổng hợp mucin chứa nhiều acid sialic tạo thế
quân bình giữa những mucin trung tính và mucin acid giúp tăng vận chuyển
chất nhầy. Ngoài ra, carbocystein hình như cũng có tác dụng kháng viêm tại
chỗ do vậy làm giảm độ quánh của chất nhầy. Bromhexin là một dẫn xuất của
alkaloid được xếp vào loại điều hòa chất nhầy tuy có tác động sinh hóa chưa
rõ rệt. Quan sát vi thể cho thấy, khi dùng bromhexin, xuất hiện các thể tiêu
bào trong tế bào chế tiết, hoạt động của các thể này có thể gián tiếp làm giảm
glycoprotein và gây đứt gãy mucin. Ambroxol là một dẫn xuất từ bromhexin
giúp điều hòa chất nhầy và làm tăng tổng hợp surfactant giúp hóa lỏng đờm
khi dùng liều cao.
4.2. Sinh bệnh học của tổn thương hệ miễn dịch đường hô hấp
4.2.1. Suy giảm miễn dịch bẩm sinh hoặc mắc phải
- Suy giảm khả năng đáp ứng miễn dịch có thể xảy ra trong toàn thân hoặc tại chỗ
niêm mạc hô hấp như giảm sản xuất SIgA thường thấy ở bệnh nhân viêm phế
quản mạn. Suy giảm khả năng đáp ứng miễn dịch gặp ở nhiều lứa tuổi khác nhau.
- Có 3 thể: suy giảm đáp ứng miễn dịch dịch thể, suy giảm đáp ứng miễn dịch qua
trung gian tế bào và suy giảm cả hai loại đáp ứng trên gây hậu quả nhiễm khuẩn
hô hấp tái phát cả ở phế quản và nhu mô phổi.
4.2.2. Cơ chế miễn dịch của hen phế quản
- Dị nguyên khi xâm nhập vào cơ thể sẽ bị đại thực bào tiêu hóa và trình diện
kháng nguyên cho các tế bào lympho mà chủ yếu là lympho B. Lympho B sản
sinh kháng thể IgE.
- Khi dị nguyên xâm nhập lần sau hình thành phản ứng kháng nguyên-kháng thể,
dưỡng bào bị tác động bởi IgE sẽ bài tiết các hoá chất trung gian. Ngoài ra, các tế
bào lympho, đại thực bào phế nang, bạch cầu eosin và cả tiểu cầu cũng có thể
tham gia đáp ứng trên vì bề mặt chúng cũng có receptor với IgE.
- Các hóa chất trung gian chia làm 2 loại: loại có sẵn bao gồm các amin, histamin,
glucosidase, protease, proteoglycan và loại mới hình thành là leucotrien,
prostaglandin… Các hóa chất trung gian làm phế quản bị kích thích và co thắt sẽ
xuất hiện.
4.2.3. Hội chứng Goodpaster
62
- Đây là loại bệnh phổi-phế quản tiêu biểu cho phản ứng quá mẫn typ II, kiểu độc
tế bào và tiêu tế bào. Nguyên nhân gây bệnh chưa rõ có thể là do khói độc hoặc
virus.
- Đặc điểm chủ yếu của bệnh là xuất huyết phế nang kèm viêm tiểu cầu thận do
phản ứng kháng nguyên-kháng thể gây tổn thương vách phế nang và tiểu cầu
thận.
4.2.4. Bệnh bụi phổi silic
- Nguyên nhân là do hít phải bụi có chứa tinh thể silic tự do trong một thời gian
dài 5-10 năm. Những nghề có nguy cơ cao là khai thác mỏ than, mỏ đá sa thạch,
công nhân xưởng đúc, tiếp xúc với bụi cát, mài đánh bóng kim loại.
- Cơ chế: các hạt bụi có chứa tinh thể silic khi vào sâu trong đường hô hấp sẽ bị
thực bào bởi tế bào bụi. Sau đó đại thực bào di chuyển đến các hạch bạch huyết
và nhu mô phổi gần đó. SiO2 tự do sẽ làm thay đổi tính thấm màng tiêu thể gây
thoát men nội bào vào bào tương. Các đại thực bào chết hình thành yếu tố tự
kháng nguyên. Cơ thể hình thành kháng thể chống lại dị nguyên đó gây bệnh tự
miễn. Phức hợp kháng nguyên-kháng thể kích thích quá trình xơ hóa. Đại thực
bào sau khi chết sẽ giải phóng SiO2, SiO2 tự do bị thực bào trở lại bởi đại thực
bào khác, quá trình trên lại diễn ra cho đến khi các tổ chức xơ bọc các ổ đọng
bụi.
63
SINH LÝ TIẾT NIỆU
Chức năng chính của thận là tạo nước tiểu giúp đào thải phần lớn các sản phẩm
chuyển hóa cuối cùng trong cơ thể và duy trì sự hằng định nội môi. Mỗi ngày có
khoảng 180 lít dịch được lọc ở cả hai thận nhưng chỉ có khoảng 1,5 lít nước tiểu được
bài xuất ra ngoài. Điều đó cho thấy có một lượng dịch lọc đã được thận tái hấp thu,
ngoài ra thận cũng bài tiết một số chất vào dịch lọc. Như vậy, nước tiểu được hình
thành là kết quả của 3 quá trình: Nước tiểu = dịch lọc - dịch tái hấp thu + dịch bài tiết
1. QUÁ TRÌNH LỌC Ở CẦU THẬN
1.1. Màng lọc cầu thận
- Cấu tạo màng lọc cầu thận: gồm 3 lớp.
+ Tế bào nội mô mao mạch cầu thận: không xếp sát nhau mà tạo những khe hở
đường kính 160Å.
+ Màng đáy: mạng lưới các sợi collagen và proteoglycan (tích điện âm mạnh)
đan chéo nhau tạo các khe hở đường kính 110Å.
+ Tế bào biểu mô nang Bowman: tế bào có chân bám vào màng đáy tạo các khe
hở đường kính 70Å.
- Tính chất của màng lọc cầu thận: thấm có chọn lọc phụ thuộc vào:
+ Kích thước các lỗ của màng lọc: chỉ cho qua các chất có đường kính nhỏ hơn
70Å.
+ Lực tĩnh điện của thành lỗ lọc: tích điện âm mạnh nên:
. Các chất tích điện âm được lọc kém hơn các chất tích điện dương cùng kích
thước.
. Các chất tích điện dương được lọc nhiều hơn các chất không mang điện có
cùng kích thước.
Trong viêm cầu thận, tính tích điện (-) của màng lọc cầu thận bị giảm. Do đó
Albumin có thể xuất hiện trong nước tiểu
1.2. Mức lọc cầu thận và thành phần dịch lọc cầu thận
1.2.1. Mức lọc cầu thận (GFR = Glomerular Filtration Rate)
- Định nghĩa: GFR là thể tích dịch lọc được lọc qua cầu thận của 2 thận trong 1
phút.
- GFR = 125mL/phút = 180 lít/24 giờ (tăng theo diện tích bề mặt cơ thể).
64
- Cách đo GFR: chưa có phương pháp đo trực tiếp, người ta dùng phương pháp
thanh trừ xuất Clearance (C) để đo GFR (Phương pháp gián tiếp của Van Slyke).
* Khái niệm về thanh trừ xuất
- Định nghĩa: thanh trừ xuất Clearance (C) của một chất là thể tích huyết tương
được thận thải sạch chất đó trong 1 phút.
Trong đó:
+ P: là nồng độ chất đó trong plasma (mg/mL)
+ U: nồng độ chất đó trong nước tiểu (mg/mlL)
+ V: là thể tích nước tiểu được bài xuất/1 phút (mL/phút)
- Tiêu chuẩn của chất dùng đo lọc cầu thận:
+ Được lọc tự do qua cầu thận.
+ Không được tái hấp thu.
+ Không bài tiết ở ống thận.
+ Không chuyển hóa, không dự trữ
+ Không gắn với protein trong huyết tương.
+ Không làm tăng, giảm chức năng của thận.
+ Không độc với cơ thể.
+ Định lượng một cách chính xác và dễ dàng.
Do đó: Lượng thải ra trong nước tiểu = lượng lọc qua cầu thận
- Chất dùng để đo GFR: Inulin (I)
PI = 0,24 mg/ ml
UI = 30 mg/ ml Vậy CI = 125 ml/ phút
VI = 1 ml/ phút
1.2.2. Thành phần dịch lọc cầu thận
Giống thành phần huyết tương nhưng:
- Không có huyết cầu.
- Lượng protein rất thấp (khoảng 0,03% protein huyết tương).
- Một vài chất có TLPT nhỏ như Ca++, acid béo không được lọc tự do ở cầu thận vì
chúng kết hợp với protein huyết tương.
65
phmlP
VUC /
.=
- Cl- và HCO3- cao hơn huyết tương khoảng 5%.
- Na+ và K+ thấp hơn trong huyết tương khoảng 5%.
1.3. Cơ chế lọc và các yếu tố ảnh hưởng đến mức lọc cầu thận
1.3.1. Cơ chế lọc
Cơ chế lọc là cơ chế thụ động phụ thuộc sự chênh lệch áp suất giữa hai bên
màng lọc
Áp suất lọc = Áp suất máu – Áp suất keo – Áp suất Bowman
10 mmHg = 60 mmHg – 32 mmHg – 18 mmHg
- Áp suất thủy tĩnh mao mạch cầu thận (60mmHg): đẩy nước và các chất hòa tan
từ trong lòng mạch vào nang Bowman.
- Áp suất keo mao mạch cầu thận (32mmHg): giữ nước và các chất hòa tan ở lại
lòng mạch.
- Áp suất thủy tĩnh nang Bowman (18mmHg): ngăn cản sự lọc.
Như vậy quá trình lọc chỉ xảy ra khi áp suất lọc > 0.
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức lọc cầu thận
- Áp suất thủy tĩnh nang Bowman
+ Bình thường áp suất nang Bowman có trị số thấp và dịch lọc vào nang
Bowman sẽ di chuyển ngay xuống ống thận nên ít ảnh hưởng đến áp suất lọc.
+ Khi áp suất nang Bowman tăng (sỏi niệu quản, phì đại tiền liệt tuyến, nghẽn
niệu đạo) sẽ làm giảm GFR.
- Áp suất keo mao mạch cầu thận
+ Bình thường ít thay đổi nên ít ảnh hưởng đến áp suất lọc.
+ Khi áp suất keo giảm thì GFR tăng và ngược lại (uống nhiều nước → áp suất
keo giảm). Áp suất keo chỉ giảm 2-3 mmHg cũng làm lưu lượng lọc tăng lên
15-20%.
- Áp suất thủy tĩnh mao mạch cầu thận: lưu lượng máu qua thận phụ thuộc vào
huyết áp và trạng thái của tiểu động mạch cầu thận.
+ Huyết áp tối đa:
. Huyết áp tối đa = 80-180mmHg: thận sẽ tự điều chỉnh lưu lượng lọc nên
GFR ít thay đổi. Cơ chế: khi huyết áp tối đa tăng trong khoảng từ 80-
180mmHg thì tiểu động mạch đến sẽ co lại dần làm áp suất trong mao mạch
cầu thận không tăng cao.
66
. Huyết áp tối đa > 180mmHg sẽ có hiện tượng “lợi niệu do huyết áp” làm
tăng lượng nước tiểu. Cơ chế: khi huyết áp tối đa > 180mmHg sẽ làm áp
suất thủy tĩnh trong mao mạch cầu thận tăng gây tăng GFR.
. Huyết áp tối đa < 80mmHg sẽ gây thiểu niệu, huyết áp tối đa < 40-
50mmHg sẽ gây vô niệu. Cơ chế: khi huyết áp tối đa giảm < 80mmHg sẽ
làm áp suất thủy tĩnh mao mạch cầu thận giảm gây giảm GFR.
- Trạng thái của tiểu động mạch cầu thận:
. Co tiểu động mạch đến: giảm lượng máu đến cầu thận làm giảm áp suất
thủy tĩnh mao mạch cầu thận gây giảm GFR.
. Co tiểu động mạch đi: cản trở máu ra khỏi cầu thận làm tăng áp suất thủy
tĩnh mạo mạch cầu thận gây tăng GFR.
1.4. Điều hòa quá trình lọc cầu thận
1.4.1. Cơ chế tự điều hòa (điều hòa ngược ống thận-cầu thận)
Khi lưu lượng lọc cầu thận giảm thấp sẽ có hai cơ chế điều hòa kết hợp nhau để
đưa GFR trở lại bình thường:
- Điều hòa ngược dãn tiểu động mạch đến: các tế bào mascula densa phát tín hiệu
gây giãn tiểu động mạch đến làm tăng lượng máu vào cầu thận và tăng GFR trở
lại.
- Điều hòa ngược co tiểu động mạch ra: các tế bào cạnh cầu thận tiết ra renin, dẫn
đến việc tạo thành angiotensin II. Angiotensin II gây co tiểu động mạch ra làm
tăng GFR.
1.4.2. ANP (antrial natriuretic peptid)
- Nguồn gốc: tâm nhĩ khi bị căng cơ học (tăng thể tích dịch ngoại bào).
- Tác dụng trên cầu thận: làm tăng GFR.
1.4.3. Hệ thống renin-angiotensin
- Nguồn gốc:
+ Renin do phức hợp cận cầu thận bài tiết ra khi dòng máu đến thận giảm.
+ Angiotensinogen do gan tổng hợp và bài tiết vào máu.
Renin Men chuyển
Angiotensinogen Angitensin I
Angitensin II
(men chuyển: coverting enzymcó ở mao mạch phổi)
67
- Tác dụng trên cầu thận: co tiểu động mạch đi và giãn tiểu động mạch đến gây
tăng GFR.
1.4.4. Thần kinh giao cảm
Kích thích thần kinh giao cảm gây co tiểu động mạch đến nhiều hơn tiểu động
mạch ra làm giảm GFR. Kích thích mạnh có thể dẫn đến ngừng lọc tạm thời, vô niệu.
2. QUÁ TRÌNH TÁI HẤP THU VÀ BÀI TIẾT MỘT SỐ CHẤT Ở ỐNG THẬN
2.1. Tái hấp thu nước
- Vị trí: ống lượn gần, quai Henle, ống lượn xa, ống góp.
- Lượng tái hấp thu:
+ Ống lượn gần: 65%.
+ Ngành xuống quai Henle: 15%.
+ Ống lượn xa và ống góp: lượng tái hấp thu thay đổi tùy theo lượng nước trong
cơ thể và được kiểm soát bởi hormon ADH. Bình thường tái hấp thu 10% ở
ống lượn xa và 9,3% ở ống góp. Như vậy lượng nước còn lại trở thành nước
tiểu bài xuất ra ngoài là 0,7%.
- Cơ chế tái hấp thu: khuếch tán thụ động nhờ áp suất thẩm thấu cao trong dịch kẽ.
- Đặc điểm:
+ Ngành xuống quai Henle chỉ tái hấp thu nước không tái hấp thu muối nên dịch
càng đi đến đỉnh quai Henle sẽ càng ưu trương dần tạo điều kiện cho việc thực
hiện cơ chế cô đặc nước tiểu của thận.
+ Sự tái hấp thu nước ở ống lượn xa và ống góp được kiểm soát bởi ADH. Như
vậy ADH điều hòa lượng nước trong cơ thể. ADH làm mở rộng các lỗ trên tế
bào biểu mô gây tăng tính thấm đối với nước.
+ Ngoài ra: Aldosteron gây tái hấp thu muối ở ống lượn xa và ống góp kéo theo
nước, ANP ức chế tái hấp thu muối ở ống lượn xa và ống góp làm giảm tái
hấp thu nước.
2.2. Tái hấp thu Na+
- Vị trí: ống lượn gần, quai Henle, ống lượn xa, ống góp.
- Lượng tái hấp thu:
+ Ống lượn gần: 65%.
+ Ngành lên quai Henle: 25%.
68
+ Ống lượn xa và ống góp: lượng tái hấp thu thay đổi tùy theo nồng độ Na+
trong cơ thể và được kiểm soát bởi hormon aldosteron. Bình thường tái hấp
thu hết số còn lại (10%).
- Cơ chế tái hấp thu:
+ Ống lượn gần: vận chuyển tích cực
. Bơm Na+-K+-ATPase ở bờ bên và bờ đáy bơm Na+ từ tế bào biểu mô ống
thận ra dịch kẽ.
. Nồng độ Na+ trong tế bào biểu mô thấp nên Na+ sẽ khuếch tán từ dịch lọc
vào tế bào biểu mô. Sự khuếch tán này sẽ tiến hành cặp đôi với 1 chất khác
nhờ cùng một chất mang tạo nên cơ chế vận chuyển tích cực thứ phát: đồng
vận chuyển thuận với glucose, acid amin, phosphat; đồng vận chuyển
nghịch với H+.
Dịch kẽ Tế bào biểu mô Lòng ống thận Na+ Na+ Na+
ATPase
K+ K+ Glucose, aa Glucose, aa
Glucose, aa Cơ chế tái hấp thu Na+ ở ống lượn gần
+ Ngành lên quai Henle:
. Phần đầu ngành lên quai Henle (đỉnh quai Henle): khuếch tán thụ động.
. Phần cuối ngành lên quai Henle (phần dày quai Henle): vận chuyển tích cực
theo cơ chế giống ở ống lượn gần nhưng đồng vận chuyển thuận với K+ và
Cl- (cặp 3: 1Na+/1K+/2Cl-).
+ Ống lượn xa và ống góp: vận chuyển tích cực theo cơ chế giống ở ống lượn
gần có trao đổi với K+ hoặc H+.
- Đặc điểm:
+ Ngành lên quai Henle chỉ tái hấp thu Na+ không tái hấp thu nước nên dịch ra
khỏi quai Henle sẽ nhược trương dần tạo điều kiện cho việc thực hiện cơ chế
cô đặc nước tiểu của thận.
69
+ Sự tái hấp thu Na+ ở ống lượn xa và ống góp được kiểm soát bởi aldosteron.
Như vậy aldosteron điều hòa nồng độ Na+ trong cơ thể. Aldosteron gây kích
thích tổng hợp protein mang để vận chuyển Na+.
+ ANP gây ức chế tái hấp thu muối và nước ở ống lượn xa và ống góp khi thể
tích dịch ngoại bào tăng.
2.3. Tái hấp thu Ca++, Phosphat
- Vị trí: ống lượn gần, phần dày nhánh lên Henle, ống lượn xa.
- Lượng tái hấp thu:
+ Ống lượn gần: tái hấp thu 50-60% Ca++, tái hấp thu phosphat theo yêu cầu
dưới sự kiểm soát của hormon PTH.
+ Đoạn cuối phần dày nhánh lên quai Henlé: tái hấp thu một lượng nhỏ Ca++
+ Ống lượn xa: tái hấp thu Ca++ theo yêu cầu dưới sự kiểm soát của PTH.
- Cơ chế tái hấp thu: vận chuyển chủ động.
Đặc điểm: PTH của tuyến cận giáp kiểm soát sự tái hấp thu
2.4. Tái hấp thu glucose
- Vị trí: ống lượn gần.
- Lượng tái hấp thu: ngưỡng đường của thận là 180mg/dL.
+ Khi nồng độ glucose trong máu bình thường (80-120mg/dL) hoặc giảm thấp
hoặc tăng lên nhưng dưới ngưỡng đường của thận sẽ được lọc vào nang
Bowman với lượng tương đương và được tái hấp thu 100%. Do vậy không có
glucose trong nước tiểu.
+ Khi nồng độ glucose trong máu lớn hơn ngưỡng đường của thận thì ống lượn
gần vẫn có khả năng tái hấp thu thêm 1 lượng glucose nữa (không đạt 100%)
và khả năng này cũng chỉ giới hạn đến một mức nào đó. Lượng glucose được
tái hấp thu thêm gọi là mức vận chuyển glucose tối đa (TmG = Tubular
transport maximum for glucose). TmG ở nam là 375mg/phút và ở nữ là
300mg/phút.
- Cơ chế tái hấp thu: vận chuyển tích cực thứ phát
+ Đồng vận chuyển thuận với Na+ ở bờ bàn chải vào tế bào biểu mô.
+ Khuếch tán có gia tốc qua bờ đáy và bờ bên vào dịch kẽ.
- Đặc điểm: do khả năng hấp thu có giới hạn nên có sự cạnh tranh nếu xuất hiện
một loại đường khác trong ống thận như fructose, galactose, xyclose.
70
2.5. Tái hấp thu và bài tiết K+
- Vị trí: ống lượn gần, quai Henle, ống lượn xa, ống góp.
- Lượng tái hấp thu và bài tiết:
+ Ống lượn gần: tái hấp thu gần 100%.
+ Ngành lên quai Henle: tái hấp thu một lượng nhỏ.
+ Ống lượn xa và ống góp: lượng bài tiết thay đổi tùy theo tổng lượng K+ trong
cơ thể và được kiểm soát bởi hormon aldosteron.
- Cơ chế tái hấp thu và bài tiết:
+ Ống lượn gần: hấp thu theo cơ chế vận chuyển tích cực
. Bơm K+ ở bờ bàn chải bơm K+ từ dịch ống thận vào tế bào biểu mô.
. Nồng độ K+ trong tế bào biểu mô cao nên K+ sẽ khuếch tán từ tế bào biểu
mô ra dịch kẽ qua bờ bên và bờ đáy.
+ Ngành lên quai Henle: hấp thu theo cơ chế vận chuyển tích cực theo cơ chế
đồng vận chuyển thuận cặp 3: 1Na+/1K+/2Cl-.
+ Ống lượn xa và ống góp: bài tiết theo cơ chế:
. Bơm Na+-K+-ATPase ở bờ bên và bờ đáy bơm K+ từ dịch kẽ vào tế bào biểu
mô ống thận.
. Nồng độ K+ trong tế bào biểu mô cao nên K+ sẽ khuếch tán từ tế bào biểu
mô ra dịch ống thận. Sự bài tiết này có cạnh tranh với H+.
- Đặc điểm: thận là nơi chủ yếu điều hòa nồng độ K+ của cơ thể. K+ được tái hấp
thu chủ động gần như hoàn toàn ở ống lượn gần; trường hợp thiếu K+ thì K+ sẽ
được tiếp tục tái hấp thu dọc theo ống thận; trường hợp thừa K+ thì K+ sẽ được
bài tiết chủ động ở ống lượn xa và ống góp với sự kiểm soát của aldosteron. Như
vậy aldosteron điều hòa nồng độ K+ trong cơ thể.
2.6. Tái hấp thu HCO3- và bài tiết H+
- Vị trí: ống lượn gần, ống lượn xa, ống góp và một phần quai Henle.
- Lượng tái hấp thu và bài tiết: thay đổi tùy theo tình trạng kiềm toan của cơ thể để
thực hiện chức năng điều hòa thăng bằng kiềm toan của cơ thể.
+ Khi pH dịch ngoại bào bình thường (pH = 7,4): cứ 1 H+ được bài tiết thì có 1
HCO3- được hấp thu. Bình thường lượng HCO3
- tái hấp thu theo phương thức
này chiếm 90% ở ống lượn gần, 5% ở quai Henle, 3% ở ống lượn xa và 2% ở
ống góp.
71
+ Khi cơ thể bị nhiễm toan: lượng HCO3- được lọc ít hơn lượng H+ bài tiết bằng
một cơ chế đặc biệt ở ống lượn xa và ống góp dưới sự kiểm soát của hormon
aldosteron. H+ thừa trong lòng ống sẽ kết hợp với các chất đệm của hệ đệm
phosphat hoặc hệ đệm amoniac ở ống thận để đào thải ra ngoài theo nước tiểu.
+ Khi cơ thể bị nhiễm kiềm: lượng HCO3- được lọc nhiều hơn lượng H+ bài tiết
do đó HCO3- không được tái hấp thu hết. HCO3
- thừa sẽ kết hợp với Na+ và các
ion dương khác ở ống thận để đào thải ra ngoài theo nước tiểu.
- Cơ chế tái hấp thu và bài tiết:
+ Tái hấp thu HCO3- và bài tiết H+ ở ống lượn gần, quai Henle, ống lượn xa và
ống góp: HCO3- được tái hấp thu gián tiếp nhờ vào hoạt động của men CA
(carbonic anhydrase). Quá trình này diễn ra cùng với sự bài tiết H+ hoán đổi
Na+.
Dịch kẽ Tế bào biểu mô Lòng ống thận Na+ Na+ Na+ HCO3
-
ATPase
K+ K+ H+ H+
H2O H2CO3
HCO3- HCO3
- H2CO3 CO2 CO2 CA
CA
H2OCơ chế tái hấp thu HCO3
- và bài tiết H+ ở ống thận
+ Bài tiết H+ ở ống lượn xa và ống góp: vận chuyển tích cực nhờ bơm H+-
ATPase ở bờ bàn chải bơm H+ từ tế bào biểu mô ống thận ra dịch lòng ống.
- Đặc điểm: các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tái hấp thu HCO3- và bài tiết H+:
+ PaCO2 trong máu tỷ lệ thuận với sự hấp thu và bài tiết.
+ Tổng lượng K+ trong cơ thể tỷ lệ nghịch với sự hấp thu và bài tiết.
+ Nồng độ Cl- trong máu tỷ lệ nghịch với sự hấp thu và bài tiết.
+ Aldosteron làm tăng sự bài tiết H+ do tác dụng trên bơm H+-ATPase ở ống
lượn xa và ống góp.
2.7. Bài tiết NH3
- Vị trí: ống lượn gần, ống lượn xa, quai Henle và ống góp.72
- Lượng tái bài tiết: thay đổi.
- Cơ chế bài tiết: vận chuyển thụ động do NH3 không mang điện, tan trong lipid.
- Đặc điểm: tế bào biểu mô của ống thận liên tục sản xuất ra NH3 từ glutamin. NH3
sẽ được khuếch tán vào ống thận hoặc vào máu phụ thuộc vào:
+ pH của nước tiểu: càng acid thì NH3 bài tiết vào ống thận càng nhiều và ngược
lại. Trong dịch lọc NH3 sẽ kết hợp với H+ tồn tạo dưới dạng các muối trung
tính như NH4Cl, (NH4)2SO4 và theo nước tiểu ra ngoài.
+ Tốc độ tương đối giữa dòng chảy của máu và của dịch lọc trong lòng ống
thận.
+ Trữ lượng K+ trong cơ thể: thiếu hụt K+ sẽ kích thích sinh NH3 và ngược lại,
cơ chế chưa rõ.
2.8. Tái hấp thu và bài tiết ure
- Vị trí: ống lượn gần, đỉnh quai Henle, ống góp phần tủy.
- Lượng tái hấp thu và bài tiết:
+ Ống lượn gần: tái hấp thu 50% là do khi nước được tái hấp thu ở đây làm cho
lượng ure trong lòng dịch trở nên cô đặc hơn và vì tế bào biểu mô ống lượn
gần có khả năng thấm urea, urea sẽ khuếch tán vào máu xung quang ống thận.
+ Đỉnh quai Henle: bài tiết 50%.
+ Ống góp phần tủy: tái hấp thu 60%. Vì phần dày của nhánh lên quai Henle,
ống xa và ống góp phần vỏ không có tính thấm đối với ure, nhưng lại tái hấp
thu nước ở ống xa và ống góp, nên độ tập trung của ure trong dịch lọc tăng
lên. Đến phần còn lại của ống góp nằm trong vùng tủy thận ure được tái hấp
thu 60% vào dịch kẽ tủy thận, trong đó 10% vào mạch thẳng, 50% được bài
tiết trở lại trong dịch lọc nơi đỉnh quai Henlé. Với cách này ure có thể tái tuần
hoàn vào ống thận nhiều lần trước khi nó được bài tiết. Ure đóng vai trò quan
trọng trong việc hình thành tính ưu trương trong tủy thận. Cuối cùng 40% ure
được bài xuất theo nước tiểu.
- Cơ chế tái hấp thu và bài tiết: vận chuyển thụ động
- Đặc điểm: chịu ảnh hưởng
+ Sự tái hấp thu nước: nếu sự tái hấp thu nước bị giảm sẽ dẫn đến giảm tái hấp
thu ure.
73
+ Tốc độ dòng chảy của ure trong dịch lọc: tốc độ nhanh làm cho sự tái hấp thu
ure bị giảm. Do đó, lượng urea bài tiết sẽ tăng.
+ Lượng protein ăn vào: lượng ure trong dịch kẽ (cũng như lượng ure trong
nước tiểu) thay đổi tùy theo lượng ure lọc vào cầu thận, mà lượng này tùy
thuộc vào chế độ ăn chứa nhiều hay ít protein. Nếu bữa ăn có nhiều protein sẽ
tăng khả năng làm cô đặc nước tiểu.
2.9. Tái hấp thu và bài tiết các chất khác
- Vitamin: được tái hấp thu theo nhu cầu của của cơ thể ở ống lượn gần bằng
phương thức vận chuyển tích cực.
- Uric acid: uric acid là sản phẩm cuối cùng của chuyển hoá purine, được sản xuất
một cách liên tục trong cơ thể và được bài tiết bởi thận. Số lượng bài tiết khoảng
10% số lượng được lọc. Tế bào ống lượn gần tái hấp uric acid và cũng bài tiết
acid uric nhưng thường tái hấp thu trội hơn.
- Magnesium: 70% Mg++ không kết hợp với protein trong huyết tương được lọc ở
cầu thận đến ống lượn gần sẽ tái hấp thu khoảng 20-30%. Khi đến đỉnh ống góp
tiếp tục tái hấp thu 50-60% và chỉ còn khoảng 5% Mg++ được bài xuất ra nước
tiểu trong điều kiện bình thường.
- Amino acid: amino acid của huyết tương được lọc bởi cầu thận và được tái hấp
thu hoàn toàn ở ống lượn gần. Cơ chế tái hấp thu giống glucose. Sự chuyên chở
này cũng có mức vận chuyển tối đa (Tm) và không có nhóm cạnh tranh.
- Protein: một lượng rất ít protein có trọng lượng phân tử thấp < 80.000 chủ yếu
Albumin trong huyết tương được lọc ở quản cầu (≤ 1,8g/ngày) và sau đó được tái
hấp thu phần lớn ở ống lượn gần bằng phương thức ẩm bào. Do đó chỉ còn 0,03g
protein trong nước tiểu /ngày. Khi có bệnh cầu thận sẽ xuất hiện protein trong
nước tiểu.
3. CHỨC NĂNG PHA LOÃNG VÀ CÔ ĐẶC NƯỚC TIỂU CỦA THẬN
Chức năng pha loãng và cô đặc nước tiểu của thận giúp điều hòa nồng
độ thẩm thấu của dịch ngoại bào và thực hiện dưới sự kiểm soát của ADH
3.1. Cơ chế pha loãng nước tiểu
- Xảy ra khi nồng độ thẩm thấu dịch ngoại bào giảm
- Cơ chế: giảm bài tiêt ADH làm giảm tái hấp thu nước ở ống lượn xa và ống góp.
74
3.2. Cơ chế cô đặc nước tiểu
- Xảy ra khi nồng độ thẩm thấu dịch ngoại bào tăng
- Cơ chế: đây là một cơ chế rất đặc biệt và phức tạp dựa trên sự sắp xếp giải phẫu
của quai Henle và quai mạch thẳng ở vùng tủy thận và sự tăng bài tiêt ADH làm
tăng tái hấp thu nước ở ống lượn xa và ống góp. Bậc thang thẩm thấu: từ vùng vỏ
vào vùng tủy thận nồng độ thẩm thấu tăng dần. Bậc thang này được duy trì nhờ
hoạt động của quai Henle như một hệ thống nhân ngược dòng và hoạt động của
mạch thẳng như một hệ thống trao đổi ngược dòng.
Quai Henle và mạch thẳng
+ Quai Henle: nhánh xuống không thấm các chất hòa tan nhưng thấm nước, đỉnh
quai Henle có hiện tượng bài tiết ure vào dịch lọc, nhánh lên hấp thu chất hòa
tan nhưng không thấm nước. Như vậy ở đỉnh quai Henle, nồng độ thẩm thấu
của dịch lọc cao nhất đạt đến 1200mOsmol/L. Khi dịch đến ống lượn xa và
ống góp, nước được tái hấp thu dưới ảnh hưởng của ADH, ống góp vùng tủy
cũng tái hấp thu ure để duy trì nồng độ thẩm thấu cao ở tháp tủy. Kết quả là
nước tiểu được cô đặc.
75
+ Quai mạch thẳng: bậc thang thẩm thấu trong tháp tủy sẽ không tồn tại lâu nếu
Na+, ure và các ion khác bị dòng máu cuốn đi, bình thường các chất này được
giữa lại là nhờ:
o Lưu lượng máu vùng tủy thận rất thấp chỉ bằng 1-2% lưu lượng máu
thận.
o Các mạch thẳng hoạt động như hệ thống trao đổi ngược dòng: nhánh
xuống hấp thu Na+, ure và bài tiết nước do vậy nồng độ thẩm thấu ở chóp
mạch thẳng tăng lên đến mức tối đa 1200mOsmol/L. Nhánh lên hấp thu
nước và bài tiết Na+, ure do vậy máu chảy qua mạch thẳng chỉ mang một
lượng rất nhỏ các chất hòa tan ra khỏi vùng tủy
Hoạt động của quai Henle và quai mạch thẳng
4. CHỨC NĂNG ĐIỀU HÒA CÂN BẰNG ACID-BASE CỦA THẬN
Thận điều hòa cân bằng acid-base thông qua cơ chế tái hấp thu HCO3- và bài
tiết H+. Nếu ta gây ra sự mất cân bằng của hệ đệm bằng cách cho acid hoặc base vào
thì thận sẽ làm cho cân bằng acid base trở lại bình thường sau 1 đến 3 ngày. Tuy chậm
nhưng cơ chế này hoạt động liên tục cho đến khi pH trở về giá trị bình thường. Trong
những điều kiện bình thường, thận có thể đào thải tới 500 mmol acid hoặc base mỗi
ngày. Nếu sự rối loạn vượt quá mức độ này cơ thể sẽ bị acidose hoặc alcalose nặng.
76
4.1. Vai trò của thận khi cơ thể bị nhiễm toan
Khi cơ thể bị nhiễm toan (pH giảm) thì nồng độ HCO3- giảm và nồng độ CO2
tăng trong dịch ngoại bào. Kết quả là ở thận lượng HCO3- được lọc giảm đi và lượng
ion H+ được bài tiết tăng lên rất nhiều. Lượng ion H+ thừa ra sẽ kết hợp với các chất
đệm của hệ đệm phosphat hoặc hệ đệm amoniac ở ống thận.
- Hệ thống đệm phosphat (HPO4-/H2PO4
-): lượng ion H+ thừa ra sẽ kết hợp với
HPO4- để tạo ra H2PO4
- rồi bài xuất theo nước tiểu, ion Na+ được tái hấp thu vào
tế bào rồi vào dịch kẽ thay thế cho ion H+ vừa được tiêu thụ trong phản ứng.
Đồng thời từ trong tế bào một ion bicarbonat được tạo ra trong quá trình bài tiết
ion H+ sẽ khuếch tán vào dịch kẽ tế bào làm tăng lượng ion HCO3- trong dịch kẽ
và làm cho pH tăng lên.
- Hệ thống đệm amoniac (NH3/NH4+): tế bào biểu mô của ống thận liên tục sản
xuất ra NH3 từ glutamin. NH3 được khuếch tán vào ống thận. Ion H+ thừa ra sẽ
kết hợp với NH3 để tạo ra NH4+. NH4+ sẽ kết hợp với Cl- hoặc các ion (-) khác và
bài xuất ra nước tiểu. Đồng thời một ion Na+ được tái hấp thu vào tế bào rồi vào
dịch kẽ cùng với ion HCO3-. Kết quả là lượng HCO3- của dịch kẽ tăng lên và pH
tăng lên. Hệ thống đệm ammoniac có ưu điểm ở chỗ: trong số các ion (-), ion Cl -
chiếm tỷ lệ lớn nhất. Khi lượng H+ được bài tiết quá nhiều vào dịch ống, nếu ion
H+ kết hợp với ion Cl- sẽ tạo ra HCl là một acid mạnh và làm cho pH của dịch
ống trở thành rất acid làm ngăn cản quá trình bài tiết H+ của tế bào ống thận. Nếu
có mặt NH3 thì H+ sẽ kết hợp với NH3 thành NH4+ rồi NH4+ mới kết hợp với Cl-
tạo ra NH4Cl bài xuất theo nước tiểu. NH4Cl không làm thay đổi pH của dịch ống
vì nó là acid yếu. Nếu tình trạng nhiễm toan kéo dài, sự tổng hợp ammoniac có
thể tăng lên 10 lần trong 2 đến 3 ngày để thực hiện vai trò đệm của mình.
77
4.2. Vai trò của thận khi cơ thể nhiễm kiềm
Khi cơ thể nhiễm kiềm (pH tăng) nồng độ HCO3- trong dịch kẽ tăng lên và nồng
độ CO2 giảm đi. Kết quả là ở thận lượng HCO3- được lọc nhiều hơn lượng ion H+ được
bài tiết. Các ion HCO3- không được “trung hòa” sẽ kết hợp với ion Na+ và các ion (+)
khác ở ống thận và đào thải theo nước tiểu. Ion HCO3- không được tái hấp thu có nghĩa
là thận đã làm giảm lượng HCO3- trong dịch ngoại bào và do đó là giảm pH.
• Tài liệu tham khảo:
1. Bài giảng Sinh lý học, Bộ môn Sinh lý, Trường Đại học Y Hà Nội.
2. Bài giảng Sinh lý học, Bộ môn Sinh lý, Đại học Y Dược Tp. HCM.
3. Textbook of medical physiology, Guyston and Hall.
4. Human physiology, Rhoades and Pflanzer.
5. Rieview of medical physiology, Ganong.
78
CA
Khoảng kẽ Tế bào ống thận Lòng ống
Hệ đệm amoniac
HCO mới
CHUYỂN HÓA XƯƠNG
Quá trình hình thành và phát triển xương bao giờ cũng có hai việc tiến hành
song song là xây dựng và phá hủy xương được gọi là chuyển hóa xương.
1. ĐẠI CƯƠNG VỀ HỆ XƯƠNG
1.1. Chức năng của hệ xương
- Nâng đỡ: hệ xương phải đủ vững để nâng đỡ toàn cơ thể đặc biệt là ở tư thế
đứng đồng thời tạo cho con người có hình dáng nhất định trong không gian. -
Bảo vệ: hộp sọ và cột sống bao bọc hệ thần kinh; lồng ngực che chở tim phổi và các
mạch máu lớn; khung chậu che chở một số tạng thuộc hệ niệu dục.
- Vận động: xương là nơi cơ bám do vậy đóng vai trò thụ động như một hệ
đòn bẩy mà điểm tựa là các khớp trong bộ máy vận động.
- Tạo máu và trao đổi chất: xương là nơi tạo ra các tế bào máu, đồng thời dự trữ
mỡ, các muối khoáng mà đặc biệt là calci và phospho.
1.2. Phân loại xương
1.2.1. Phân loại theo mô học
- Xương lưới (xương nguyên phát): đặc điểm là các sợi collagen trong chất căn
bản chạy theo nhiều hướng khác nhau, không hình thành các lá xương. Thành phần
chất khoáng thấp và giàu tế bào xương hơn so với xương lá. Xương lưới bền chắc
trước lực kéo và lực uốn. Ở người trưởng thành xương lưới còn ở vài nơi: phần đá của
xương đá, lằn ghép giữa các xương sọ, nơi bám của gân…
- Xương lá (xương thứ phát): là kiểu xương chủ yếu ở người trưởng thành, gồm
các lá xương ghép lại với nhau. Đặc điểm là các sợi collagen trong mỗi lá xương chạy
song song với nhau theo hướng xoắn ốc và tạo góc với hướng của sợi collagen ở lá
xương cạnh bên. Lá xương có chiều dày trung bình 3-7µm.
Trong sự phát triển xương và trong quá trình liền xương gãy bao giờ xương lưới
cũng hình thành trước, sau đó xương lá sẽ thay thế xương lưới.
1.2.2. Phân loại xương theo nguồn gốc sinh xương
- Xương cốt mạc hay xương màng: do lớp tạo xương của màng xương sinh ra.
Đây là loại xương đặc, được tạo bởi những lá xương đồng tâm nằm sát nhau.
- Xương Havers hay xương sụn: do tủy xương tạo ra chia thành 2 loại theo cách
sắp xếp các lá xương:79
+ Xương Havers đặc: là loại xương rất cứng. Đơn vị cấu tạo là những hệ thống
Havers. Mỗi hệ thống Havers là một khối xương hình trụ tạo thành bởi những lá
xương đồng tâm (khoảng 10-15 lá) quây quanh một ống nhỏ gọi là ống Havers. Trong
các lá xương hay xen vào giữa các lá xương có những ổ xương chứa thân tế bào xương
(osteocyte) và những vi quản xương chứa các nhánh của tế bào xương. Các ống
Havers của hệ thống cạnh nhau thông với nhau bởi ống nối xiên. Ống Havers là đường
đi của mạch máu trong xương.
+ Xương Havers xốp: là xương có những hốc tủy lớn thông với nhau bởi những
vách ngăn không hoàn toàn. Các vách xương được tạo thành bởi những lá xương.
Trong các hốc tủy có chứa tủy tạo huyết. Xương Havers xốp có ở đầu các xương dài,
các xương dẹt và trung tâm các xương ngắn.
1.3. Cấu tạo của hệ xương
1.3.1 Cấu trúc đại thể của xương dài
- Thân xương:
+ Màng xương dày không quá 2mm, có lỗ cho mạch máu đi qua.
+ Chất xương đặc gồm: hệ thống cơ bản ngoài là những lá xương cốt mạc đồng
tâm bao bọc bên ngoài, lớp giữa cấu tạo chủ yếu bởi xương Havers và trong cùng là hệ
thống cơ bản trong cũng gồm một ít lá xương đồng tâm.
+ Buồng tủy chứa tủy xương gồm tủy đỏ và tủy vàng.
- Đầu xương có phần trung tâm rất dày là xương Havers xốp, phần ngoại vi
mỏng là xương cốt mạc. Tại diện khớp, xương cốt mạc được thay bằng sụn khớp. Đầu
xương cũng được bọc trong màng xương trừ ở diện khớp.
Hình 1. Cấu trúc đại thể thân xương
80
Hệ thống trung gian Hệ thống Havers Hệ thống cơ bản trong Hệ thống cơ bản ngoài
Buồng
tủy
Ống Havers Màng xương
1.3.2. Cấu trúc vi thể
Mô xương thuộc loại mô liên kết có nguồn gốc từ trung mô. Cũng như các loại
mô liên kết khác, mô xương được cấu tạo gồm ba phần: chất căn bản, các sợi và các tế
bào. Tuy nhiên khác với các mô liên kết khác, các thành phần ngoài tế bào của mô
xương bị calci hóa làm cho chất căn bản trở nên rất cứng rắn.
* Chất căn bản: mịn, không có cấu trúc, ưa acid, gồm hai thành phần chính:
- Khuôn hữu cơ: chiếm 30% trọng lượng xương khô do tạo cốt bào tổng hợp
bao gồm: 90% collagen typ I; 5% proteoglycan, các phân tử kết dính và các γ-
carboxylat (gla) protein; 3% yếu tố tăng trưởng dự trữ; 2% osteonectin.
- Muối vô cơ: chiếm khoảng 70% trọng lượng xương khô, trong đó chủ yếu là
muối calci dưới dạng tinh thể hydroxyapatit tricalcic và hydrat-calci.
* Các sợi: các sợi của mô xương vùi trong chất căn bản. Những sợi này giống như sợi
collagen của mô liên kết thông thường. Các sợi trong mô xương có tác dụng làm giảm
các lực cơ học tác động vào xương.
* Các tế bào: Trong mô xương có 4 loại tế bào hoạt động:
- Tiền tạo cốt bào (Preosteoblast): là những tế bào có nhân hình bầu dục hoặc
dài. Tiền tạo cốt bào thường thấy trên mặt xương ở lớp trong màng xương, lớp mặt
trong ống Havers. Các tế bào này tích cực hoạt động trong quá trình phát triển bình
thường của xương, tham gia sửa sang lại xương, hàn gắn các xương gãy hoặc bị tổn
thương. Khi thực hiện các việc nêu trên, các tiền tạo cốt bào tăng nhanh về số lượng
bằng cách gián phân rồi biệt hóa thành những tạo cốt bào.
- Tạo cốt bào (Osteoblast): là những tế bào đa diện, nhân lớn hình cầu hay bầu
dục. Tạo cốt bào thường xếp thành một hàng trên mặt các bè xương đang hình thành ở
lớp trong màng xương, mặt trong ống Harvers. Tạo cốt bào tạo ra khuôn hữu cơ và
gián tiếp làm lắng đọng muối khoáng lên đó. Như vậy chất căn bản xương được hình
thành. Trong quá trình tạo xương mới, khoảng 15% tạo cốt bào tự vùi mình trong chất
căn bản do chúng tạo ra và trở thành tế bào xương. Số còn lại, khi quá trình tạo xương
dừng, sẽ chuyển lại thành tiền tạo cốt bào nằm trên bề mặt xương nên còn gọi là tế bào
lót (lining cell).
- Tế bào xương (Osteocyte): là những tế bào có nhiều nhánh mảnh, dài. Tế bào
xương nằm trong các ổ xương, mỗi ổ xương chỉ có một tế bào. Các nhánh của tế bào
xương đi trong các tiểu quản xương đến tiếp xúc với tế bào xương bên cạnh. Ở tế bào
81
xương đã già, người ta thấy lysosom chứa nhiều enzym. Những enzym này có tác
dụng tiêu hủy protein của khuôn hữu cơ giải phóng calci vào máu. Tế bào xương
không có khả năng sinh sản. Chúng sẽ bị thực bào và bị tiêu hóa cùng các thành phần
khác của xương trong quá trình tiêu xương.
Hình 2. Các tế bào trong xương
- Hủy cốt bào (Osteoclast): là những tế bào lớn, nhiều nhân, lysosom và không
bào. Phía tiếp xúc với chất căn bản xương, mặt hủy cốt bào có một diềm bàn chải. Hủy
cốt bào thường xuất hiện ở những vùng sụn, xương đang bị phá hủy, ở trên mặt xương
của các khoảng trống Howship. Chúng khử muối khoáng và làm tiêu hủy khuôn hữu
cơ của chất căn bản. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, hủy cốt bào sẽ chết theo chương
trình (apoptotic degeneration).
2. QUÁ TRÌNH TẠO XƯƠNG VÀ TIÊU XƯƠNG
Chuyển hóa xương được đặc trưng bởi hai quá trình đối lập nhau là tạo xương
và tiêu xương. Quá trình chuyển hóa xương luôn tạo ra sự thay đổi của một số thành
phần trong nội môi. Những thành phần này được sử dụng như là những chỉ số sinh học
để đánh giá hoạt động chuyển hóa xương.
2.1. Quá trình tạo xương
2.1.1. Tế bào thực hiện và quá trình biệt hóa
Dòng tạo cốt bào thực hiện tạo xương qua các giai đoạn biệt hóa.
82
Tạo cốt bào
Hủy cốt bào
Tế bào xương
Bảng 1. Sự biệt hóa của dòng tế bào tạo xương
Giai đoạn Sản phẩm bài tiết Chức năngTế bào gốc trung mô
chưa biệt hóa
Chưa biết Biệt hóa tạo ra mô liên
kết, xương, sụn, cơ, mỡ Tế bào gốc commit Chưa biết Biệt hóa tạo ra xươngTiền tạo cốt bào I Collagen typ I và III, versican Tổng hợp khuôn hữu cơ;
có khả năng tái tạoTiền tạo cốt bào II Phosphatase kiềm, collagen typ I và
III, thrombospondin, bone gla-
protein, decorin, các yếu tố tăng
trưởng
Tích tụ ion dương và ion
âm cho việc tạo khoáng;
có khả năng tự tái tạo
Tạo cốt bào Phosphatase kiềm, yếu tố tăng
trưởng, fibronectin, osteonectin,
bone sialoprotein, collagen typ I,
biglycan,osteocalcin, osteopontin
Điều hòa sự tạo khoáng
chất và tiêu hủy; không
có khả năng tái tạo
Tế bào xương Osteocalcin, fibronectin, biglycan,
prostaglandin (?)
Chịu lực cơ học, không
có khả năng tái tạo2.1.2. Cơ chế tạo xương
Hai giai đoạn chính: hình thành mô dạng xương và khoáng hóa.
2.1.2.1. Giai đoạn hình thành mô dạng xương (osteoid tissue)
Là giai đoạn tạo cốt bào tổng hợp và bài tiết collagen typ I, gồm hai bước:
* Bước nội bào:
Tiền collagen được tổng hợp trong tạo cốt bào giống như các protein khác. Tiền
collagen gồm 3 chuỗi polypeptid xoắn lại với nhau. Trong mỗi chuỗi, glycin chiếm
khoảng 30% và prolin chiếm khoảng 12% tạo thành những đơn vị cấu trúc bộ ba lặp đi
lặp lại glycin-X-Y (X thường là prolin). Đồng thời có sự hydroxyl hóa các gốc prolin
và lysin thành hydroxyprolin và hydroxylysin; glycosyl hóa các gốc glucose và
galactose thành glucosyl và galactosyl. Sau đó tiền collagen được bài tiết ra ngoài.
* Bước ngoại bào:
- Tạo sợi collagen: enzym tiền collagen peptidase sẽ cắt hai đầu tận cùng có
nhóm amino (-NH2) và carboxyl (-COOH) của tiền collagen tạo thành phân tử
tropocollagen. Những phân tử tropocollagen trùng hợp lại thành tơ collagen. Các tơ
collagen họp lại tự nhiên tạo thành sợi collagen.
83
- Tạo mô dạng xương: các sợi collagen phối hợp cùng với các protein không
phải collagen hình thành mô dạng xương. Các protein không phải collagen có nhiều
nguồn gốc khác nhau và được chia thành 4 nhóm:
+ Nhóm protein gắn với tế bào: có bốn loại là fibronectin, thrombospontin,
osteopontin và bone sialoprotein. Vai trò của nhóm này là giúp các tế bào gắn vào mô
xương và thực hiện chức năng.
+ Nhóm proteoglycan: có hai loại là heparan sulfat và chondroitin sulfat
proteoglycan. Heparan sulfat proteoglycan bám trên màng tạo cốt bào giúp nó kết nối
với các protein gắn tế bào hoặc tương tác với những yếu tố tăng trưởng. Chondroitin
sulfat proteoglycan bám vào sợi collagen có vai trò điều hòa tổng hợp collagen và tạo
hàng rào ngăn sự xâm nhập của tác nhân lạ. Chondroitin sulfat proteoglycan gồm
proteoglycan I (biglycan) thường gặp ở xương đang phát triển và proteoglycan II
(decorin) thường gặp ở xương đã trưởng thành.
+ Nhóm gama-carboxylated (gla) protein: có hai loại là osteocalcin (bone gla
protein) và matrix gla protein. Matrix gla protein có chức năng chưa rõ trong khi
osteocalcin được cho rằng có vai trò ngăn cản không cho sự khoáng hóa mô dạng
xương xảy ra quá sớm. Osteocalcin do tạo cốt bào tổng hợp phụ thuộc vitamin D, K, C
và bị ức chế bởi PTH, glucocorticoid, coumarin.
+ Nhóm các yếu tố tăng trưởng: có nhiều loại như TGFβ, IGF-1 tác động đến
chu kỳ sống và chức năng của tạo cốt bào.
2.1.2.2. Giai đoạn khoáng hóa
- Có hai cơ chế khoáng hóa:
+ Khoáng hóa trên mô hình sụn và xương lưới: xảy ra thông qua các túi chứa
khuôn hữu cơ gọi là những nhân hydroxyapatit. Các muối khoáng sẽ lắng đọng trên
các nhân ấy tạo thành những tinh thể hình cầu Ca10(PO4)6(OH)2.
+ Khoáng hóa xương lá: xảy ra trực tiếp do các ion lắng đọng trong các cấu trúc
dạng “lỗ” (“hole” zone) của sợi collagen hoặc giữa các sợi collagen.
- Điều hòa sự khoáng hóa:
+ Pyrophosphat: ức chế mạnh quá trình khoáng hóa khi ở nồng độ thấp.
+ Phosphatase kiềm: xúc tác phản ứng thủy phân pyrophosphat do đó kiểm soát
được nồng độ pyrophosphat.
84
+ Osteonectin: có ái lực cao với ion calci và hydroxyapatit đồng thời nó cũng
có khả năng gắn với collagen và thrombospondin.
2.1.3. Các chất chỉ dẫn (markers) của quá trình tạo xương
Sự tạo xương được đánh giá bằng cách đo các sản phẩm bài tiết điển hình của
tạo cốt bào trong máu.
* Phosphatase kiềm:
Phosphatase kiềm có ở nhiều mô. Trong máu người trưởng thành bình thường,
một nửa phosphatse kiềm có nguồn gốc từ xương phần còn lại do gan tổng hợp và một
phần nhỏ từ ruột và các mô khác. Trong trường hợp không có bệnh lý gan mật, nồng
độ phosphatase kiềm huyết thanh liên quan chặt chẽ với hoạt động tạo xương của tạo
cốt bào.
Hoạt tính của phosphatase kiềm thay đổi phụ thuộc chính vào tuổi, giới và
hormon. Ở người trưởng thành bình thường, nồng độ phosphatase kiềm huyết thanh có
giá trị giới hạn đến 100 IU/L. Trong khoảng tuổi 20-50, hoạt tính phosphatase kiềm ở
nam cao hơn nữ, đến tuổi mãn kinh nồng độ phosphatase kiềm sẽ tăng lên bởi hoạt
động của cả gan và xương ở phụ nữ.
* Osteocalcin:
Osteocalcin khá đặc hiệu cho quá trình tạo xương. Tuy nhiên, những mảnh
osteocalcin của khuôn hữu cơ còn có thể vào máu khi xảy ra quá trình tiêu xương; mặt
khác osteocalcin cũng hiện diện trong mẫu tiểu cầu và tiểu cầu. Các mảnh osteocalcin
được đào thải bởi thận nên sự gia tăng nồng độ osteocalcin máu còn có thể do giảm
chức năng thận.
Một phần nhỏ osteocalcin mới tổng hợp sẽ vào máu. Ở người trẻ, nồng độ
osteocalcin huyết thanh dao động 2-12 ng/mL. Nồng độ osteocalcin tăng theo tuổi và ở nữ
cao hơn nam đặc biệt là phụ nữ sau 50 tuổi trong 15 năm đầu mãn kinh.
* Các đoạn peptid ở hai đầu tận cùng có nhóm carboxyl và amino của tiền
collagen:
Đây là sản phẩm của sự phân cắt dây nối peptid ở hai đầu tận cùng có nhóm
carboxyl và amino của tiền collagen ở ngoài tế bào. Tuy vậy, collagen typ I còn được
tổng hợp ở da nên các dây nối peptid ở hai đầu tận cùng của tiền collagen không phải
là chỉ số đặc hiệu cho sự tạo xương của tạo cốt bào.
2.2. Quá trình tiêu xương
85
2.2.1. Tế bào thực hiện và quá trình biệt hóa
Hủy cốt bào thực hiện tiêu xương. Hiện nay người ta cho rằng bạch cầu đơn
nhân lớn, đại thực bào và hủy cốt bào có chung tế bào nguồn ở tủy xương, đó là tế bào
tiền thân định hướng dòng bạch cầu hạt-đại thực bào. Sau một số giai đoạn phát triển,
tế bào tiền thân của hủy cốt bào được sinh ra và biệt hóa theo hướng riêng, theo dòng
máu tới mô xương trở thành hủy cốt bào.
Bảng 2. Sự biệt hóa của dòng tế bào hủy xương
Các giai đoạn biệt hóa Đặc điểm Vị tríTế bào gốc đa năng CD34+ Tủy xươngTế bào gốc của đại thực
bào và bạch cầu hạt (CFU-
GM)
CD14+, CD11a và HLA-DR- Tủy xương
Tế bào định hướng hủy cốt
bào đơn nhân
Các receptor vitronectin,
receptor calcitonin,
phosphatase acid kháng tartrat
Máu ngoại vi, hợp bào
lại thành hủy cốt bào đa
nhân có khả năng tiêu
xươngHủy cốt bào đa nhân Receptor calcitonin, receptor
vitronectin, phosphatase acid
kháng tartrat, H+-ATPase,
carboanhydrase typ II
Mô xương
Chết theo chương trình2.2.2. Cơ chế tiêu xương
Hủy cốt bào có khả năng di động dọc theo những khoảng trống Howship. Khi
tác nhân gây tiêu xương xuất hiện, các tế bào lót sẽ co lại bộc lộ bề mặt xương. Hủy
cốt bào tiến vào chỗ đó, hình thành bờ bàn chải bám dính vào các thành phần của chất
căn bản xương như osteopontin nhờ một cấu trúc đặc biệt là αVβ3 và bắt đầu tạo ra ổ
tiêu xương hình đáy chén. Hủy cốt bào bài tiết hai loại chất qua bờ bàn chải để gây
tiêu xương:
- Các enzym của lysosom như phosphatase acid kháng tartrat, cystein protease,
β glycerolphosphatase, β glucuronidase, collagenase có tác dụng tiêu hủy khuôn hữu
cơ của xương.
- Nhiều acid như acid citric và acid lactic được tạo thành trong ổ tiêu xương
nhờ hoạt động của bơm proton Na+/H+, Na+/K+-ATPase, HCO3-/Cl-, Ca2+ ATPase và
86
kênh K+. Bờ đáy bên của hủy cốt bào có rất nhiều bơm Na+/K+-ATPase và có sự trao
đổi của HCO3- và Cl-. Trong tế bào, ion hydrogen được tạo ra bởi H2O và CO2 dưới sự
xúc tác của enzym carbonic anhydrase typ II. Sau đó ion hydrogen được bơm qua bờ
bàn chải bởi một bơm proton, giống như bơm proton ở thận. Các acid này tạo ra môi
trường toan chuyên biệt trong các ổ tiêu xương gây hòa tan các muối khoáng của
xương.
Ngay khi ổ tiêu xương đạt đến độ sâu 50µm, hủy cốt bào dời khỏi bề mặt
xương và kết thúc hoạt động tiêu xương. Sau đó hủy cốt bào sẽ chết theo chương trình
dưới tác dụng kích thích của estrogen, TGFβ và bisphosphonat.
2.2.3. Các chất chỉ dẫn (markers) của quá trình tiêu xương
2.2.4.1. Các sản phẩm thoái hóa của collagen typ I trong nước tiểu
Khi hủy cốt bào hoạt động, collagen typ I bị thoái hóa, các sản phẩm được đào
thải qua nước tiểu. Do vậy, đây là những chỉ số giúp đánh giá sự hủy xương.
* Hydroxyprolin niệu
Khi xương bị tiêu hủy, hydroxyprolin được giải phóng từ sự thoái hóa collagen
và được đào thải nguyên dạng tự do qua thận vì acid amin này không bị chuyển hóa.
Hydroxyprolin cũng được phóng thích ra trong quá trình chuyển hóa của da, mô
liên kết và yếu tố bổ thể C1q. Do đó, hydroxyprolin niệu không phải là chỉ số đặc hiệu
cho sự tiêu xương. Hơn thế, nồng độ hydroxyprolin niệu bị ảnh hưởng bởi thành phần
hydroxyprolin có trong thức ăn (gelatin, thịt). Dùng hydroxyprolin niệu để đánh giá sự
tiêu xương chỉ có giá trị khi không dùng những thức ăn có hydroxyprolin trước đó 2
ngày. Lượng hydroxyprolin bài tiết trong một ngày ở người trưởng thành khoảng 15-
45mg.
* Hydroxylysin glycosid niệu
Hydroxylysin là một acid amin được giải phóng ra trong quá trình thoái hóa
collagen. Dạng bài tiết qua thận của hydroxylysin là glucosyl-galactosyl-hydroxylysin
hoặc glucosyl-hydroxylysin. Sự thoái hóa collagen không phải là nguồn gốc duy nhất
của hydroxylysin, trên 50% hydroxylysin glycosid bài xuất qua thận được tạo thành từ
sự chuyển hóa C1q.
* Các hợp chất hydroxypyridinium niệu
87
Các sợi collagen typ I và cả typ II, III, IX liên kết nhau bằng những liên kết
ngang (cross-links) đặc hiệu là các gốc hydroxypyridinium. Dẫn xuất của
hydroxypyridinium là pyridinolin (PYD) có ở lưới collagen của khớp, xương, gân
cũng như quanh mạch máu, trong khi dẫn xuất deoxypyridinolin (DPD) thì chỉ tham
gia cấu tạo lưới collagen của xương và ngà răng. PYD và DPD không có mặt trong
mạng lưới collagen của da nên nồng độ PYD và đặc biệt là DPD trong nước tiểu có thể
được xem như là đặc hiệu của quá trình tiêu xương.
Phụ nữ trước mãn kinh khỏe mạnh có nồng độ PYD và DPD là 17-60µmol/mol
creatinin và 1,8-9,0µmol/mol creatinin. Trong 3 năm đầu mãn kinh nồng độ PYD tăng
31% và DPD tăng 50%; những năm tiếp theo mức tăng này là 33% và 63%; nếu dùng
liệu pháp hormon thay thế mức tăng sẽ giảm.
* Các telopeptid của collagen typ I
Hai đầu tận cùng của chuỗi peptid (telopeptid) không có cấu trúc xoắn ba và
được liên kết bởi các hợp chất hydroxypyridinium với những vùng xoắn ốc của sợi
collagen liền kề. Trong quá trình thoái hóa collagen typ I, những đầu tận này được giải
phóng khỏi tình trạng liên kết của chúng và có thể đo lường trong huyết thanh bằng
phương pháp miễn dịch. Ngoài ra, các telopeptid cũng được giải phóng ra từ quá trình
chuyển hóa da.
2.2.4.2. Phosphatase acid kháng acid tartric trong máu
Đây là một sản phẩm của hủy cốt bào, nồng độ của nó trong máu phản ánh hoạt
động tiêu xương.
2.2.4.3. Sialoprotein xương
Protein này là một thành phần của xương, ngà răng và khớp bị vôi hóa. Nồng
độ sialoprotein xương trong huyết thanh tăng khi quá trình tiêu xương xảy ra. Tiểu cầu
cũng có chứa sialoprotein do đó sự thay đổi về số lượng tiểu cầu cũng ảnh hưởng đến
nồng độ sialoprotein huyết thanh.
2.2.4.4. Calci niệu
Với chức năng thận bình thường và một chế độ ăn cân đối, sự bài tiết calci trong
mẫu nước tiểu 24 giờ có thể được dùng như là một chất chỉ dẫn của sự tiêu xương.
Calci được bài tiết qua thận thấp nhất từ 9 giờ tối đến 6 giờ sáng và cao nhất vào trước
buổi trưa. Do đó, việc đo nồng độ calci, creatinin niệu vào buổi sáng lúc đói khoảng từ
88
8-10 giờ và việc sử dụng tỷ số calci/creatinin niệu đã được thừa nhận như là một chỉ số
có ý nghĩa chẩn đoán đối với những trường hợp có quá trình chuyển hóa xương nhanh.
Ở phụ nữ trưởng thành bình thường, lượng bài tiết hàng ngày qua nước tiểu của
calci là 1,0-6,25mmol/ngày và tỷ số calci/creatinin niệu là ≤0,57mmol/mmol.
2.3. Liên quan giữa quá trình tiêu xương và tạo xương
2.3.1. Sự tái tạo xương
Quá trình tiêu xương và tạo xương luôn luôn gắn liền nhau trong tiến trình tái
tạo hay đổi mới xương (remodeling, turnover bone). Tiến trình này xảy ra trong suốt
cuộc đời người và gồm các hiện tượng:
- Sự tạo thành khoảng trống Howship: các mạch máu từ buồng tủy mang theo
các tế bào dòng hủy cốt bào tiến vào thành xương đặc. Hủy cốt bào sẽ đào đường hầm
gọi là khoảng trống Howship hình ống dọc, ngang hay xiên nối thông với nhau.
- Sự tạo thành hệ thống Havers: trong khi hủy cốt bào tiến hành công việc của
nó thì tạo cốt bào đi kèm theo sau sẽ đắp vào thành khoảng trống Howship những lá
xương đồng tâm. Một số tạo cốt bào tự vùi mình vào giữa những lá xương trở thành tế
bào xương. Khoảng trống Howship ngày càng nhỏ lại thành một cái ống hẹp, đó là ống
Havers. Ống Havers cùng các lá xương đồng tâm tạo thành hệ thống Havers. Trong
ống Havers có mạch máu và các sợi thần kinh.
89
Tái tạo xương
Bề mặt xương
Mạch máu
Tạo cốt bào
Hủy cốt bào
Hình 3. Khoảng trống Howship
Hình 4. Hệ thống Havers
Màng xương
Buồng tủy
Hệ thốngHavers
Lá xương
Tế bào xương
ỐngHavers
Lá xương
Ống Harvers Mạch máu
Hủy cốt bào tiêu xương nhanh hơn tạo cốt bào tạo xương gấp năm lần, do đó
cần có một khoảng nghỉ dài giữa hai giai đoạn của chu kỳ tái tạo xương và đây chính
là điều kiện cần thiết cho việc duy trì sự cân bằng giữa tạo xương và tiêu xương. Nếu
tốc độ tái tạo xương tăng nhanh, tạo cốt bào sẽ không bù đắp kịp chỗ tiêu xương do
hủy cốt bào tạo ra và như vậy sẽ có hiện tượng mất xương.
2.3.2. Sự trao đổi thông tin giữa hủy cốt bào và tạo cốt bào
Sự trao đổi thông tin giữa hủy cốt bào và tạo cốt bào trong tiến trình tái tạo
xương được thực hiện bằng những tín hiệu địa phương theo cơ chế cận tiết. Trước khi
hủy cốt bào thực hiện quá trình tiêu xương, các tạo cốt bào tiết ra enzym collagenase
và những enzym khác như yếu tố hoạt hóa plasminogen tổ chức gây hoạt hóa từ từ
collagenase. Sự có mặt của collagenase được xem là tiền đề chuẩn bị bề mặt xương
cho tác động của hủy cốt bào.
Yêu cầu của quá trình tái tạo xương là phải giữ cân bằng giữa tiêu xương và tạo
xương để duy trì khối lượng xương. Bất kỳ sự mất xương xảy ra ở vị trí nào cũng phải
được bù đắp bằng sự tạo xương tương xứng chính xác tại vị trí đó. Khả năng này có
được là nhờ:
- Sự tiêu xương làm giải phóng ra các yếu tố tăng trưởng như: TGFβ1-3,
BMP1-7, IGF-1, IGF-2, bFGF, PDGF. Trước đó, các chất này đã được gắn chặt vào
chất căn bản của xương trong quá trình tạo xương.
- Môi trường acid ở các ổ tiêu xương dưới tác dụng của hủy cốt bào làm thủy
phân các yếu tố tăng trưởng (như TGFβ) thành dạng hoạt động.
- Các yếu tố tăng trưởng được vận chuyển vào trong bào tương hủy cốt bào qua
bờ bàn chải, sau đó đưa đến bờ đáy bên của hủy cốt bào và được bài tiết ra ngoài.
- Các yếu tố tăng trưởng sẽ kích thích sự tăng sinh và biệt hóa của các tiền tạo
cốt bào thành tạo cốt bào.
Kết quả là một lượng tương ứng các tạo cốt bào được tạo ra để bù đắp lại chỗ
tiêu xương sau khi hủy cốt bào đã thoái hóa.
3. KHỐI LƯỢNG XƯƠNG VÀ CHẤT LƯỢNG XƯƠNG
3.1. Khái niệm
Sức mạnh của xương bao gồm sự toàn vẹn cả về khối lượng và chất lượng của
xương. Khối lượng xương được biểu hiện bằng mật độ xương (BMD-Bone mineral
density) là mật độ khoáng hóa khuôn hữu cơ của xương và khối lượng xương (BMC-
90
Bone mass content) là trọng lượng xương. Chất lượng xương phụ thuộc vào thể tích
xương (xương đặc, xương xốp), vi cấu trúc xương (thành phần khuôn hữu cơ và chất
khoáng), chu chuyển xương (quá trình xây dựng và quá trình tái tạo xương).
3.2. Các thời kỳ của xương
Khối lượng và chất lượng xương thay đổi qua các thời kỳ phát triển của cơ thể.
Quá trình xây dựng xương (modelling bone) xảy ra ở trẻ em với biểu hiện tạo xương
mạnh hơn hủy xương và chủ yếu diễn ra ở gần đầu xương làm xương tăng trưởng. Sự
tăng trưởng được thực hiện dưới sự điều hòa của hormon như GH, hormon sinh dục…
Quá trình tái tạo xương xảy ra ở người lớn với tốc độ 2-10% xương hàng năm.
Đây là quá trình xương được đổi mới, sửa chữa nhưng không thay đổi kích thước do
có sự cân bằng giữa tạo xương và tiêu xương và sau đó tiêu xương mạnh hơn tạo
xương. Lượng chất khoáng trong xương đạt 90% vào tuổi 18 và đạt tới đỉnh ở tuổi 30.
Sau khi đạt đến giá trị tối đa khối xương bắt đầu giảm dần theo tuổi. Như vậy, mất
xương được xem là một hiện tượng sinh lý bình thường của cơ thể.
Riggs đã chia sự thay đổi khối lượng xương trong quá trình phát triển cơ thể ra
3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: khối lượng xương tăng dần để đạt tới giá trị tối đa.
- Giai đoạn 2: mất xương chậm theo tuổi, bắt đầu sau 40 tuổi với các xương
đặc, ở các xương xốp có lẽ sớm hơn 5-10 năm.
- Giai đoạn 3: mất xương nhanh, chỉ xuất hiện ở phụ nữ mãn kinh.
Sự mất xương sinh lý một cách rõ ràng xảy ra ở cả nam và nữ khi quá 50 tuổi,
tuy nhiên phụ nữ mất xương với tốc độ nhanh hơn. Tiêu xương là hiện tượng tất yếu
xảy ra ở tất cả phụ nữ mãn.
3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hệ xương
- Tuổi: thời gian sống càng lâu, khối xương mất càng lớn, đồng thời sự hấp thu
calci cũng giảm do vậy dễ có khả năng bị loãng xương.
- Giới: phụ nữ có khối xương thấp hơn nam giới. Theo Riggs, trong toàn bộ
cuộc đời, một phụ nữ sẽ mất khoảng 35% xương đặc và khoảng 50% xương xốp, trong
khi nam giới chỉ mất 2/3 số lượng này.
- Tuổi mãn kinh: những phụ nữ mãn kinh sớm, tự nhiên hay do phẫu thuật cắt
bỏ buồng trứng, có nguy cơ mất xương lớn hơn so với phụ nữ mãn kinh tự nhiên, vì sự
thiếu estrogen sớm.
91
- Chủng tộc: loãng xương rất hiếm gặp ở các nước châu Phi nhưng lại rất phổ
biến ở châu Âu và Bắc Mỹ. Tại Mỹ, phụ nữ da trắng và da vàng có tỷ lệ loãng xương
cao hơn phụ nữ da đen do phụ nữ da đen có khối xương lớn hơn.
- Yếu tố di truyền và gia đình: trong gia đình có bà, mẹ hoặc một người nào
khác bị loãng xương thì con cháu họ cũng có nguy cơ bị loãng xương. Có nhiều gen
đặc hiệu kiểm soát đỉnh khối xương cũng như sự mất xương đang được nghiên cứu.
Một số nghiên cứu đã ghi nhận mối liên quan giữa gen Sp1 COLIA1 (Sp1 collagen I
anpha 1) và tốc độ mất xương, những người có allele lặn (ss và Ss) có mật độ xương
thấp hơn người có kiểu gen đồng hợp tử trội SS.
- Sự cung cấp calci và vitamin D: ăn không đủ calci, sống thiếu ánh sáng đặc
biệt trong thời kỳ tạo xương sẽ có ảnh hưởng xấu đến việc xây dựng đỉnh khối lượng
xương. Calci có thể ngăn ngừa sự mất xương nhanh sau khi khối xương đã đạt đến
đỉnh. Vitamin D cần cho sự hấp thu calci. Ngoài ra, chế độ dinh dưỡng nhiều muối,
đạm động vật cũng là yếu tố nguy cơ của loãng xương.
- Vóc người: những người có thể tạng bé nhỏ dễ xuất hiện loãng xương hơn
những người to lớn vì họ có khối xương thấp hơn.
- Tập luyện: hoạt động thể lực và tập luyện rất quan trọng đối với việc xây dựng
và duy trì khối xương, ít hoạt động thể lực sẽ thúc đẩy sự mất xương.
- Hút thuốc: những nghiện thuốc lá có nguy cơ bị loãng xương cao hơn những
người khác.
- Nghiện rượu và cà phê: uống rượu nhiều, nghiện cà phê làm tăng nguy cơ
loãng xương do chúng có tác động làm tăng thải calci qua nước tiểu.
- Sử dụng thuốc: một số thuốc khi dùng kéo dài có thể làm tăng nguy cơ mất
xương như corticoid, T3-T4, thuốc lợi tiểu, thuốc chống đông, tetracyclin.
4. ĐIỀU HÒA CHUYỂN HÓA XƯƠNG
4.1. Các yếu tố điều hòa tại chỗ
Xương là một trong những mô có nhiều yếu tố tăng trưởng nhất, chúng đóng
vai trò điều hòa chuyển hóa của xương, liên kết tạo xương và hủy xương.
4.1.1. Các yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc từ các tế bào của xương
4.1.1.1. Insulin like growth factor (IGF)
IGF hay somatomedin gồm IGFI (somatomedin C) và IGFII là một yếu tố phụ
thuộc hormon tăng trưởng (GH). Bản chất hóa học là polypeptid.
92
IGF làm tăng tổng hợp và giảm thoái hóa collagen của xương, kích thích biệt
hóa tế bào dòng tạo cốt bào.
4.1.1.2. β2 microglobulin
β2 microglobulin là một polypeptid.
β2 microglobulin có tác dụng tương tự IGFI do nó điều hòa sự gắn kết của IGFI
vào receptor.
4.1.1.3. Transforming growth factors (TGF)
TGF là một polypeptid, có hai loại: TGFα và TGFβ. TGFα không phải là yếu
tố tăng trưởng tại chỗ của mô xương. TGFβ được tổng hợp bởi nhiều mô trong đó có
xương và gồm hai dạng: TGFβ1 và TGFβ2.
TGFβ kích thích sự biệt hóa của các tế bào dòng tạo cốt bào đồng thời cũng
trực tiếp làm tăng tổng hợp collagen của xương. Bên cạnh đó, nó ức chế sự biệt hóa
dòng hủy cốt bào và làm giảm hoạt tính của hủy cốt.
4.1.1.3. Fibroblast growth factors (FGF)
FGF là một polypeptid gồm: aFGF (acidic FGF) và bFGF (basic FGF).
FGF kích thích sự biệt hóa của các tế bào dòng tạo cốt bào dẫn đến làm tăng
tổng hợp collagen của xương.
4.1.1.4. Platelet-derived growth factor (PDGF)
PDGF là một polypeptid.
PDGF kích thích sự tiêu xương và tăng sinh các tế bào của xương.
4.1.2. Các yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc từ các mô liên quan đến xương
Hai yếu tố được nghiên cứu nhiều nhất là interleukin 1 và TNFα.
4.1.2.1. Interleukin 1 (IL-1)
IL-1 là một polypeptid có nguồn gốc từ monocyte. IL-1 có hai dạng: α, β.
IL-1 kích thích sự tiêu xương, tăng sinh và biệt hóa tế bào dòng hủy cốt bào dẫn
đến tăng tái tạo xương. Giống như PTH, IL-1 ảnh hưởng lên hủy cốt bào gián tiếp qua
tạo cốt bào. Người ta nhận thấy ở nồng độ thấp, IL-1 gây tổng hợp collagen xương.
Trái lại, ở nồng độ cao hoặc khi điều trị với IL-1 kéo dài sẽ làm giảm tổng hợp và tăng
thoái hóa collagen.
4.1.2.2. Tumor necrosis factor α (TNF α)
TNF α hay cachectin có nguồn gốc từ đại thực bào.
93
TNF α gây biệt hóa dòng hủy cốt bào gián tiếp qua tạo cốt bào dẫn đến kích
thích sự tiêu xương. Từ đó lại dẫn đến tăng sinh các tế bào dòng tạo cốt bào gây tổng
hợp collagen. Như vậy quá trình tái tạo xương tăng lên.
4.1.2.3. Gamma interferon
γ-Interferon là một lymphokin được sản xuất bởi lympho T. γ-Interferon ức chế
sự tiêu xương do ức chế sự biệt hóa của dòng hủy cốt bào.
4.2. Điều hòa bằng hormon
4.2.1. Các hormon polypeptid
4.2.1.1. Parathormon (PTH)
PTH được bài tiết từ tuyến cận giáp. Bản chất hóa học là một polypeptid.
PTH có tác dụng làm tăng nồng độ calci và giảm nồng độ phosphat trong máu.
Trên xương, PTH có hai tác dụng:
- Pha nhanh: PTH gắn lên receptor của tạo cốt bào và tế bào xương trên bề mặt
xương làm tăng tính thấm Ca++ của màng tế bào, calci khuếch tán từ dịch xương vào
trong tế bào. Sau đó bơm calci ở phía bên kia màng tế bào sẽ vận chuyển calci từ bào
tương ra dịch ngoại bào.
- Pha chậm: hủy cốt bào không có receptor với PTH, thay vào đó, tạo cốt bào và
tế bào xương được hoạt hóa bởi PTH sẽ phát tín hiệu tới hủy cốt bào gây hoạt hóa trực
tiếp hủy cốt bào có sẵn và tạo thành những hủy cốt bào mới. Tác dụng này thường
chậm và kéo dài.
4.2.1.2. Calcitonin
Calcitonin được bài tiết từ tuyến giáp. Bản chất hóa học là một polypeptid.
Calcitonin có tác dụng ngược với PTH, nó làm giảm nồng độ Ca++ trong máu.
Trên xương calcitonin có tác dụng:
- Tác dụng trực tiếp làm giảm hoạt tính của hủy cốt bào vì hủy cốt bào có
receptor với calcitonin và giảm hoạt động tiêu xương của tế bào xương dẫn đến giảm
huy động calci và phosphat từ xương ra dịch ngoại bào. Tác dụng này đặc biệt quan
trọng ở trẻ em vì nó làm tăng lắng đọng calci ở xương. Cơ chế là do calcitonin gây co
thắt màng hủy cốt bào đồng thời làm thoái hóa hủy cốt bào trưởng thành thành những
tế bào đơn nhân dẫn đến ức chế sự tiêu xương. Tuy nhiên tác dụng này chỉ là tác dụng
ngắn, tạm thời sau đó sẽ nhanh chóng mất đi.
94
- Tác dụng thứ hai chậm và kéo dài hơn là làm giảm sự tạo thành hủy cốt bào
mới do ức chế sự phân bào và biệt hóa của các tế bào tiền thân. Vì sự sinh hủy cốt bào
thường dẫn đến tác dụng thứ phát là kích thích sinh tạo cốt bào và tạo xương, do đó số
lượng hủy cốt bào giảm cũng sẽ dẫn đến số lượng tạo cốt bào giảm.
4.2.1.3. Growth hormon (GH)
GH được bài tiết từ thùy trước tuyến yên. Bản chất hóa học là một protein.
Các tế bào thuộc dòng tạo cốt bào và hủy cốt bào đều có receptor với GH. Như
vậy, ở khung xương người trưởng thành, GH duy trì cả hai tiến trình tạo và tiêu xương
gây sự tái tạo mô xương. GH có tác dụng làm tăng tổng hợp khuôn hữu cơ của xương,
làm phát triển sụn liên hợp, làm tăng chiều dài của xương.
Ở thời kỳ niên thiếu, GH làm phát triển khung xương bằng cách tác dụng trực
tiếp lên tế bào sụn trưởng thành ở đầu xương làm các tế bào này tăng bài tiết ra IGFI.
IGFI cùng với TGFβ gây phân bào trên tế bào tạo sụn và kích thích tế bào tạo sụn biệt
hóa làm phát triển lớp sụn ở đầu xương.
4.2.1.4. Insulin
Insulin được bài tiết từ tuyến tụy nội tiết. Bản chất hóa học là polypeptid.
Insulin cần cho sự tổng hợp khuôn hữu cơ của xương, tổng hợp sụn và sự
khoáng hóa bình thường của xương cũng như điều hòa quá trình tiêu xương. Có thể
nói insulin là một trong những hormon quan trọng nhất ảnh hưởng lên sự phát triển
bình thường của xương. Insulin có thể tác động trực tiếp lên mô xương hoặc gián tiếp
thông qua việc kích thích gan sản xuất IGFI, tuy nhiên khác với IGFI, insulin không
làm tăng số lượng tạo cốt bào.
4.2.2. Các hormon steroid
4.2.2.1. Vitamin D
Vitamin D được hình thành ở da dưới dạng cholecalciferol do tác dụng của tia
cực tím. Tại gan, cholecalciferol được chuyển thành 25-hydroxy-cholecalciferol. Tại
thận, 25-hydroxy-cholecalciferol lại được chuyển thành 1,25-dihydroxy-
cholecalciferol (calcitriol). Vitamin D là một steroid.
Trên xương, 1,25-dihydroxy cholecalciferol có tác dụng trên hủy cốt bào giống
như PTH do đó PTH và 1,25-dihydroxy cholecalciferol kết hợp thành một hệ thống
làm tăng nhanh nồng độ calci máu. Ngoài ra 1,25-dihydroxy cholecalciferol còn có
những ảnh hưởng khác gián tiếp trên sự tiêu xương. Nó ức chế sự phân bào của tế bào
95
lympho T và sự sản sinh ra IL-2. Dưới một số điều kiện, nó có thể làm tăng IL-1 từ
những bạch cầu mono. 1,25-dihydroxy cholecalciferol còn có tác dụng kích thích sự
tổng hợp osteocalcin của xương. Người ta cũng nhận thấy vai trò của nó trong sự
khoáng hóa và phát triển bình thường của xương. Do vậy thật ra ảnh hưởng của 1,25-
dihydroxy cholecalciferol trên xương là một ảnh hưởng tổ hợp phức tạp.
4.2.2.2. Estrogen
Estrogen được bài tiết từ noãn nang và hoàng thể của buồng trứng. Ngoài ra rau
thai, tuyến vỏ thượng thận cũng bài tiết estrogen. Estrogen là một steroid.
Giống như PTH và 1,25-dihydroxy-cholecalciferol, estrogen không liên quan
với việc điều hòa nhanh chuyển hóa calci mà thay vào đó chúng duy trì sự tồn tại của
khối xương ở một mức nhất định. Tác dụng của estrogen trên xương bao gồm:
- Trên tạo cốt bào có receptor tiếp nhận estrogen do đó chúng kích thích trực
tiếp làm tăng hoạt tính các tạo cốt bào. Tác dụng này làm xương phát triển cả về chiều
dài và độ dày. Đồng thời kích thích sự phát triển sụn liên hợp và sự cốt hóa sụn liên
hợp.
- Estrogen có tác dụng ức chế hủy cốt bào làm giảm sự tiêu xương do ngăn cản
sự phát triển của các tế bào tiền thân thành hủy cốt bào trưởng thành và kích thích sự
thoái hóa của các hủy cốt bào.
4.2.2.3. Androgen
Testosteron là loại androgen chính và được bài tiết từ tế bào Leydig của tinh
hoàn. Ngoài ra tuyến vỏ thượng thận cũng bài tiết testosteron. Testosteron là một
steroid có 19C.
Cũng như estrogen, receptor tiếp nhận testosteron có trên tạo cốt bào và sẽ gây
những tác dụng tương tự như estrogen đó là làm phát triển xương về cả chiều dài và độ
dày. Testosteron làm phát triển xương chậu theo chiều dài. Tác dụng cốt hóa sụn liên
hợp ở các đầu xương của testosteron yếu hơn nhiều so với tác dụng của estrogen do
vậy nam giới thường ngừng cao muộn hơn nữ giới.
Androgen ức chế sự tiêu xương bằng cách ngăn cản sự bài tiết các cytokin gây
tiêu xương như IL-1, IL-6.
4.2.2.4. Glucocorticoid
Glucocorticoid được bài tiết từ vỏ thượng thận. Cortisol là hormon chính của
glucocorticoid. Bản chất hóa học là một steroid.
96
Nồng độ sinh lý của glucocorticoid trong huyết tương có lẽ làm tăng tác dụng
của IGF đồng thời ức chế sự biệt hóa dòng tạo cốt bào. Nếu nồng độ cortisol tăng cao
và kéo dài sẽ dẫn đến thoái hóa khuôn hữu cơ của xương và ảnh hưởng đến quá trình
khoáng hóa gây loãng xương.
4.2.3. Hormon T3-T4
Hormon T3 và T4 được bài tiết từ tuyến giáp. Hai hormon này được tổng hợp
thừ tyrosin và iod.
T3 và T4 có tác dụng làm tăng biệt hóa tế bào, tăng chuyển mô sụn thành mô
xương. Ở nồng độ sinh lý, T3-T4 kích thích sự tái tạo xương. Cơ chế là do hormon này
có receptor trên tạo cốt bào sẽ kích thích các tạo cốt bào tăng hoạt tính. Tiếp theo, tạo
cốt bào phát tín hiệu gây biệt hóa dòng hủy cốt bào làm tăng tiêu xương.
Trường hợp tăng T3-T4 kéo dài sẽ ức chế tăng sinh tạo cốt bào, hoạt tính của
hủy cốt bào trở nên mạnh hơn và sự mất xương có thể xảy ra.
5. RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA XƯƠNG
Bệnh xương do nội tiết và chuyển hóa gồm: nhuyễn xương (osteomalacia) và
còi xương (ricket), loãng xương (osteoporosis), cường cận giáp nguyên phát (primary
hyperparathyroidism), loạn dưỡng xương do bệnh thận (renal osteodystrophy).
5.1. Còi xương (rickets) và nhuyễn xương (osteomalacia)
Còi xương và nhuyễn xương được đặc trưng bởi tình trạng xương không được
khoáng hóa, chất căn bản chỉ có thành phần hữu cơ làm cho xương trở nên mềm dễ bị
biến dạng.
Nguyên nhân của còi xương và nhuyễn xương là do thiếu vitamin D.
- Còi xương: xảy ra ở trẻ em chủ yếu do thiếu tiếp xúc với ánh sáng mặt trời
làm giảm tổng hợp vitamin D. Lượng Calci trong máu giảm khiến xương không được
khoáng hóa, biến dạng, trẻ không phát triển được đồng thời tuyến cận giáp tăng cường
hoạt động gây phá hủy xương càng làm cho xương yếu hơn.
- Nhuyễn xương: xảy ra ở người lớn do rối loạn hấp thu mỡ làm giảm hấp thu
vitamin D hoặc tổn thương thận là giảm tổng hợp 1,25-dihydroxy-cholecalciferol.
Xương sẽ trở nên yếu đi.
5.2. Loãng xương (osteoporosis)
Tháng 10/1990, Hội nghị Châu Âu về loãng xương đã thống nhất định nghĩa
loãng xương là một bệnh được đặc trưng bởi khối lượng xương thấp tới mức làm cho
97
xương trở nên xốp, giòn và dễ gãy. Nguyên nhân là do xương bị mất chất căn bản cả
thành phần hữu cơ và vô cơ gây ra đau vùng xương chịu tải, biến dạng xương, gãy
xương khi có chấn thương nhẹ.
Loãng xương thường gặp ở người lớn tuổi.
- Loãng xương nguyên phát: là giai đoạn cuối của tiến trình mất xương sinh lý
phụ thuộc vào đỉnh khối xương đạt được ở thời kỳ trưởng thành và tốc độ mất xương
hàng năm. Việc điều trị dự phòng phải bắt đầu từ nhỏ bằng chế độ dinh dưỡng và sinh
hoạt thích hợp cho việc xây dựng đỉnh khối xương tốt nhất. Loãng xương nguyên phát
gồm 2 loại:
+ Loãng xương mãn kinh (loãng xương nguyên phát typ I): là dạng loãng phần
bè xương có liên quan với sự thiếu estrogen ở thời kỳ đầu mãn kinh. Tổn thương điển
hình thường xảy ra ở những nơi có nhiều bè xương như cột sống, đầu dưới xương
quay, xương chày. Mật độ xương giảm thấp khi mất tác dụng của estrogen trên xương
vào thời kỳ mãn kinh sẽ được nhân lên nhiều lần dẫn đến loãng xương nếu kết hợp
thêm các yếu tố nguy cơ nội sinh, ngoại sinh.
+ Loãng xương tuổi già (loãng xương nguyên phát typ II): đây là dạng loãng
phần vỏ xương thường gặp ở cả hai giới sau 75 tuổi với tỷ lệ nữ so với nam là 2/1.
Loãng xương typ II là hậu quả của sự mất xương chậm trong vòng vài chục năm có
liên quan tới hai yếu tố quan trọng là giảm hấp thu calci, giảm chức năng tạo cốt bào
dẫn tới cường cận giáp thứ phát. Tổn thương điển hình là gãy cổ xương đùi, gãy lún
các đốt sống.
- Loãng xương thứ phát: xảy ra do bất động kéo dài và sau chấn thương; bệnh
nội tiết như hội chứng Cushing, cường aldosteron, suy tuyến sinh dục, bệnh Basedow,
to đầu ngón…; bệnh ống tiêu hóa, thiếu dinh dưỡng như hội chứng kém hấp thu, cắt
đoạn dạ dày, thức ăn thiếu calci, bệnh Scorbut, nghiện rượu; các nguyên nhân khác
như ung thư, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, bệnh gan, thận mạn tính, đái đường, viêm
khớp mạn, lạm dụng một số loại thuốc…
Tóm lại, chuyển hóa xương với sự gắn kết của hai quá trình tạo xương và tiêu
xương xảy ra trong suốt cuộc đời mỗi người. Việc xây dựng đỉnh khối xương tốt nhất
đồng thời với việc duy trì cân bằng giữa hai quá trình tạo xương và tiêu xương đảm
bảo cho bộ xương luôn được đổi mới song vẫn giữ sự vững chắc. Hoạt động của các
98
dòng tế bào tạo xương và hủy xương diễn ra theo những cơ chế phức tạp nhưng đồng
thời lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó có vấn đề dinh dưỡng và lối sống.
Do vậy, để đảm bảo cho bộ xương có thể thực hiện tốt vai trò của mình mỗi người cần
duy trì một chế độ sinh hoạt và tập luyện thích hợp ngay từ khi còn trẻ, đặc biệt là đối
với phụ nữ.
99
SINH LÝ ĐƯỜNG HUYẾT
1. SƠ LƯỢC VỀ GLUCID
1.1. Hóa học glucid
- Khái niệm: glucid là các dẫn xuất aldehyd hoặc ceton của các polyalcol hoặc là
các chất tạo ra các dẫn xuất này khi bị thủy phân.
- Phân loại: glucid có thể được phân thành 3 loại chính
+ Monosaccharid: là các đường đơn như glucose, fructose, galactose...
+ Oligosaccharid: là các đường tạo từ 2-6 phân tử đường đơn như saccarose
(sucrose), lactose, maltose...
+ Polysaccharid: là các hợp chất tạo từ một số lớn các monosaccharid. Loại này
chia thành 2 nhóm:
Polysaccharid thuần: gồm nhiều monosaccharid cùng loại nối với nhau
bằng liên kết glucozid như tinh bột, glycogen, cellulose.
Polysaccharid tạp: gồm nhiều monosaccharid khác loại liên kết với một số
chất khác (acid acetic, acid sulfuric) như mucopolysacarid,
glucopolysaccarid.
1.2. Chức năng chính của glucid
- Tạo năng: glucid là chất sinh năng lượng chủ yếu cho cơ thể.
- Tạo hình: glucid tham gia thành phần cấu tạo acid nucleic, glycoprotein,
glycolipid... là những cấu tử quan trọng của tế bào và mô.
- Tham gia các hoạt động chức năng của cơ thể: bảo vệ, miễn dịch, sinh sản, tạo
hồng cầu, hoạt động thần kinh, lưu trữ và thông tin di truyền…
1.3. Nguồn gốc
Glucid trong cơ thể có hai nguồn gốc: nội sinh và ngoại sinh, trong đó nguồn
gốc ngoại sinh quan trọng hơn.
- Ngoại sinh: các loại thức ăn có chứa glucid như hạt, củ, mô thực vật...
- Nội sinh: tạo thành từ sự tân tạo đường, chu trình Cori hoặc thủy phân glycogen.
100
2. CHUYỂN HÓA ĐƯỜNG HUYẾT
Hình 1. Sơ đồ chuyển hóa đường huyết
2.1. Tiêu hóa và hấp thu glucid
2.1.1. Tiêu hóa glucid
- Thức ăn chứa glucid:
+ Các hạt, củ: tinh bột (C6H10O5)n.
+ Các mô động vật: glycogen, mucopolysaccharid.
+ Các mô thực vật: cellulose, glucopolysaccharid.
+ Các loại khác: saccarose (mía, củ cải đường), lactose (sữa), maltose (mầm lúa,
kẹo mạch nha).
- Các men tiêu hóa glucid:
+ -Amylase:
• Nguồn gốc: nước bọt, dịch tụy, dịch ruột.
• Điều kiện hoạt động: pH tối thuận = 7,1.
• Tác dụng: phân giải tinh bột chín và sống thành mantose do cắt liên kết 1-4
glucozid của tinh bột.
+ Maltase:
• Nguồn gốc: dịch tụy, dịch ruột.
• Điều kiện hoạt động: pH tối thuận = 5,8-6,2.
101
Tiết niệu (lọc và tái hấp
thu)
Tiêu hóa(tiêu hóa và hấp
thu)Đường huyết
Gan(tổng hợp và dự
trữ)
Mô(thoái hóa)
• Tác dụng: phân giải maltose thành glucose.
+ Saccarase:
• Nguồn gốc: dịch ruột.
• Điều kiện hoạt động: pH tối thuận = 5,7.
• Tác dụng: phân giải saccarose thành glucose và fructose.
+ Lactase:
• Nguồn gốc: dịch ruột.
• Điều kiện hoạt động: pH tối thuận = 5,4-6.
• Tác dụng: phân giải lactose thành thành glucose và galactose
2.1.2. Hấp thu glucid
- Đường được hấp thu từ ruột vào máu qua tế bào biểu mô niêm mạc ruột:
+ Bờ bàn chải: hấp thu các monosaccharid (glucose, galactose, fructose)
• Glucose và galactose đồng vận chuyển thuận với Na+.
• Fructose khuếch tán có gia tốc vào tế bào rồi chuyển thành glucose.
+ Bờ đáy: glucose sẽ đi vào dịch kẽ theo cơ chế khuếch tán có gia tốc.
- Sau đó đường theo tĩnh mạch cửa về gan. Phân phối glucose sau khi ăn: 5% biến
thành glycogen ở gan, 30-40% biến thành lipid và 55% biến dưỡng ở cơ và các
mô khác.
2.2. Tổng hợp và dự trữ glucose
2.2.1. Tổng hợp glucose
Quá trình này xảy ra chủ yếu ở gan. Hai cách tổng hợp glucose:
- Từ các loại monosaccharid khác như fructose, galactose, mannose.
- Từ các sản phẩm chuyển hóa trung gian của glucid, lipid, protid... (sự tân tạo
glucose) như lactat và các acid amin thông qua pyruvat.
2.2.2. Dự trữ glucose
Dạng dự trữ của glucose trong cơ thể là glycogen.
- Tổng hợp và dự trữ glycogen: glycogen được tạo thành từ glucose trong mọi tổ
chức mà chủ yếu là gan và cơ.
+ Gan có khả năng tự tổng hợp glucose trong khi phần lớn các mô khác như cơ
phải lấy glucose từ máu. Như vậy dự trữ glycogen ở gan là dự trữ cho toàn cơ
102
thể, còn các mô khác chỉ dự trữ cho nhu cầu riêng.
+ Lượng glycogen ở gan đạt tới 10% trọng lượng tươi. Gan dự trữ khoảng 100g
glycogen, dự trữ này sẽ hết sau 24-36 giờ nhịn ăn hoàn toàn. Có nhiều yếu tố
ảnh hưởng xấu lên dự trữ glycogen của gan như thiếu enzym tổng hợp
glycogen di truyên, rượu …
- Thoái hóa glycogen: glycogen được thoái hóa để tạo thành glucose cung cấp cho
tế bào sử dụng, đặc biệt ở gan sự thoái hóa này còn để đưa glucose vào máu cung
cấp cho các tế bào trong cơ thể hoạt động. Hệ thống enzym thủy phân glycogen
là phosphorylase.
2.3. Lọc và tái hấp thu glucose
Glucose từ máu lọc vào nang Bowman và được tái hấp thu trở lại:
- Vị trí: ống lượn gần.
- Lượng tái hấp thu: ngưỡng đường của thận là 180mg/dL.
+ Khi nồng độ glucose trong máu bình thường (75-110mg/dL) hoặc giảm thấp
hoặc tăng lên nhưng dưới ngưỡng đường của thận sẽ được tái hấp thu 100%.
Do vậy không có glucose trong nước tiểu.
+ Khi nồng độ glucose trong máu lớn hơn ngưỡng đường của thận thì ống lượn
gần vẫn có khả năng tái hấp thu thêm 1 lượng glucose nữa (không đạt 100%)
và khả năng này cũng chỉ giới hạn đến một mức nào đó. Lượng glucose được
tái hấp thu thêm gọi là mức vận chuyển glucose tối đa (TmG = Tubular
transport maximum for glucose). TmG ở nam là 375mg/phút và ở nữ là
300mg/phút.
- Cơ chế tái hấp thu: vận chuyển tích cực thứ phát
+ Đồng vận chuyển thuận với Na+ ở bờ bàn chải vào tế bào biểu mô.
+ Khuếch tán có gia tốc qua bờ đáy và bờ bên vào dịch kẽ.
- Đặc điểm: do khả năng hấp thu có giới hạn nên có sự cạnh tranh nếu xuất hiện
một loại đường khác như fructose, galactose, xyclose.
- Xét nghiệm glucose niệu: bình thường khoảng 0,5mmol/24 giờ. Với nồng độ này
các xét nghiệm thông thường không phát hiện được. Glucose niệu gọi là dương
tính khi vượt quá 200-250mmol/24 giờ.
2.4. Thoái hóa glucose
Trong các tế bào, glucose tự do có nguồn gốc từ sự thủy phân glycogen chiếm 103
một phần rất ít, phần chủ yếu là do tế bào lấy từ máu. Thoái hóa glucose trong tế bào
với mục đích chính là cung cấp năng lượng cho tế bào hoạt động dưới dạng ATP và
cung cấp các sản phẩm trung gian cho nhiều quá trình chuyển hóa khác của cơ thể.
- Hấp thu glucose vào tế bào: khuếch tán có gia tốc, khi có insulin lượng glucose
vào tế bào tăng lên gấp 10 lần. Khi không có insulin, lượng glucose khuếch tán
vào tế bào không đủ cung ứng cho nhu cầu của tế bào. Ở một số mô như não, ống
thận, biểu mô ruột, hồng cầu, cơ vân khi hoạt động, gan sự hấp thu glucose
không cần sự có mặt insulin.
- Các con đường thoái hóa glucose: có 3 con đường chính:
+ Con đường “đường phân” (glycolysis) hay con đường Embden-Meyerhof tạo
ra pyruvat:
• Điều kiện hiếu khí: đi vào chu trình acid citric tạo ra CO2 và H2O.
• Điều kiện yếm khí: tạo ra lactat. Một số tế bào như võng mạc, não, hồng
cầu cũng sản sinh lactat trong điều kiện hiếu khí. Lactat được vận chuyển
ngược về gan để tái tạo lại glucose theo chu trình Cori.
+ Theo con đường hexose monophosphat hay chu trình pentose phosphat.
+ Theo con đường tạo acid glucuroic và acid ascorbic (vitamin C).
2.4.1. Chuyển hóa glucid trong hồng cầu
- Hồng cầu hấp thu glucose không cần insulin.
- Hồng cầu là một tế bào lưu thông trong máu nên các protein của hồng cầu như
hemoglobin và các enzym dễ bị glycosyl hóa.
2.4.2. Chuyển hóa glucid trong não
- Mô não hầu như chỉ sử dụng glucose để tạo năng lượng mà không sử dụng các
dạng sinh năng khác: lượng glucose này chủ yếu do máu cung cấp vì lượng
glycogen dự trữ trong mô não rất thấp.
- Mô não chỉ chuyển hóa glucose theo con đường hiếu khí: lượng O2 dự trữ trong
mô não rất ít vì vậy hoạt tính của nơron hoàn toàn phụ thuộc vào sự cung cấp O2
từ máu. Do vậy chỉ cần máu không lên não hoặc thiếu O2 trong máu từ 5-10 giây
cũng có thể gây bất tỉnh.
- Mô não hấp thu glucose không cần insulin: ở bệnh nhân tiểu đường do thiếu
insulin, glucose vẫn vào trong tế bào não được nên hoạt động tâm thần không bị
104
rối loạn.
- Cơ thể tiêu thụ glucose với tốc độ 2mg/Kg/phút, một nửa số này được chuyển
hóa ở hệ thần kinh trung ương.
2.4.3. Chuyển hóa glucid ở cơ
- Bình thường màng tế bào cơ chỉ cho glucose khuếch tán qua rất ít trừ phi có tác
dụng của insulin. Tuy nhiên khi lao động nặng hoặc luyện tập thì tế bào cơ có thể
sử dụng một lượng lớn glucose mà không cần một lượng insulin tương ứng. Cơ
chế màng tế bào cơ đang vận động tăng tính thấm đối với glucose chưa rõ.
- 4 nguồn năng lượng cho co cơ:
+ ATP dự trữ sẵn: đủ để co cơ 1-2 giây.
+ Phosphocreatinin: tái tạo ATP từ ADP, đủ để co cơ 7-8 giây.
+ Phân giải glycogen dự trữ trong tế bào cơ (đường phân): giải phóng ra năng
lượng để chuyển ADP thành ATP và tái tạo phosphocreatinin, quá trình này có
thể xảy ra theo con đường hiếu khí hoặc yếm khí và đủ để cơ co khoảng 1
phút.
+ Oxy hóa các chất sinh năng glucid, lipid, protid giải phóng ra ATP giúp cơ co
kéo dài.
3. XET NGHIÊM GLUCOSE MAU VA ANH HƯƠNG CUA ĐƯƠNG HUYÊT
3.1. Xét nghiệm glucose máu
- Glucose máu bình thường:
+ Trong máu tĩnh mạch là 4,3-6mmol/dL (75-110mg/dL).
+ Trong máu động mạch là 85-140mg/dL.
- 3 xét nghiệm quan trọng để đánh giá glucose máu:
+ Nồng độ glucose trong huyết tương ngẫu nhiên (RPG=random plasma
glucose): mẫu máu xét nghiệm được lấy một cách ngẫu nhiên.
+ Nồng độ glucose trong huyết tương khi đói (FPG=fasting plasma glucose):
mẫu máu xét nghiệm được lấy khi đói, bệnh nhận cần nhịn ăn, nhịn uống (trừ
nước) từ 10-16 giờ trước khi lấy mẫu.
+ Nghiệm pháp gây tăng glucose máu bằng đường uống (OGTT=oral glucose
tolerance test):
105
• Chuẩn bị: bệnh nhân ăn uống bình thường 3 ngày trước khi làm nghiệm
pháp. Không làm nghiệm pháp ở những bệnh nhân đang mắc bệnh cấp tính,
dùng các thuốc nhóm glucocorticoid, thuốc lợi tiểu, thuốc chẹn giao cảm
ít nhất 3 ngày trước khi làm nghiệm pháp. Nghỉ ngơi ít nhất 30 phút trước
khi làm xét nghiệm.
• Tiến hành nghiệm pháp: bệnh nhân uống 75g glucose, định lượng glucose
máu ở các thời điểm sau khi uống 30-60-90 va 120 phút.
Hình 2. Các bước tiến hành chẩn đoán tiểu đường (mmol/L)
3.2. Các ảnh hưởng của đường huyết
* Đường huyết và áp suất thẩm thấu:
- Áp suất thẩm thấu là áp suất có ảnh hưởng đến sự khuếch tán của nước, nước sẽ
di chuyển từ nơi có áp suất thẩm thấu thấp sang nơi có áp suất thẩm thấu cao
hơn.
- Áp suất thẩm thấu huyết tương tỷ lệ với nồng độ các chất điện giải và các phần tử
không phân ly hòa tan trong huyết tương. Đường huyết là một thành phần góp
phần tạo ra áp suất thẩm thấu của máu. Cl- và Na+ có trọng lượng phân tử khoảng
60, được chia làm 2 phần tử, tác động gấp 6 lần glucose có trọng lượng phân tử
lớn hơn nhiều với cùng một nồng độ trên áp suất thẩm thấu.
- Ở người bình thường áp suất thẩm thấu huyết tương bằng 310mOsmol. Có thể
ước tính áp suất thẩm thấu huyết tương theo công thức:
ASTT = 2 Na+ (mmol/L) + Glucose (mmol/L) + Ure (mmol/L)
106
Nghi ngờ tiểu đường
Xác định FPG hoặc
RPG
FPG<5,5RPG<7,8
FPG=5,5-7,7RPG=7,8-
11,0
FPG≥7,8RPG≥11,1
FPG<7,8 vàsau 2h <7,8
FPG<7,8 vàsau 2h=7,8-11,0
FPG≥7,8 vàsau 2h≥11,1
Bình thường Tiểu đườngGiảm dung nạp glucose
* Hiện tượng glycosyl hóa:
- Hiện tượng glycosyl hóa là hiện tượng các phân tử protein trong máu hoặc trong
tổ chức gắn với phân tử glucose và các dẫn xuất của glucose. Phản ứng kết hợp
này không cần enzym mà chỉ phụ thuộc vào nồng độ glucose trong máu, nồng độ
glucose máu càng cao thì sự glycosyl hóa càng lớn.
- Xét nghiệm định lượng các dạng glycosyl hóa giúp đánh giá hồi cứu nồng độ
glucose trong máu một khoảng thời gian trước đó tùy thuộc vào thời gian bán
hủy của chất bị glycosyl hóa.
- Một số dạng glycosyl hóa:
+ Glycosyl hóa albumin trong huyết thanh:
• Hiện tượng: albumin khi bị glycosyl hóa sẽ tạo ra các fructosamin.
• Ý nghĩa thời gian: thời gian bán hủy của phân tử albumin là 2-3 tuần nên
việc định lượng fructosamin có thể đánh giá mức đường huyết trong khoảng
2-3 tuần trước đó.
• Giá trị: ở người bình thường nồng độ fructosamin trong huyết thanh nhỏ
hơn 285mol/L.
• Hậu quả: các protein được glycosyl hóa còn có thể liên kết chéo lẫn nhau
tạo thành các "sản phẩm tận của quá trình glycosyl hóa" (AGEs=advanced
glycation end product). Các AGEs này đẩy nhanh các tổn thương ở mạch
máu của bệnh nhân tiểu đường.
+ Glycosyl hóa hemoglobin trong hồng cầu:
• Hiện tượng: trong hồng cầu người trưởng thành chủ yếu là hemoglobin A
(HbA), một lượng nhỏ HbA sẽ bị glycosyl hóa. Danh từ GHb-b để chỉ toàn
bộ các glycosyl Hb, danh từ HbA1 để chỉ các HbA bị glycosyl hóa gồm:
HbA gắn với fructose 1-6 diphosphat tạo thành HbA1a, với fructose 6
phosphat tạo thành HbA1b và với glucose tạo thành HbA1c.
• Ý nghĩa thời gian: hồng cầu tồn tại 120 ngày, vì vậy việc xác định tỷ lệ
HbA1c giúp kiểm tra nồng độ glucose khoảng 2 tháng trước đó.
• Giá trị: ở người bình thường tỷ lệ HbA1 khoảng 6-8%, HbA1c khoảng 4-6%,
GHb-b khoảng 4-6,5%. Ở bệnh nhân tiểu đường HbA1c thường >9%.
• Hậu quả: sự glycosyl hóa Hb có thể làm thay đổi hình dạng của phân tử Hb
107
và làm giảm ái lực của Hb với 2-3 DPG sẽ dẫn tới làm giảm khả năng tách
oxy khỏi Hb, hậu quả là tổ chức bị thiếu oxy.
+ Glycosyl hóa enzym trong hồng cầu:
• Hiện tượng: trong hồng cầu có nhiều enzym chịu sự glycosyl hóa khi đường
huyết tăng, trong số đó có nucleosid diphosphokinase, purin nucleosid
phosphorylase, aminolevulinat dehydratase, Na+-K+-ATPase, Cu-Zn-
superoxid dismutase (Cu-Zn SOD).
• Hậu quả: sự glycosyl hóa enzym gây ra sự thay đổi tính chất hóa lý và chức
năng sinh học của enzym, thường làm giảm hoạt tính enzym. Glycosyl hóa
Cu-Zn SOD làm bất hoạt enzym này dẫn đến mất tác dụng chống oxy hóa
và dập các gốc tự do; Glycosyl hóa diphosphoglycerat mutase (gồm: 2,3
diphosphoglycerat synthetase, phosphoglycerat mutase và 2,3
phosphoglycerat phosphatase) làm ảnh hưởng đến nồng độ 2,3 DPG trong
hồng cầu vì enzym này xúc tác cả hai quá trình tổng hợp và thoái hóa 2,3
DPG.
* Quá trình Gluco-oxy hóa:
- Quá trình Gluco-oxy hóa sinh ra các gốc tự do: trong quá trình glycosyl hóa,
phân tử glucose mở vòng tạo thành glucose dạng hydroxyaldehyd. Glucose dạng
này sẽ dẫn đến sự oxy hóa của 3-deoxyglucoson thành glucose dạng dicarbonyl
sản sinh ra các gốc tự do: anion superoxid O-, hydroxy superoxid H2O2, gốc tự do
hydroxyl OH-. Các gốc tự do này sẽ mở đầu một dây truyền sản sinh các gốc tự
do khác.
- Trong các tế bào có hàng loạt enzym chống oxy hóa để dập tắt các phản ứng sinh
gốc tự do bảo vệ tế bào như SOD (superoxid dismutase), CAT (catalase), GSHPx
(glutathion-peroxidase), GR (glutathion reductase). Khi đường huyết tăng cao,
hiện tượng glycosyl hóa, gluco-oxy hóa cung gia tăng vừa làm tăng các gốc tự
do, vừa làm giảm hoạt tính các enzym chống oxy hóa. Hậu quả tạo ra nhiều tổn
thương ở tế bào, đây là cơ chế bệnh sinh quan trọng trong bệnh tiểu đường.
4. ĐIÊU HOA ĐƯƠNG HUYÊT
4.1. Vai trò của gan
Gan đóng vai trò là kho dự trữ glucose của cơ thể:
- Thu nhận glucose và tổng hợp glycogen: sau khi ăn, glucose hấp thu từ đường
108
tiêu hóa sẽ theo tĩnh mạch cửa về gan. Gan thu nhận glucose và tổng hợp thành
glycogen dự trữ dưới tác dụng của insulin. Glucose trong tế bào gan tăng cũng có
tác dụng làm biến đổi cấu hình của men phosphorylase a kinase (dạng hoạt động)
thành men phosphorylase b (dạng không hoạt động) ngăn cản sự phân giải
glycogen.
- Giải phóng glucose vào máu: khi nồng độ glucose trong máu giảm, glycogen sẽ
được phân giải thành glucose giải phóng vào máu dưới tác dụng của glucagon.
Quá trình phân giải glycogen thành glucose có sự tham gia của men glucose-6-
phosphatase là một men chỉ có ở gan. Các mô khác không có men này nên không
tạo được glucose đưa ngược vào máu mà chỉ phân giải glycogen cho chính nhu
cầu sử dụng của mình.
4.2. Vai trò của hormon
4.2.1. Hormon làm tăng đường huyết
* GH:
- Bản chất: protein.
- Nguồn gốc: tế bào ưa acid thùy trước tuyến yên.
- Tác dụng có ảnh hưởng đến đường huyết:
+ Giảm thoái hóa glucose tạo năng lượng: cơ chế do GH tăng huy động và sử
dụng acid béo để tạo năng lượng dẫn đến làm tăng nồng độ acetyl-CoA trong
tế bào. Acetyl-CoA có tác dụng feedback làm giảm thoái hóa glucose.
+ Tăng dự trữ glycogen trong tế bào: do glucose không được sử dụng để tạo
năng lượng nên sẽ trùng hợp thành glycogen dự trữ.
+ Giảm vận chuyển glucose vào tế bào: lúc đầu glucose vẫn vào tế bào nhưng
sau đó do tế bào khó sử dụng glucose nên nồng độ glucose trong tế bào cao đã
ức chế vận chuyển glucose vào tế bào. Hậu quả làm glucose trong máu cao có
thể gây bệnh tiểu đường do tuyến yên.
+ Tăng bài tiết insulin: nồng độ glucose trong máu cao dưới tác dụng của GH và
chính bản thân GH cũng kích thích tế bào của tuyến tụy bài tiết insulin. Đôi
khi 2 tác dụng này gây kích thích quá mạnh làm tế bào bị tổn thương dẫn
đến bệnh tiểu đường do tụy.
- Điều hòa bài tiết có liên quan đến đường huyết: nhiễm lạnh hoặc stress sẽ gây
kích thích bài tiết GH. 109
* T3-T4:
- Bản chất: iod hóa acid amin tyrosin.
- Nguồn gốc: tế bào nang tuyến giáp.
- Tác dụng có ảnh hưởng đến đường huyết: T3-T4 tác dụng lên hầu như tất cả các
giai đoạn cua chuyển hóa glucid làm tăng nồng độ glucose trong máu nhẹ dân
đên tăng bài tiết insulin. Các tác dụng của T3-T4 bao gồm:
+ Tăng thoái hóa glucose tạo năng lượng.
+ Tăng phân giải glycogen.
+ Tăng tân tạo đường.
+ Tăng hấp thu glucose ở ruột.
- Điều hòa bài tiết có liên quan đến đường huyết: giảm đường huyết sẽ gây kích
thích bài tiết T3-T4.
* Glucagon:
- Bản chất: polypeptid.
- Nguồn gốc: tế bào tiểu đảo Langerhans của tuyến tụy.
- Tác dụng có ảnh hưởng đến đường huyết:
+ Tăng phân giải glycogen ở gan: cơ chế do glucagon hoạt hóa adenylcyclase ở
màng tế bào gan để tạo thành AMPc. Dưới tác dụng của AMPc một chuỗi các
phản ứng xảy ra trong bào tương gây hoạt hóa các protein kinase. Dưới tác
dụng của protein kinase, phosphorylase b kinase (dạng không hoạt động) sẽ
được chuyển thành phosphorylase a kinase (dạng hoạt động). Glycogen dưới
tác dụng xúc tác của men phosphorylase phân ly thành glucose-1-phosphat
(G1P), dưới tác dụng của phosphogluco mutase, G1P chuyển thành glucose-6-
phosphat, sau đó dưới tác dụng của glucose-6-phosphatase, G6P chuyển thành
glucose tự do đi vào máu.
+ Tăng tân tạo đường ở gan: glucagon làm tăng vận chuyển acid amin vào tế bào
gan. Sau đó glucagon làm tăng chuyển acid amin thành glucose do hoạt hóa
cac enzym tham gia vào quá trình tân tạo đường như hệ thống enzym chuyển
pyruvat thành phosphoenolpyruvat.
- Điều hòa bài tiết có liên quan đến đường huyết: nồng độ glucose trong máu
xuống dưới 70mg/dL sẽ kích thích tế bào của tiểu đảo Langerhans tăng bài tiết
110
glucagon lên gấp nhiều lần so với bình thường. Ngược lại nồng độ glucose tăng
sẽ làm giảm bài tiết glucagon.
* Cortisol:
- Bản chất: steroid.
- Nguồn gốc: lớp bó va lớp lưới của vỏ thượng thận.
- Tác dụng có ảnh hưởng đến đường huyết: cortisol có tác dụng làm tăng đường
huyết và có thể gây ra tiểu đường. Tiểu đường do tuyến thượng thận nhạy cảm
với insulin hơn tiểu đường do tuyến yên. Tác dụng làm tăng đường huyết của
cortisol gồm:
+ Tăng tân tạo đường ở gan: cortisol làm tăng tất cả các men tham gia vao
quá trình chuyển acid amin thành glucose ở gan đồng thời cũng làm tăng
huy động acid amin từ các mô ngoài gan mà chủ yếu từ mô cơ về gan.
+ Giảm thoái hóa glucose tạo năng lượng ở tế bào: cortisol làm giảm nhẹ mức
tiêu thụ glucose của tế bào khắp mọi nơi trong cơ thể. Cơ chế có lẽ do
cortisol làm giảm oxy hóa NADP thành NAD+ mà sự thoái hóa glucose chỉ
xảy ra khi NADP được oxy hóa.
- Điều hòa bài tiết: tùy thuộc nồng độ ACTH của tuyến yên.
* Catecholamin (adrenalin và noradrenalin):
- Bản chất: dẫn xuất của acid amin tyrosin.
- Nguồn gốc: tủy thượng thận.
- Tác dụng có ảnh hưởng đến đường huyết: catecholamin là tăng phân giải
glycogen thành glucose ở gan và cơ do đó tăng giải phóng glucose vào máu (cơ
chế giống như glucagon). Adrenalin có tác dụng mạnh hơn noradrenalin.
- Điều hòa bài tiết có liên quan đến đường huyết: nồng độ glucose trong máu giảm
sẽ kích thích tủy thượng thận tăng bài tiết catecholamin.
4.2.2. Hormon làm giảm đường huyết
* Insulin:
- Bản chất: polypeptid, 2 chuỗi (51 acid amin) nôi nhau bằng cầu disulfur.
- Nguồn gốc: tế bào tiểu đảo Langerhans của tuyến tụy.
- Cơ chế tác dụng: insulin đến tế bào đích sẽ gắn vào phần thò ra phía ngoài của
receptor trên màng (tiểu đơn vị ). Chính việc gắn của hormon với receptor sẽ
111
làm thay đổi cấu trúc phân tử của receptor và làm cho phần phân tử thò vào bên
trong tế bào (tiểu đơn vị ) trở thành kinase hoạt hóa. Tiếp đó, kinase này sẽ
thúc đẩy sự phosphoryl hóa nhiều chất khác nhau ở trong tế bào. Hầu hết các tác
dụng của insulin trên mô đích đều là kết quả của các quá trình phosphoryl hóa
này.
- Tác dụng có ảnh hưởng đến đường huyết:
+ Tăng hấp thu glucose vào tế bào: màng tế bào bình thường cho glucose
khuếch tán qua rất ít trừ phi có tác dụng của insulin. Sau khi ăn, nồng độ
glucose trong máu tăng cao làm tuyến tụy tiết một lượng lớn insulin dẫn đến
tăng vận chuyển glucose vào tế bào. Cơ chế như sau: insulin đến gắn lên
receptor sẽ làm phát ra một tín hiệu đến những nang mang protein vận chuyển
trong tế bào. Các nang này sẽ di chuyển đến và hòa màng vào màng tế bào,
các protein vận chuyển sẽ tích cực tham gia vận chuyển glucose vào tế bào. Sự
tăng nồng độ glucose trong tế bào thúc đẩy insulin rời khỏi receptor, đồng thời
các nang mang protein vận chuyển cũng được thu hồi vào trong tế bào.
+ Tăng dự trữ glycogen ở cơ: sau bữa ăn mà cơ không vận động thì glucose vẫn
được vận chuyển vào tế bào cơ. Lượng glucose không được sử dụng sẽ tích trữ
dưới dạng glycogen và được dùng khi cần.
+ Tăng dự trữ glycogen ở gan:
• Insulin làm bất hoạt men phosphorylase của gan dẫn đến ức chế phân giải
glycogen.
• Insulin làm tăng hoạt tính glucokinase là enzym phát động sự phosphoryl
hóa glucose ở tế bào gan. Khi glucose đã phosphoryl hóa thì không thể
khuếch tán qua màng tế bào để trở lại máu được. Do vậy insulin làm tăng
thu nhập glucose vào tế bào gan.
• Insulin làm tăng hoạt tính của các enzym tham gia vào quá trình sinh tổng
hợp glycogen như glycogen synthetase là enzym xúc tác phản ứng trùng
hợp các monosaccharid thành phân tử glycogen.
+ Chuyển glucose thừa thành acid béo ở gan: khi glucose vào tế bào gan quá
nhiều thì ngoài việc tạo thành glycogen, phần glucose thừa sẽ được chuyển
thành acid béo rôi vận chuyển đến mô mỡ để dự trữ.
112
+ Giảm tân tạo đường ở gan:
• Insulin làm giảm số lượng và hoạt tính của các enzym tham gia vào quá
trình tân tạo đường.
• Insulin làm giảm giải phóng acid amin từ các cơ và từ các mô khác vào gan
do đó làm giảm nguyên liệu của quá trình tạo đường mới.
- Điều hòa bài tiết: tùy thuộc nồng độ glucose máu, khi nồng độ glucose trong máu
tăng, insulin được bài tiết và ngược lại.
4.3. Vai trò của hệ thần kinh thực vật
- Thần kinh giao cảm: tăng phân giải glycogen ở gan và cơ làm tăng glucose máu
do hóa chất trung gian của hệ giao cảm là noradrenalin tác động lên receptor 2.
- Thần kinh phó giao cảm: tăng nhẹ tổng hợp glycogen ở gan.
5. CƠ CHÊ BÊNH SINH CUA MÔT SÔ BÊNH LY LIÊN QUAN
5.1. Hạ đường huyết
- Khái niệm: hạ đường huyết là một rối loạn xảy ra khi nồng độ glucose máu giảm
dưới 70mg%, tuy nhiên triệu chứng lâm sàng thường chỉ xuất hiện khi nồng độ
glucose máu dưới 45-50mg/dL và tùy thuộc vào nhiều yếu tố như nguyên nhân
bệnh, tuổi tác, giới tính, cơ địa của bệnh nhân
- Cơ chế bệnh sinh và triệu chứng:
+ Hạ đường huyết nhanh (rối loạn thần kinh thực vật): hạ đường huyết làm kích
thích hệ thần kinh giao cảm và làm tăng bài tiết catecholamin dẫn đến bệnh
nhân bị đổ mồ hôi, lo lắng, hồi hộp, tim đập nhanh, run và yếu cơ.
+ Hạ đường huyết từ từ và nặng (rối loạn hệ thần kinh trung ương): khi đường
huyết hạ xuống, hầu hết các tế bào đều có thể dùng ceton và/hoặc acid béo tự
do tao năng lượng, nhưng tế bào não và hồng cầu không thích ứng được như
các mô khác. Do vậy khi đường huyết giảm thấp, mô não sẽ bị tổn thương đầu
tiên và triệu chứng của hạ đường huyết về cơ bản giống thiếu oxy não. Bệnh
nhân bị thay đổi tri giác diễn tiến từ ngủ gà, đến lú lẫn rồi hôn mê không có
dấu thần kinh định vị, da ẩm, lạnh. Ngoài ra có thể có các triệu chứng nhức
đầu, co giật gồng cứng.
5.2. Tăng đường huyết
5.2.1. Tiểu đường
113
5.2.1.1. Phân loại
- Bệnh tiểu đường phụ thuộc insulin (IDDM): do tổn thương tế bào tiểu đảo
Langerhans của tuyến tụy làm giảm sản xuất và bài tiết insulin. Bênh thường gặp
ở người còn trẻ với các triệu chứng điển hình ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều và
gầy nhanh. Gây các biến chứng vi mạch. Điều trị đáp ứng với insulin.
- Bệnh tiểu đường không phụ thuộc insulin (NIDDM): có biểu hiện giảm đáp ứng
của cơ quan đích đối với insulin. Các yếu tố nguy cơ của bệnh là yếu tố di truyền,
gia đình, môi trường, hoạt động thể lực, chế độ ăn, stress, thuốc và hormon, béo
phì. Bênh thường gặp ở người >40 tuổi, béo phì. Gây các biến chứng mạch máu
lớn. Điều trị ít nhạy cảm với insulin.
5.2.1.2. Cơ chế bệnh sinh của một số biểu hiện trong tiểu đường
* Cơ chế bệnh sinh của các triệu chứng kinh điển trong tiểu đường typ I:
4 triệu chứng kinh điển: ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, gầy nhiều
- Ăn nhiều: glucose không vào tế bào được làm thiếu năng lượng gây đói.
- Uống nhiều: glucose trong máu tăng gây tăng áp suất thẩm thấu, đồng thời tiểu
nhiều gây mất nước dẫn đến khát.
- Tiểu nhiều: glucose trong máu tăng cao vượt ngưỡng đường của thận làm xuất
hiện đường trong nước tiểu. Từ đó dẫn đến tăng áp suất thẩm thấu của nước tiểu
kéo theo nước ra ngoài.
- Gầy nhiều: glucose không vào tế bào được làm thiếu năng lượng, cơ thể phải huy
động acid amin từ sự thoái hóa protein ở cơ để tạo năng lượng dẫn đến gầy.
* Cơ chế bệnh sinh của tổn thương các cơ quan trong bệnh tiểu đường:
Trong bệnh tiểu đường thường gặp các tổn thương ở rất nhiều cơ quan như
mạch máu, mắt, thần kinh, thận. Cơ chế chủ yếu gây ra các tổn thương này là tình
trạng tăng đường huyết đã dẫn đến tăng các gốc tự do trong cơ thể gây ra các stress
oxy hóa.
114
Hình 3. Mối liên quan giữa tăng đường huyết và các tổn thương cơ quan
* Cơ chế bệnh sinh của một số biến chứng gây hôn mê:
- Nhiễm toan ceton:
+ Nhiễm toan ceton được đặc trưng bởi glucose va các thể ceton (acid
hydroxybutyric, acid acetoacetic và aceton) trong máu tăng cao.
+ Cơ chế bệnh sinh: do thiếu hụt insulin, thoái hóa glucose trong tổ chức bị hạn
chế, không tạo ra nhiều acid pyruvic và acid oxaloacetic đồng thời tế bào bị
thiếu năng lượng. Phân hủy lipid tăng để cung cấp năng lượng thay thế đã tạo
ra nhiều acetyl CoA, các acetyl CoA không có đủ acid oxaloacetic để đưa vào
chu trình citric. Các acetyl CoA sẽ tổng hợp thành các thể ceton. Các chất này
gây toan máu.
- Nhiễm acid lactic:
+ Nhiễm acid lactic là rối loạn chuyển hóa nặng thường gặp ở bệnh nhân có suy
hô hấp hoặc giảm thông khí nặng gây nguy cơ tử vong cao.
+ Cơ chế bệnh sinh: acid lactic là sản phẩm cuối cùng của sự phân hủy glucose
yếm khí. Các nguyên nhân gây thiếu oxy sẽ dẫn đến sự tăng sinh acid lactic.
115
TĂNG ĐƯỜNG HUYẾT
Con đường polyol ↑ Gluco-oxy hóa ↑ Glycosyl hóa ↑
Chống oxy hóa ↓STRESS OXY HÓA
↑ O2
-/NO ↓ Các yếu tố oxy hóa ↑
-Yếu tố giãn mạch phụ thuộc NO↓-Ca2+ ↑-Tế bào cơ trơn tăng sinh ↑
-Hoạt hóa quá trình đông máu-Biến đổi huyết động-Thiếu oxy
Oxy hóa LDL
-Tốc độ dẫn truyền thần kinh↓-Dòng máu mô kẽ thần kinh↓
Heparan sulphat↓
Bệnh mạch máu Bệnh mắt Bệnh thần kinh Bệnh thận
Kèm theo đó sự tăng các hormon như catecholamin, glucagon để thúc đẩy sự
quá trình thoái hóa glucose tạo năng lượng càng tạo ra nhiều pyruvat đi vào
con đường yếm khí sinh acid lactic.
- Tăng áp lực thẩm thấu:
+ Hôn mê do tăng áp lực thẩm thấu là một hôn mê chuyển hóa, áp suất thẩm
thấu huyết tương tăng bằng hoặc trên 340mOmol/Kg nước.
+ Cơ chế bệnh sinh: thiếu insulin làm tăng glucose máu, giảm bài tiết Na+ theo
nước tiểu gây tăng Na+ máu làm tăng áp suất thẩm thấu máu. Các nguyên nhân
gây mất nước sẽ làm trầm trọng thêm bệnh.
- Hạ đường huyết:
+ Hạ đường huyết là biến chứng thường gặp trên bệnh nhân tiểu đường.
+ Cơ chế bệnh sinh: ăn ít, tập luyện quá sức, uống bia rượu, dùng insulin không
đúng liều, dùng thuốc phối hợp hoặc bệnh lý về hấp thu dễ dấn đến hạ đường
huyết làm mô não thiếu năng lượng.
5.2.2. Hội chứng chuyển hóa
* Giới thiệu về hội chứng chuyển hóa:
- Các đặc điểm của NIDDM nằm trong bối cảnh của một hội chứng được nhắc đến
rất nhiều hiện này là hội chứng chuyển hóa (hội chứng rối loạn chuyển hóa, hội
chứng X, hội chứng kháng insulin). Hội chứng này bao gồm tình trạng béo bụng,
tiểu đường không phụ thuộc insulin hoặc sớm hơn là tình trạng không dung nạp
glucose, tăng huyết áp và rối loạn lipid máu gồm tăng triglycerid và giảm HDL-
cholesterol. Đặc trưng của hội chứng này là tình trạng kháng insulin và các dấu
hiệu xơ vữa động mạch.
- Lưu ý: thuật ngữ kháng insulin để chỉ tình trạng các mô kém đáp ứng đối với
insulin có thể là số lượng hoặc ái lực của receptor insulin giảm hoặc đáp ứng hậu
receptor insulin không bình thường.
* Cơ chế bệnh sinh của hội chứng chuyển hóa:
- Béo phì mà đặc biệt là béo phì trung tâm là nguyên nhân gây kháng insulin, cơ
chế chưa được biết đầy đủ, có thể do:
+ Tăng nồng độ acid béo không este hóa trong máu.
+ Sự tiết các chất protein và cytokin như leptin, yếu tố hoại tử khối u.
116
- Theo Heinz Rupp cơ chế bệnh sinh có vai trò của thần kinh giao cảm và lối sống
như sau: chế độ ăn giàu chất béo (47%) và đường (>13%) sẽ làm tăng cân, lượng
mỡ thừa tích lũy trên toàn thân mà đặc biệt là ở dưới da bụng, quanh các tạng sẽ
làm gia tăng hoạt động của hệ thần kinh giao cảm; insulin cũng gây kích hoạt hệ
thần kinh giao cảm đồng thời lại làm gan tăng phóng thích triglycerid dẫn đến
tăng lipid máu; tình trạng tăng hoạt động hệ thần kinh giao cảm kéo dài sẽ dẫn
đến tăng huyết áp, nhất là khi có kèm theo các stress tâm thần.
- Mối liên quan giữa kháng insulin và bệnh lý mạch máu ngoài cơ chế insulin kích
hoạt hệ thần kinh giao cảm và chất co mạch còn có cơ chế tăng tái hấp thu Na+,
rối loạn vận chuyển qua màng tế bào cơ trơn hoặc tăng tái hấp thu của tế bào ống
thận, tăng sinh tế bào cơ trơn mạch máu, rối loạn chức năng tế bào nội mô do
thiếu hụt NO (chất gây giãn mạch).
117
- John và CS đã thiết lập sơ đồ hội chứng chuyển hóa:
Thu nhận calo Yếu tố di truyền
Béo bụng
Đề kháng insulin
Tăng insulin máu Rối loạn dung nạp glucose
Tăng huyết áp Xơ vữa động mạch Rối loạn lipid máu Tiểu đường typ II
Hình 4. Sơ đồ hội chứng chuyển hóa
5.2.3. Tăng glucose máu do stress (tăng glucose máu phản ứng)
* Khái niệm: Tăng glucose máu do stress và suy tuyến thượng thận là những rối loạn
nội tiết rất thường gặp ở những bệnh nhân nguy kịch có thể gây ảnh hưởng đến tính
mạng bệnh nhân. Tăng glucose máu do stress nên được nghĩ đến ở bất kỳ bệnh nhân
nguy kịch nào khi nồng độ glucose máu vượt quá 110mg/dL.
* Cơ chế tăng glucose máu ở bệnh nhân nguy kịch
- Stress ở bệnh nhân nguy kịch gây hoạt hóa trục hypothalamus-tuyến yên-tuyến
thượng thận làm phóng thích cortisol từ tuyến thượng thận theo cơ chế feedback
dương. Đồng thời cơ thể cũng tăng đáp ứng với stress bằng cách tăng phóng
thích catecholamin, glucagon và GH.
- Các cytokin như là interleukin 1 (IL-1), interleukin 6 (IL-6) và yếu tố hoại tử u
(TNF: tumor necrosis factor) gây đề kháng insulin và ức chế giải phóng insulin
bằng cách tăng hoạt hóa receptor của tuyến tụy. Kết quả, nồng độ insulin trong
máu thường bình thường hoặc giảm.
- Những tác nhân ngoại sinh như thuốc (catecholamin, dextrose), các chất dinh
dưỡng dùng cho bệnh nhân cũng đóng vai trò làm tăng glucose máu ở bệnh nhân
nguy kịch.
118
Hình 5. Cơ chế tăng glucose máu ở bệnh nhân nguy kịch
* Những ảnh hưởng xâu của tăng glucose máu do stress
Những ảnh hưởng có hại của tăng glucose máu do stress ở bệnh nhân nguy kịch
cũng giống như bệnh tiểu đường và gây dự hậu xấu cho bệnh nhân đặc biệt là bệnh
nhân nhồi máu cơ tim và đột quỵ như làm giảm sự hồi phục chức năng và làm tăng tỷ
lệ tử vong. Kiểm soát được nồng độ glucose máu sẽ cải thiện được dự hậu cho bệnh
nhân. Cơ chế như sau:
- Tăng glucose máu đã được biết như là một yếu tố gây viêm mạnh. Glucose cũng
gây ra huyết khối và làm tăng các stress oxy hóa do tăng peroxide hóa các lipid.
- Tăng glucose máu gây ra những những tổn thương ty thể trong tế bào: ty thể phì
đại bất thường, giảm đậm độ chất keo. Ảnh hưởng trên cấu trúc siêu vi này làm
giảm khả năng hoạt động của chuỗi hô hấp tế bào dẫn đến suy giảm năng lượng
nội bào.
119
LIPID MÁU VÀ CHUYỂN HÓA LIPOPROTEIN
1. SƠ LƯỢC VỀ LIPID
1.1. Hóa học lipid
- Khái niệm: lipid là những este của acid béo với alcol.
+ Acid béo là những acid carboxylic gồm: acid béo bão hòa, acid béo không bão
hòa (có nối đôi), acid béo mang chức alcol, acid béo có vòng.
+ Alcol trong phân tử lipid bao gồm: glycerol, các alcol cao phân tử, aminoalcol,
sterol với chất tiêu biểu là cholesterol.
- Phân loại: lipid có thể được phân thành 2 loại chính
+ Lipid thuần là este của acid béo với alcol, bao gồm: glycerid là este của acid béo
với glycerol, steroid là este của acid béo với sterol, cerid hay sáp là este của acid
béo chuỗi dài với alcol có trọng lượng phân tử cao.
+ Lipid tạp bao gồm acid béo, alcol và những chất khác, được chia thành hai nhóm:
glycerophospholipid và sphingolipid.
1.2. Chức năng của lipid
- Tạo năng: lipid là nguồn dự trữ năng lượng lớn nhất cơ thể chủ yếu là triglycerid,
tồn tại trong các tổ chức mỡ dưới da, các hố đệm, màng ruột... Khi đói, cơ thể sẽ
sử dụng mỡ dự trữ.
- Tạo hình: lipid tham gia cấu trúc tế bào chủ yếu là phospholipid và cholesterol
cấu tạo lên màng tế.
- Tham gia các hoạt động chức năng của cơ thể: quá trình đông máu, dẫn truyền
xung động thần kinh, hoạt động nội tiết và sinh sản, làm dung môi hòa tan nhóm
vitamin tan trong dầu (vitamin A, D, E, K) và những chất không phân cực khác,
hoạt động tiêu hóa, ngăn sự thấm nước qua da…
1.3. Nguồn gốc của lipid máu
Lipid trong cơ thể có hai nguồn gốc: ngoại sinh và nội sinh
- Ngoại sinh: các loại thức ăn có lipid như mỡ động vật, dầu thực vật.
- Nội sinh: tổng hợp trong cơ thể, đặc biệt là gan.
120
2. CHUYỂN HÓA LIPID MÁU
Hình 1. Sơ đồ chuyển hóa lipd máu
2.1. Tiêu hóa và hấp thu lipid
2.1.1. Tiêu hóa lipid
- Thức ăn chứa lipid: mỡ động vật, dầu thực vật. Lipid động và thực vật cung cấp
qua thức ăn hầu hết là triglycerid. Đặc biệt cholesterol là một loại chất béo chỉ có
trong mỡ động vật mà không có trong dầu thực vật.
- Quá trình tiêu hóa: sự tiêu hóa lipid bắt đầu thực sự ở hành tá tràng
+ Nhũ tương hóa: muối mật và lecithin gây nhũ tương hóa làm giảm sức căng bề
mặt của các hạt cầu lipid. Khi sức căng bề mặt đã giảm thì co bóp của dạ dày,
ruột sẽ làm vỡ hạt cầu thành nhiều hạt có kích thước rất nhỏ làm tăng diện tích
tiếp xúc với các enzym lên một ngàn lần.
+ Lipase:
Nguồn gốc: dịch dạ dày, dịch tụy, dịch ruột.
Điều kiện hoạt động: pH tối thuận = 6,8.
Tác dụng: cắt liên kết este phân giải triglycerid thành monoglycerid và acid
béo.
+ Phospholipase-A2:
Nguồn gốc: dịch tụy, dịch ruột.
Điều kiện hoạt động: pH tối thuận = 8.
121
Mô(thoái hóa)
Tiêu hóa(tiêu hóa và hấp
thu)Lipid máu
Mô(tổng hợp và dự
trữ)
Tác dụng: phân giải phospholipid giải phóng acid béo, đặc biệt là phân giải
lecithin thành lysolecithin và acid béo.
+ Cholesterol esterase:
Nguồn gốc: dịch tụy, dịch ruột.
Tác dụng: thủy phân liên kết este phân giải cholesterol este thành
cholesterol và acid béo.
2.1.2. Hấp thu lipid
- Tạo các hạt mixen: muối mật cùng các sản phẩm tiêu hóa lipid không hoàn toàn
tạo thành các hạt mixen. Các hạt mixen có thể hòa tan trong nước nhờ các nhóm
ưa nước của muối mật. Hạt mixen vận chuyển các sản phẩm tiêu hóa lipid đến
diềm bàn chải của niêm mạc ruột.
- Quá trình hấp thu:
+ Tại bờ bàn chải, các hạt mixen giải phóng lipid. Do có độ hòa tan trong mỡ
cao nên các acid béo, monoglycerid, cholesterol và các lipid khác dễ dàng
khuếch tán qua lớp lipid kép của màng tế bào vào bên trong tế bào biểu mô
niêm mạc ruột.
+ Trong tế bào biểu mô, acid béo và monoglycerid tái tạo lại triglycerid.
Triglycerid, cholesterol và phospholipid kết tụ lại thành những hạt cầu, xuất
bào vào khoảng kẽ rồi đi vào ống bạch huyết trung tâm của nhung mao, theo
hệ bạch mạch qua ống ngực đổ vào tĩnh mạch lớn ở cổ hình thành
chylomicron. Ngoài ra, một số acid béo mạch ngắn dưới 10 C được hấp thu
trực tiếp vào tĩnh mạch cửa về gan.
2.2. Tổng hợp và dự trữ lipid
2.2.1. Tổng hợp một số loại lipid
- Sinh tổng hợp các acid béo: xảy ra ở tất cả các tổ chức nhưng đặc biệt rất mạnh
trong gan, các mô mỡ, ruột và tuyến vú. Nguyên liệu tổng hợp có thể là lipid
hoặc không phải là lipid. Glucose có thể chuyển hóa dễ dàng thành acid béo khi
lượng glucid đưa vào cơ thể quá thừa so với nhu cầu và khả năng dự trữ.
- Sinh tổng hợp triglycerid: xảy ra ở tất cả các tế bào mà đặc biệt là trong tế bào
niêm mạc ruột, tế bào gan và tế bào mỡ. Tổng hợp triglycerid ở tế bào niêm mạc
ruột là khởi đầu của con đường chuyển hóa lipoprotein ngoại sinh với sự hình
thành chylomicron, tổng hợp triglycerid ở tế bào gan là khởi đầu của con đường
122
chuyển hóa lipoprotein nội sinh với sự hình thành VLDL, trong khi đó tổng hợp
triglycerid ở tế bào mỡ mang ý nghĩa dự trữ lipid cho cơ thể. Nguyên liệu tổng
hợp triglycerid là glycerol và acid béo.
Hình 2. Công thức hóa học của triglycerid
- Sinh tổng hợp cholesterol: cholesterol được tổng hợp chủ yếu ở gan, ruột, ngoài
ra còn hình thành ở tuyến thượng thận, tinh hoàn, buồng trứng, da và hệ thần
kinh. Cholesterol là tiền chất quan trọng để tổng hợp acid mật, các hormon
steroid và tham gia thành phần cấu tạo màng tế bào. Cholesterol có thể tồn tại ở
dạng tự do hoặc este hóa với acid béo - gọi là cholesterid. Cholesterol este được
tổng hợp theo 2 con đường:
+ Con đường thứ nhất xảy ra chủ yếu ở gan, ruột và thượng thận với sự xúc tác
của men acyl CoA-cholesterol acyl transferase (ACAT).
+ Con dường thứ hai xảy ra trong huyết tương với sự xúc tác của men lecithin
cholesterol acyl transferase (LCAT). Phản ứng este này có ý nghĩa quan trọng
nhằm đưa cholesterol “an toàn” trở về gan ngăn ngừa việc cholesterol khuếch
tán tới các tổ chức.
Hình 3. Công thức hóa học của cholesterol
2.2.2. Dự trữ lipid
Dạng dự trữ lipid trong cơ thể là triglycerid (mỡ trung tính). Lượng mỡ dự trữ
thay đổi, ở người không béo phì nó chiếm khoảng 15% trọng lượng cơ thể nam giới và
123
Phần glycerol
Phần acid béo
(3 acid béo)
o
20% trọng lượng cơ thể nữ giới. Lượng mỡ dự trữ luôn được thoái hóa và tái tạo theo
nhu cầu của cơ thể.
- Mỡ trắng: là nguồn dự trữ năng lượng lớn nhất cơ thể tồn tại trong các tổ chức
mỡ dưới da, các hố đệm, màng ruột. Mỡ trắng tập trung thành một hạt mỡ lớn
trong tế bào mỡ, không chịu sự chi phối của thần kinh giao cảm. Khi cơ thể cần
năng lượng, triglycerid sẽ giải phóng acid béo đưa đến các tế bào oxy hóa tạo
năng lượng.
- Mỡ nâu: chiếm một lượng rất nhỏ trong cơ thể, lượng mỡ nâu ở trẻ em nhiều
hơn người lớn. Mỡ nâu tập trung chủ yếu giữa hai xương bả vai, ngấn cổ và dọc
theo các mạch máu lớn ở ngực, bụng. Tế bào mỡ nâu chứa nhiều ty thể và nhiều
hạt mỡ nâu nhỏ, tế bào nhận sự chi phối của thần kinh giao cảm. Khi kích thích
thần kinh giao cảm, noradrenalin được giải phóng thông qua receptor β3 làm ly
giải mỡ, tăng oxy hóa acid béo trong ty thể giải phóng nhiệt. Đây là nguồn sinh
nhiệt quan trọng cho cơ thể khi bị nhiễm lạnh và cũng là nguồn sinh nhiệt chậm
sau khi ăn.
2.3. Thoái hóa lipid
- Thoái hóa acid béo: xảy ra thông qua quá trình oxy hóa để tạo năng lượng ở các
tế bào trong cơ thể.
- Tạo thành thể ceton: acetyl CoA được hình thành ở gan trong quá trình oxy hóa
các acid béo có thể đi vào chu trình acid citric hoặc có thể tạo ra thể ceton gồm
acid β-hydroxybutyric, acid acetoacetic và aceton. Ở người khỏe mạnh bình
thường, thể ceton được hình thành với số lượng rất ít, khuếch tán vào máu và
được vận chuyển đến các tổ chức ngoài gan như cơ vân, cơ tim và vỏ thượng
thận tạo năng lượng. Khi cơ thể đói glucid, cơ thể phải oxy hóa lipid dự trữ để bù
đắp nhu cầu năng lượng dẫn đến nồng độ thể ceton tăng cao trở thành bệnh lý.
Đôi khi, thể ceton tăng rất cao làm cho hơi thở có mùi ceton.
- Phân giải cholesterol: khác những sản phẩm khác, cholesterol không được oxy
hóa thành CO2 và H2O, con đường chính để phân giải cholesterol là biến đổi
thành acid mật sau đó sẽ đào thải một phần nhỏ qua phân. Như vậy, việc chuyển
hóa cholesterol thành acid mật sẽ tránh cho cơ thể bị ứ đọng cholesterol.
3. LIPOPROTEIN VÀ CHUYỂN HÓA LIPOPROTEIN
124
Do đặc tính không tan trong nước nên lipid không lưu hành tự do trong máu mà
gắn với protein tạo thành lipoprotein. Nói cách khác, lipoprotein là dạng vận chuyển
lipid từ nơi này đến nơi khác trong cơ thể nhờ sự chuyển động của dòng máu.
3.1. Thành phần hóa học và cấu trúc lipoprotein
Lipoprotein có dạng hình cầu, đường kính khoảng 100-500Å gồm:
- Phần vỏ: có chiều dày khoảng 1nm gồm apolipoprotein và phospholipid, phân
cực, đảm bảo tính hòa tan của phân tử lipoprotein trong huyết tương.
- Phần trung tâm: chứa những phân tử không phân cực, kỵ nước gồm triglycerid và
cholesterol este hóa.
Giữa hai phần là cholesterol tự do.
Hình 4. Mẫu cấu trúc chung của lipoprotein
3.1.1. Thành phần lipid của lipoprotein
Lipid trong thành phần lipoprotein có thể có nguồn gốc ngoại sinh từ thức ăn
hoặc nội sinh từ sự tổng hợp ở gan, mô mỡ và các mô khác.
- Cholesterol: thường hình thành dưới dạng tự do ở ruột (ngoại sinh) và gan (nội
sinh) để vận chuyển đến những mô có nhu cầu. Phần cholesterol thừa sẽ được
vận chuyển ngược về gan dưới dạng este hóa.
- Triglycerid: hình thành ở ruột (ngoại sinh) hoặc gan (nội sinh) để vận chuyển đến
các mô tiêu thụ hoặc dự trữ.
- Phospholipid: là những loại lipid tạp mà trong thành phần của nó có chứa acid
phosphoric. Phospholipid phân cực tạo thành phần vỏ của lipoprotein có chức
năng hòa tan.
3.1.2. Thành phần protein của lipoprotein
125
Phospholipid CholesterolProtein
Cholesterol estevà/hoặc
triglycerid
3.1.2.1. Chức năng của apoprotein
Trong cấu trúc của lipoprotein có các phân tử protein đặc hiệu - gọi là
apolipoprotein hay apoprotein, viết tắt là apo. Các chức năng của apoprotein:
- Chức năng hòa tan: nhờ sự có mặt của apoprotein mà lipoprotein hòa tan được
trong nước giúp lipid lưu thông trong hệ tuần hoàn. Như vậy apoprotein vừa có
vai trò cấu trúc, vừa có vai trò vận chuyển.
- Chức năng nhận diện: apoprotein có chức năng nhận diện các receptor đặc hiệu ở
màng tế bào.
- Chức năng điều hòa: apoprotein có chức năng điều hòa hoạt tính các enzym tham
gia chuyển hóa lipoprotein.
3.1.2.2. Phân loại apoprotein
Có ít nhất 9 loại apoprotein khác nhau:
* ApoA: được xem là yếu tố bảo vệ chống xơ vữa động mạch, gồm 4 loại:
- ApoAI: được tổng hợp ở gan, ruột dưới tác dụng kích thích của hormon estrogen.
ApoAI lại được phân ra thành 4 loại: 1, 2, 3, 4, trong đó apoAI4 là quan trọng
nhất. Các apoAI đóng vai trò là cofactor của enzym LCAT xúc tác phản ứng tạo
cholesterol este (cholesterid) làm giảm hàm lượng cholesterol tự do trong máu.
Nồng độ apoAI trong huyết thanh lớn hơn 1,2g/L (1,1g/L1,6g/L).
- Apo AII: được tế bào gan và ruột tổng hợp như apoAI. ApoAII có vai trò hoạt
hóa enzym lipase của gan.
- ApoAIII: có khả năng kích thích hoạt động của enzym LCAT và đóng vai trò
đáng kể trong việc chuyển cholesterol tự do thành cholesterol este.
- ApoAIV: Trọng lượng phân tử 44.000.
* ApoB: hàm lượng trong huyết thanh bình thường <1,3g/L. ApoB tăng phản ánh sự
bài xuất kém cholesterol trong máu và sự ứ đọng cholesterol trong các mô, bởi vậy
hàm lượng apoB trong máu tăng được xem là yếu tố nguy cơ của xơ vữa động mạch.
Apo B có các phân lớp khác nhau:
- ApoB100: do gan tổng hợp và là chất nhận diện receptor B của màng tế bào.
- ApoB48: do ruột tổng hợp.
* ApoC: là một nhóm các protein không đồng nhất và có thể tách ra thành các loại
khác nhau nhờ các phương pháp điện di sắc ký. Tất cả các apoC đều do tế bào gan
tổng hợp. Một số loại apoC đã biết:
126
- ApoCI: có thể là cofactor của LCAT (?).
- ApoCII: là chất hoạt hóa lipoprotein lipase-enzym thủy phân các lipoprotein giàu
triglycerid.
- ApoCIII: có vai trò ức chế lipoprotein lipase.
* ApoD: là một loại glycoprotein, trong đó glucid chiếm 18%. Cùng với apoAIII,
apoD có khả năng làm tăng hoạt động của LCAT, đẩy nhanh quá trình este hóa
cholesterol.
* ApoE: là một polypeptid. ApoE không phải là một phân tử đồng nhất, người ta tách
ra được các loại ApoE2, E3, E4 bằng điện di. ApoE có vai trò nhận diện các receptor E
ở màng tế bào.
3.2. Phân loại các lipoprotein
Các apoprotein do cấu trúc peptid có thể quyết định bản chất và sự liên kết khác
nhau giữa phần lipid và phần protein, dẫn đến sự hình thành những mẫu hình tỷ trọng
khác nhau của lipoprotein.
Bảng 1. Các loại lipoprotein chính trong huyết tương người
Lipo-
protein
Thành phần hóa học (% trọng lượng)
Protein PhospholipidCholesterol
tự do
Cholesterol
esteTriglycerid
CM 2 9 1 3 85VLDL 10 18 7 12 50LDL 23 20 8 37 50HDL 55 24 2 15 4
3.2.1. Chylomicron (CM)
- Tổng hợp: CM tổng hợp ở tế bào niêm mạc ruột, là lipoprotein có kích thước lớn
nhất (100-1.000nm), tỷ trọng <0,96.
- Thành phần: CM rất giàu triglycerid (85%). Phần apoprotein của CM là apoB-48,
apoE và apoC-II.
- Chức năng: CM có vai trò vận chuyển triglycerid và một phần rất nhỏ cholesterol
ngoại sinh từ ruột đến các mô khác (con đường ngoại sinh).
3.2.2. Lipoprotein có tỷ trọng rất thấp (VLDL: very low density lipoprotein)
- Tổng hợp: VLDL tổng hợp ở gan , có kích thước 30-90nm, tỷ trọng 0,96-1,006.
- Thành phần: VLDL giàu triglycerid ngoài ra còn chứa cholesterol. Phần
apoprotein của VLDL là apoB100, apoCI, apoCII, apoCIII và apoE.
127
- Chức năng: VLDL có vai trò vận chuyển triglycerid và một phần nhỏ cholesterol
nội sinh từ gan đến các mô khác (con đường nội sinh).
3.2.3. Lipoprotein có tỷ trọng thấp (LDL: low density lipoprotein)
- Hình thành: LDL được coi như một dạng thoái hóa của VLDL sau khi bị mất đi
triglycerid. LDL có kích thước 20nm, tỷ trọng 1,020-1,063.
- Thành phần: LDL rất giàu cholesterol. 90% apoprotein của LDL là apoB100.
- Chức năng: LDL có vai trò vận chuyển cholesterol nội sinh từ gan đến các mô
khác (con đường nội sinh).
3.2.4. Lipoprotein có tỷ trọng cao (HDL: high density lipoprotein)
- Hình thành: HDL tổng hợp ban đầu ở gan, một phần nhỏ từ ruột non dưới dạng
những phân tử tiền chất, trong máu ngoại vi HDL được hình thành chính thức.
HDL là lipoprotein có kích thước nhỏ nhất (7-10nm), tỷ trọng 1,063-1,210.
- Thành phần: HDL chứa một lượng nhỏ cholesterol. HDL giàu protein, phần
apoprotein của HDL là apoA, apoC, apoD và apoE, trong đó apoAI chiếm 65-
75% protein toàn phần.
- Chức năng: HDL có vai trò vận chuyển cholesterol nội và ngoại sinh và một
phần triglycerid từ các mô về gan tổng hợp acid mật. Như vậy HDL có vai trò
thanh lọc cholesterol.
2.2.5. Lipoprotein (a): Lp(a)
- Tổng hợp: Lp(a) là loại lipoprotein được phát hiện sau này và chưa được xếp
loại. Nó được tổng hợp tại gan có kích thước như VLDL và tỷ trọng như HDL
trong siêu ly tâm.
- Thành phần: Lp(a) chứa 42% cholesterol este, 8% cholesterol tự do, mang apo(a)
có cấu trúc giống như plasminogen. Lp(a) cũng có khả năng gây xơ vữa động
mạch do nó cạnh tranh với plasminogen trong việc gắn lên receptor của tế bào
nội mạc mạch máu. Hậu quả là giảm chuyển đổi plasminogen thành plasmin,
ngăn cản sự ly giải fibrin, khởi đầu cho quá trình tạo mảng xơ vữa từ fibrin lắng
đọng tại các vị trí tổn thương của mạch máu.
128
3.3. Chuyển hóa lipoprotein
3.3.1. Một số enzym và protein tham gia chuyển hóa lipoprotein
- Các enzym thủy phân triglycerid giải phóng glycerol và acid béo:
+ Lipoprotein lipase (LPL): do tế bào mỡ và cơ tổng hợp rồi vận chuyển đến gắn
trên bề mặt mao mạch, enzym này thủy phân triglycerid trong lipoprotein
(CM, VLDL…) ở các mô.
+ Hepatic triglycerid lipase (HTGL): do tế bào gan tổng hợp có vai trò thủy
phân triglycerid trong các lipoprotein tàn dư ở gan.
- Các enzym tạo cholesterol este bằng cách chuyển gốc acyl đến cholesterol tự do:
+ Lecithin cholesterol acyl transferase (LCAT): do gan tổng hợp rồi đưa đến
HDL, enzym này có tác dụng chuyển gốc acyl từ lecithin sang cholesterol tự
do, tạo cholesterol este hóa ngay trong máu. Hoạt động của enzym này tạo
nên 75-95% cholesterol este huyết thanh.
+ Acyl CoA-cholesterol acyl transferase (ACAT): enzym này gây este hóa
cholesterol trong tế bào, sau đó một phần nhỏ của cholesterol este sẽ vào
máu.
- Các protein vận chuyển giúp trao đổi các thành phần của lipoprotein:
+ Adenosin triphosphat binding cassette protein (ABC1): hiện diện trên màng
đại thực bào và các tế bào ngoại vi. ABC1 có vai trò chuyển cholesterol dư
thừa trong tế bào ra ngoài tới HDL mới sinh.
+ Phospholipid transfer protein (PLTP): PLTL có vai trò chuyển phospholipid
từ vỏ bề mặt của CM và VLDL tàn dư tới HDL. Trong số phospholipid có
lecithin sẽ cung cấp gốc acyl cho sự este hóa cholesterol.
+ Cholesterol este transfer protein (CETP): được tổng hợp ở gan và gắn với
HDL lưu hành trong máu. CETP có vai trò chuyển cholesterol este của HDL
tới CM và VLDL tàn dư bằng cách trao đổi với triglycerid.
3.3.2. Các con đường chuyển hóa lipoprotein
Có hai con đường chuyển hóa lipoprotein: ngoại sinh và nội sinh. 2 con đường
này vận chuyển triglycerid và cholesterol đến các mô trong cơ thể. Trong khi đó HDL
liên quan đến cả 2 con đường, có vai trò “dọn dẹp” cholesterol và một phần triglycerid
vận chuyển ngược trở về gan.
129
3.3.2.1. Đường ngoại sinh
Là con đường vận chuyển triglycerid và cholesterol ngoại sinh đến các mô khác
nhau của cơ thể xảy ra sau bữa ăn. Gồm các bước sau:
- Quá trình hình thành CM: sự tiêu hóa lipid ở ruột tạo ra acid béo, monoglycerid.
Sau khi hấp thu các sản phẩm này, tế bào niêm mạc ruột sẽ tái tổng hợp
triglycerid, đồng thời tổng hợp apoprotein để tạo CM. CM được hấp thu qua
màng đáy vào mạch bạch huyết, qua ống ngực vào hệ tuần hoàn, rồi theo dòng
máu đến các mô khác nhau. CM tạo thành những hạt nhũ tương hóa lơ lửng một
thời gian ngắn trong huyết tương sau bữa ăn giàu mỡ và làm cho huyết tương có
màu đục trắng như sữa.
- Quá trình thanh lọc CM: CM được loại khỏi máu qua nhiều giai đoạn:
+ Giai đoạn thủy phân: LPL - có ở bề mặt các tế bào nội mô mao mạch của mô
mỡ, cơ xương, cơ tim, tuyến vú được hoạt hóa bởi apoCII của CM - sẽ thủy
phân triglycerid, giải phóng acid béo tự do cho những tổ chức này. Acid béo
được sử dụng để sinh năng lượng hoặc lại được este hóa thành triglycerid dự
trữ. Trong khi đó CM bị rút dần triglycerid trở thành CM tàn dư.
+ Giai đoạn trao đổi: thành phần bề mặt của CM tàn dư có chứa phospholipid,
apoCII và cả cholesterol tự do sẽ được chuyển giao cho HDL nhờ PLTP, đồng
thời CM tàn dư nhận lại cholesterol este từ HDL nhờ CETP và vận chuyển
chúng về gan.
+ Giai đoạn thoái hóa: ở gan, apoE của CM tàn dư sẽ gắn vào receptor E của tế
bào gan và phân tử tàn dư này được vận chuyển vào trong tế bào đến tiêu thụ
ở lysosom. Một phần cholesterol được sử dụng để tổng hợp acid mật, một
phần cùng với triglycerid tạo thành VLDL.
3.3.2.2. Đường nội sinh
Là con đường vận chuyển triglycerid và cholesterol nội sinh từ gan đến các mô
khác của cơ thể. Gồm các bước sau:
- Quá trình hình thành VLDL: VLDL giàu triglycerid được tạo thành ở gan rồi bài
tiết vào máu. Triglycerid này được tổng hợp ngay tại gan (90%) và một phần nhỏ
từ ruột (10%) do CM tàn dư mang về.
130
- Quá trình thanh lọc VLDL: VLDL có số phận giống như CM
+ Giai đoạn thủy phân: LPL - có ở bề mặt các tế bào nội mô mao mạch của tổ
chức được hoạt hóa bởi apoCII của VLDL - sẽ thủy phân triglycerid, giải
phóng acid béo tự do cho những tổ chức này. Acid béo được sử dụng để sinh
năng lượng hoặc lại được este hóa thành triglycerid dự trữ.
+ Giai đoạn trao đổi: thành phần bề mặt còn lại của VLDL có chứa
phospholipid, apoC, một phần apoE và cả cholesterol tự do sẽ được chuyển
giao cho HDL nhờ PLTP, VLDL trở nên nhỏ hơn tạo thành VLDL tàn dư
(IDL: intermediate density lipoprotein - lipoprotein có tỷ trọng trung gian).
Cholesterol tự do được chuyển giao cho HDL sẽ được este hóa và được đưa
ngược trở lại IDL bằng cách trao đổi với triglycerid của IDL nhờ CETP. IDL
sẽ trở lại gan.
+ Giai đoạn thoái hóa: ở gan, một phần nhỏ IDL gắn vào receptor B và E của tế
bào gan, sau đó được hấp thu vào tế bào gan đến tiêu thụ ở lysosom. Trong
khi đó, một phần lớn IDL bị lấy đi triglycerid do tác dụng của HTGL sẽ
chuyển thành LDL. LDL với thành phần chủ yếu là cholesterol este và
apoB100 tạo thành ở gan sẽ tiếp tục tuần hoàn trong máu.
- Quá trình thanh lọc LDL: LDL giữ vai trò chính trong sự vận chuyển cholesterol
đến các mô ngoại vi. Tại đây, apoB100 sẽ nhận diện receptor B đặc hiệu ở màng
tế bào và gắn vào tế bào. Sau đó, LDL được đưa vào trong tế bào bằng hiện
tượng thực bào rồi bị thoái hóa ở lysosom, giải phóng cholesterol tự do.
Choletsreol tự do trong tế bào có vai trò điều hòa số lượng receptor của LDL
theo cơ chế feedback âm, đồng thời gây ức chế enzym HMG-CoA ngăn cản quá
trình tổng hợp cholesterol ở các mô ngoại vi, ngoài ra nó cũng kích thích enzym
ACAT gây este hóa chính bản thân nó.
3.3.2.3. Hoạt động của HDL
- Quá trình hình thành HDL tiền chất: HDL được tổng hợp ban đầu ở gan và một
phần nhỏ ở ruột dưới dạng những phân tử tiền chất. HDL mới sinh (nascent
HDL) có dạng hình đĩa chứa đựng phospholipid, apoA, apo C, apoD, apoE (chủ
yếu apoAI) và một lượng nhỏ cholesterol.
- Quá trình hình thành và số phận của HDL3: trong máu, HDL mới sinh trao đổi
với CM tàn dư và VLDL bằng cách chuyển giao cholesterol este và nhận lại
131
thành phần bề mặt có chứa phospholipid, apoC và cholesterol tự do của chúng
nhờ PLTP và CETP. HDL cũng tiếp nhận cholesterol tự do dư thừa từ các đại
thực bào, tế bào ngoài gan và thành mạch nhờ ABC1. Như vậy, HDL mới sinh
được làm giàu thêm bởi apoC và cholesterol tự do trở thành HDL3. Trong HDL3,
cholesterol tự do sẽ được este hóa nhờ tác dụng LCAT mà apoAI là cofactor chủ
yếu. Cholesterol este thâm nhập sâu vào bên trong HDL làm cho HDL lúc này có
dạng hình cầu với cấu trúc là một nhân giàu cholesterol este được bao bên ngoài
bởi một lớp vỏ chứa phospholipid có cực và các apoprotein. HDL3 vận chuyển
cholesterol “trở về” gan tạo acid mật.
- Quá trình hình thành và số phận của HDL2: HDL3 cũng trao đổi với CM tàn dư
và IDL bằng cách chuyển giao cholesterol este và nhận lại triglycerid của chúng
trở thành HDL2. Do vậy nồng độ HDL-cholesterol sẽ bị giảm thứ phát khi
triglycerid máu tăng cao, điều này cần được lưu ý khi biện luận kết quả xét
nghiệm HDL-cholesterol. HDL2 bị dị hóa bằng 2 cách, cách thứ nhất là
triglycerid của HDL2 bị enzym LPL hoặc HTGL thủy phân làm cho HDL2 trở lại
thành HDL3, cách thứ hai là HDL2 bị loại bỏ khỏi huyết tương (chưa rõ nơi nào
loại trừ chúng có lẽ là tại thận).
- Quá trình hình thành và số phận của HDL1: trong một số trường hợp hiếm,
HDL2 tiếp tục nhận thêm cholesterol và apoE để trở thành HDL1. HDL1 sẽ được
gan hoặc các tế bào tổng hợp steroid thu nhận qua các receptor E.
* Như vậy, HDL có những vai trò rất quan trọng:
1. Chuyển cholesterol từ các tế bào dư thừa cholesterol hoặc thu nhặt cholesterol
trên thành mạch đưa về gan để tổng hợp acid mật hoặc đưa đến các tế bào cần
cholesterol để tổng hợp steroid.
2. Phụ giúp việc chuyên chở triglycerid về gan hoặc các mô khác.
3. HDL là kho phân phát các apoCII, apoE cho chylomicron và VLDL mới sinh.
132
Hình 2. Các con đường chuyển hóa lipoprotein
4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ ĐIỀU HÒA LIPID MÁU
Bảng 2. Các yếu tố ảnh hưởng trên lipoprotein huyết tương
Các yếu tố HDL-C LDL-C TriglyceridGiới tính Nữ>Nam Nữ=Nam Nữ<NamTuổi nhẹ ở nữ Chế độ ăn: tỷ lệ
lipid không bão hòa/bão hòa
- hoặc - hoặc
Thể dục Béo phì - Nghiện rượu - Estrogen nội sinh
- Cholesterol thức ăn (ngoại sinh) không ức chế sự tổng hợp cholesterol ở ruột,
nhưng lại ức chế sự tổng hợp cholesterol nội sinh ở gan thông qua việc làm giảm
tổng hợp HMG-CoA reductase - enzym đầu tiên của quá trình tổng hợp
cholesterol. Ngoài ra, nồng độ của cholesterol trong tế bào cao cũng hoạt hoá
enzym reductase có tác dụng hạ nồng độ cholesterol máu.
133
Đường ngoại sinh Đường nội sinh Ruột Gan Máu Mô ngoại vi Lipid thức ăn VLDL
Acetyl-CoA Tế bào Biểu mô LPL
Mao mạch TG CM
IDL Mô mỡ
Receptor Receptor tàn dư LDL
Lysosom LDL HDL
Mao mạch Lipoprotein Tế bào gan tàn dư Đại thực bào Receptor LDL
TG Lipid bị oxy hóa Lysosom
Mô mỡ
Mảng xơ vữa Steroid Màng tế bào
Tế bào ngoại vi
- Nhịn đói làm giảm tổng hợp cholesterol ở gan do giảm lượng acetyl CoA, ATP
và NADPH, ngược lại khi ăn một chế độ ăn nhiều mỡ thì quá trình tổng hợp
cholesterol sẽ tăng.
- Acid mật có tác dụng ức chế trực tiếp đến sự tổng hợp cholesterol ở niêm mạc
ruột.
- Nồng độ natri cao ức chế sự huy động acid béo tự do từ mô mỡ ngoại vi do đó
giảm sự tổng hợp VLDL tại gan.
- Glucagon và insulin ảnh hưởng lên hoạt động của enzym HMG-CoA reductase.
Enzym này tồn tại dưới hai dạng: dạng được phosphoryl hóa (dạng không hoạt
động) và dạng khử phosphoryl (dạng hoạt động). Glucagon kích thích quá trình
phosphoryl hóa của enzym ngược lại insulin tăng cường quá trình khử
phosphoryl của enzym này.
- Estrogen ức chế enzym HMG-CoA reductase dẫn đến giảm tổng hợp cholesterol,
đồng thời estrogen còn có tác dụng chống oxy hóa LDL-C, tăng HDL, điều hòa
hoạt động của các gen sản xuất apoprotein A, B, D, E và Lp(a), tăng số lượng
receptor LDL tại gan.
- Hormon tuyến giáp làm tăng số lượng receptor LDL, tăng hoạt tính enzym
HTGL tại gan.
5. ĐỊNH LƯỢNG LIPID MÁU
Các xét nghiệm định lượng lipid máu với mẫu bệnh phẩm là huyết thanh hoặc
huyết tương thường được sử dụng để phát hiện sớm nguy cơ xơ vữa động mạch cũng
như theo dõi điều trị với thuốc giảm lipid máu.
5.1. Cholesterol toàn phần
- Trị số bình thường: 5,2mmol/L.
- Ý nghĩa: nồng độ cholesterol toàn phần có giá trị gợi ý việc thực hiện các xét
nghiệm chuyển hóa lipoprotein sâu hơn tiếp theo.
+ <4,1mmol/L: bệnh lý mạch vành rất hiếm xảy ra.
+ >5,2mmol/L: yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch, đặc biệt là khi vượt quá
5,4mmol/L.
5.2. HDL-cholesterol
- Trị số bình thường: >0,9mmol/L.
134
- Ý nghĩa: nồng độ HDL-C huyết thanh giảm thấp dưới ngưỡng bình thường là
một yếu tố nguy cơ quan trọng của bệnh mạch vành không phụ thuộc vào nồng
độ cholesterol toàn phần.
5.3. LDL-cholesterol
- Trị số bình thường: <3,12mmol/L.
- Ý nghĩa: nồng độ LDL-C huyết thanh tăng cao là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất
của bệnh xơ vữa động mạch.
+ 4,0-4,9mmol/L: mức nguy cơ vừa.
+ 4,9mmol/L: mức nguy cơ cao.
5.4. Triglycerid
- Trị số bình thường: <2,30mmol/L
- Ý nghĩa: nồng độ triglycerid máu cao là một yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch
đặc biệt khi nó kết hợp với tăng LDL-C.
+ Tăng triglycerid máu rất cao trên 11,4mmol/L xảy ra chủ yếu trong tăng
triglycerid của CM thuộc phân loại rối loạn lipid máu Fredrickson typ I và V
(tăng triglycerid đơn thuần).
+ Tăng triglycerid máu typ IV (2,3mmol/L-5,7mmol/L) xảy ra ở người trưởng
thành có liên quan với bệnh đái tháo đường, tình trạng kháng insulin và béo
phì.
5.5. Lipoprotein (a)
- Trị số bình thường: <300mg/L.
- Ý nghĩa: Lp(a) là một yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành không phụ thuộc vào
tất cả những thông số lipid khác. Nó có giá trị tiên lượng cao đặc biệt là khi Lp(a)
và LDL đều gia tăng.
6. RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA LIPID VÀ LIPOPROTEIN
6.1. Phân loại rối loạn chuyển hóa lipid và lipoprotein
6.1.1. Rối loạn nguyên phát
* Tăng lipid máu theo phân loại quốc tế Fredrickson
- Typ I-Tăng CM: bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường gây rối loạn hoạt
tính LPL làm chậm quá trình thoái hóa CM.
- Typ II-Tăng LDL:
135
+ Typ IIa-Tăng cholesterol đơn thuần: bệnh di truyền có hai thể là thể đa gen
gây khuyết tật receptor LDL và thể gia đình do di truyền trội trên nhiễm sắ
thể thường gây rối loạn apoB100.
+ Typ IIb-Tăng cholesterol kết hợp tăng nhẹ triglycerid trong LDL và VLDL,
quá sản apoB100.
- Typ III-Tăng IDL: do rối loạn apoE làm chậm thoái hóa IDL kèm với tăng tổng
hợp apoB. Nguyên nhân do bất thường về gen, có thể kèm theo béo phì hoặ chế
độ ăn không hợp lý.
- Typ IV-Tăng VLDL: bệnh di truyền đơn gen trội hoặc thiểu gen kèm với béo
phì, ngộ độ rượu, ăn nhiều glucid, không dung nạp glucose, tiểu đường. Bệnh
gây tăng vừa và nhẹ triglycerid nội sinh, cholesterol bình thường hoặc tăng do
liên quan tới VLDL, HDL-C thấp tương ứng với mức tăng triglycerid máu.
- Typ V-Tăng VLDL và CM (tăng triglycerid đơn thuần): tăng vừa và nặng
triglycerid máu. Trong typ I, cholesterol máu bình thường hoặc thấp còn typ V có
nồng độ cholesterol máu tăng nhẹ do sự có mặt của các VLDL có chứa
cholesterol.
Bảng 3. Phân loại các rối loạn lipid máu theo Fredrickson
Typ I IIa IIb III IV VCholesterol ↑ ↑↑ ↑↑ ↑ Bình
thường/↑
↑
Triglycerid ↑↑↑ Bình
thường
↑↑ ↑↑ ↑↑ ↑↑↑
Lipoprotei
n
↑ CM ↑↑LDL ↑LDL
↑VLDL
↑IDL ↑VLDL ↑VLDL
↑CM* Một số rối loạn lipid máu không thuộc vào xếp loại Fredrickson
- Tăng HDL: một số trường hợp tăng HDL-C máu nhiều vẫn đi kèm với xơ vữa
động mạch.
- Hạ HDL-C: bệnh di truyền do khuyết tật chuyển hóa như giảm tổng hợp apoAI,
giảm hoạt tính của enzym LCAT.
- Tăng lipid máu phối hợp có tính gia đình: là loại tăng lipid máu thường gặp nhất,
bệnh di truyền trội đơn gen nhiễm sắc thể thường. Cơ chế bệnh sinh là do gan sản
xuất qua mức apoB100 kèm theo tăng VLDL. Bệnh được đặc trưng bởi sự biểu
hiện ở một nửa số thành viên trong cùng một gia đình bị tăng cholesterol đơn 136
độc, tăng triglycerid hoặc phối hợp cả hai. Ngoài ra còn gặp các biểu hiện như
tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa glucose và béo phì.
6.1.2. Rối loạn thứ phát
- Tiểu đường: giảm hoạt tính của các men lipase do đề kháng ínulin, biến đổi cấu
trúc lipoprotein gây rối loạn lipoprotein máu.
- Suy tuyến yên, suy tuyến giáp: thiếu GH làm giảm sự oxy hóa acid béo do đó
tăng tổng hợp triglycerid; thiếu T3-T4 làm giảm receptor B, E trên màng tế bào,
giảm hoạt tính men HTGL gây rối loạn lipoprotein.
- Hội chứng Cushing: đề kháng insulin, giảm hoạt tính men LPL.
- Nghiện rượu: rượu chuyển hóa thành acetat, cản trở sự oxy hóa acid béo, acid
béo sẽ chuyển thành triglycerid gây tính trạng gan nhiễm mỡ và tăng sản xuất
VLDL.
- Hội chứng thận hư: giảm albumin kích thích gan tăng tổng hợp protein dẫn đến
tăng VLDL, LDL. Bên cạnh đó, acid béo tự do không kết hợp được với albumin
sẽ gắn vào lipoprotein làm biến đổi cấu trúc của nó cản trở sự thủy phân
triglycerid.
- Tắc mật: tắc mật trong và ngoài gan đều làm tăng lipoprotein huyết thanh
6.2. Cơ chế bệnh sinh của tăng lipid máu
6.2.1. Cơ chế bệnh sinh của xơ vữa động mạch
Trong cơ chế bệnh sinh của xơ vữa động mạch, cholesterol đóng một vai trò
quan trọng.
- Khi có tổn thương nội mạc thành động mạch, lớp nội mạc tại chỗ mất khả năng
bảo vệ thành mạch, tiểu cầu lập tức tách ra khỏi dòng máu tập trung vào chỗ tổn
thương, đồng thời giải phóng ra nhiều chất trong đó có PDGF (platelet derived
growth factor).
- LDL mà đặc biệt là những loại LDL nhỏ đặc có khả năng thấm nhuận vào thành
mạch qua tế bào nội mạc còn nguyên vẹn hoặc qua chỗ lớp nội mạc tổn thương.
Tiếp sau đó LDL bị oxy hóa và biến đổi về cấu trúc.
- Các monocyte cũng đến chỗ tổn thương và chuyển thành đại thực bào khởi đầu
một chuỗi hiện tượng gây giải phóng nhiều yếu tố tăng trưởng và cytokin. Đại
thực bào cũng bắt giữ các LDL bị biến đổi thông qua các receptor đặc hiệu. Do
không có khả năng tự điều chỉnh cholesterol như các tế bào khác nên khi đã tích
137
đầy cholesterol este chúng trở thành những tế bào bọt, tiếp sau đó tế bào vỡ và đổ
cholesterol ra các tổ chức xung quanh
- PDGF và các yếu tố tăng trưởng kích thích sự tăng sinh của các tế bào cơ trơn là
làm các tế bào này di chuyển từ lớp trung mạc ra lớp nội mạc.
- Mô liên kết phát triển, xâm nhập vào vùng tổn thương hình thành nên mảng xơ
vữa. Mảng xơ vữa ngày càng phát triển rộng ra, có thể nhiễm thêm calci gây hẹp
lòng mạch hoặc bong tróc trôi đi nơi khác.
Hình 3. Cơ chế bệnh sinh của xơ vữa động mạch
6.2.2. Các biểu hiện khác của tăng lipid máu
- U vàng.
- Xanthelasma (u vàng dạng phẳng).
- Vòng giác mạc.
- Viêm tụy cấp
…
138
Tế bào nội mạc
Tế bào bọt
Tế bào cơ trơn
Đại thực bào
Cholesterol
Mảng xơ vữa
SINH LÝ SYNAP
1. SYNAP
Synap là khớp thần kinh nơi tiếp xúc giữa hai nơron với nhau hoặc giữa nơron
với tế bào cơ quan mà nơron chi phối. Toàn bộ hệ thần kinh có khoảng 1015 synap.
1.1. Cấu tạo nơron
Nơron là đơn vị cấu trúc và chức năng của hệ thần kinh, gồm 3 phần:
- Thân nơron: hình dáng và kích thước khác nhau, chứa nhiều thể Nissl (RNA) làm
cho thân có màu xám.
- Đuôi gai: là những tua bào tương ngắn, phân nhánh. Nơron thường có nhiều đuôi
gai ngoại trừ nơron hạch gai chỉ có 1 đuôi gai.
- Sợi trục: là tua bào tương dài, đầu tận cùng phân nhánh gọi là nhánh tận cùng kết
thúc bằng các cúc tận cùng. Trong cúc tận cùng có nhiều túi synap nhỏ chứa chất
truyền đạt thần kinh. 2 loại sợi trục: sợi có myelin, sợi không có myelin.
1.2. Phân loại synap
1.2.1. Phân loại theo cấu trúc
- Synap thần kinh-thần kinh: khớp giữa hai nơron với nhau.
- Synap thần kinh-cơ quan: khớp giữa noron với tế bào cơ quan.
1.2.2. Phân loại theo cơ chế dẫn truyền
- Synap điện: synap điện tương tự như mối liên kết khe của các tế bào biểu mô
hoặc của các tế bào cơ trơn, cơ tim. Sự dẫn truyền xung động qua synap điện
không đòi hỏi chất trung gian hóa học mà nhờ sự chuyển dịch của dòng ion qua
kênh protein nối giữa tế bào trước và sau synap gọi là connexon. Trong cơ thể
synap điện ít gặp, thường tập trung ở thân não, võng mạc, vỏ não và là synap của
tế bào thần kinh đệm hơn là nơron. Hướng đi của xung động có thể là cả hai
chiều tùy thời điểm, nhưng cũng có thể chỉ là một chiều nhất định do vị trí liên hệ
giữa các tế bào.
- Synap hóa: loại này phổ biến trong hệ thần kinh và cần có sự tham gia của chất
trung gian hóa học. Hướng đi của xung động là một chiều từ màng trước synap
đến màng sau synap. Cấu trúc synap gồm 3 phần:
+ Màng trước synap: màng của cúc tận cùng.
+ Khe synap: khoảng gian bào giữa hai màng, trung bình khoảng 20nm.139
+ Màng sau synap: màng của đuôi gai hoặc thân nơron tiếp theo hay màng của tế
bào đáp ứng.
Hình 1. Cấu trúc synap hóa học
1.3. Cơ chế dẫn truyên xung động thần kinh qua synap hoá học
4 giai đoạn: tổng hợp chất truyền đạt thần kinh, dự trữ và phóng thích chất
truyền đạt thần kinh, phản ứng giữa chất truyền đạt thần kinh và receptor màng sau
synap, chấm dứt truyền qua synap.
1.3.1. Cơ chế trước synap
- Tổng hợp và dự trữ sẵn chất truyền đạt thần kinh trong các túi synap.
- Khi điện thế hoạt động lan đến cúc tận cùng sẽ làm thay đổi điện thế màng kích
hoạt kênh Ca++ nhạy cảm với điện thế làm mở kênh Ca++ và Ca++ vào cúc tận
cùng.
- Ca++ làm các túi synap chứa chất truyền đạt thần kinh di chuyển đến hoà màng
với màng trước synap và giải phóng chất truyền đạt thần kinh vào khe synap
bằng hiện tượng xuất bào. Sau đó màng của các túi synap sẽ được tái sử dụng để
chứa đựng chất truyền đạt thần kinh mới. Nồng độ Ca++ trong cúc càng cao, càng
nhiều túi phóng thích chất truyền đạt thần kinh vào khe synap.
1.3.2. Cơ chế sau synap
- Màng sau synap có nhiều receptor, các receptor này có hai phần:
140
Receptor Chất truyền Màng sau synap đạt thần kinh
Khe synap
Túi synap
Ty thể
Cúc tận cùng
Sợi trục
+ Phần gắn: thò ra ngoài màng về phía synap là phần gắn với chất truyền đạt
thần kinh, mỗi receptor chỉ gắn với một loại chất truyền đạt thần kinh nhất
định.
+ Phần xuyên màng: có thể là một loại kênh được hoạt hóa hóa học (3 loại kênh:
kênh Na+, kênh K+ hoặc kênh Cl-) hoặc có thể là một enzym làm thay đổi
chuyển hóa tế bào (2 hiệu ứng: kích thích tạo AMPc hoặc hoạt hóa hệ gen tế
bào).
- Đáp ứng sau synap: có thể là kích thích hoặc ức chế
+ Chất truyền đạt kích thích: là những chất làm mở kênh Na+ (tăng Na+ từ ngoài
vào trong tế bào), đóng kênh K+ hoặc Cl- (giảm K+ từ trong ra ngoài hoặc giảm
Cl- từ ngoài vào trong tế bào) do vậy làm điện thế màng tăng lên đến ngưỡng
kích thích. Chất truyền đạt thần kinh kích thích cũng có thể là những chất gây
hoạt hóa các chức năng tế bào qua AMPc hoặc hoạt hóa gen làm tăng tổng hợp
receptor kích thích.
+ Chất truyền đạt ức chế: là những chất làm đóng kênh Na+, mở kênh K+ hoặc
Cl- do vậy làm điện thế màng giảm, tăng phân cực tế bào. Chất truyền đạt thần
kinh kích thích cũng có thể là những chất gây ức chế chuyển hóa tế bào hoặc
giảm tổng hợp receptor kích thích.
1.3.3. Chấm dứt truyền qua synap
Sau khi tác dụng, chất truyền đạt thần kinh sẽ bị phá huỷ hoặc lấy đi khỏi synap
để tránh việc kéo dài mãi tác dụng về sau. Có 3 cách để chấm dứt tác dụng của chất
truyền đạt thần kinh: khuếch tán ra khỏi khe synap, bị men phá hủy hoặc được vận
chuyển tích cực trở lại cúc tận cùng để tái sử dụng.
1.4. Một số đặc điểm của dẫn truyền xung động qua synap
1.4.1. Tương quan giữa cường độ kích thích và tần số xung động
Cường độ kích thích càng mạnh thì tần số xung động càng cao dẫn đến tần số
giải phóng chất truyền đạt thần kinh tăng.
1.4.2. Hiện tượng cộng kích thích sau synap
- Cộng kích thích trong không gian: nhiều cúc tận cùng cùng giải phóng chất
truyền đạt thần kinh thì điện thế sau synap sẽ là tổng đại số của các điện thế tác
động lên nó cùng lúc.
141
+ Cộng đồng thời các điện thế kích thích: nếu một cúc tận cùng giải phóng chất
truyền đạt thần kinh thì chỉ đủ tạo ra điện thế kích thích sau synap là 0,5-1mV,
trong khi cần 10-20mV mới đạt tới ngưỡng kích thích. Do vậy thường cần
nhiều cúc tận cùng giải phóng chất truyền đạt cùng lúc và tác dụng của chúng
là tác dụng cộng gộp.
+ Cộng đồng thời điện thế kích thích và điện thế ức chế: tác dụng của chúng sẽ
triệt tiêu lẫn nhau một phần hay hoàn tòan tùy theo cường độ.
- Cộng kích thích theo thời gian: cúc tận cùng giải phóng chất truyền đạt thần kinh
liên tiếp nhau và đủ nhanh thì điện thế sau synap sẽ là tổng đại số của các điện
thế tác động lên nó theo thời gian.
1.4.3. Hiện tượng mỏi synap
Tần số xung động ở màng sau synap sẽ giảm dần khi màng sau synap bị kích
thích với tần số cao. Cơ chế:
- Cạn dự trữ chất truyền đạt ở cúc tận cùng. Ở phần lớn các nơron, các cúc tận
cùng chỉ chứa một lượng chất truyền đạt cho 10.000 lần truyền.
- Bất hoạt dần các receptor ở màng sau synap.
- Điện thế hoạt động làm chậm tái hấp thu Ca++ vào màng sau synap dẫn đến mở
kênh K+, K+ đi ra ngoài gây hiệu ứng ức chế.
1.4.4. Hiện tượng chậm synap
Thời gian để xung động được dẫn truyền qua synap là thời gian chậm synap, tối
thiểu khoảng 0,5 giây. Thời gian này bao gồm:
- Thời gian giải phóng chất truyền đạt thần kinh ở màng trước synap.
- Thời gian khuếch tán chất truyền đạt thần kinh qua khe synap.
- Thời gian chất truyền đạt thần kinh gây tác động lên màng sau synap.
1.5. Dẫn truyền xung động trong một tập hợp nơron
1.5.1. Dẫn truyền theo lối phân kỳ
Hiện tượng phân kỳ là khi tín hiệu thần kinh vào một tập hợp nơron gây hưng
phấn một lượng lớn hơn rất nhiều các sợi ra khỏi tập hợp.
- Phân kỳ khuếch đại: trên đường dẫn truyền, cứ qua mỗi chặng thì số nơron bị
kích kích lại nhiều lên. Ví dụ: một tế bào tháp trên vỏ não có thể kích thích
10.000 sợi cơ vân.
142
- Phân kỳ thành nhiều đường hơn: từ một tập hợp nơron xung động được dẫn
truyền ra theo nhiều hướng khác nhau. Ví dụ: đường dẫn truyền cảm giác đi lên
nhiều vùng của não như đồi thị, cấu tạo lưới, tiểu não...
1.5.2. Dẫn truyền theo lối hội tụ
Hiện tượng hội tụ là khi tín hiệu thần kinh từ nhiều nhánh tận cùng tới chỉ kích
thích một nơron. Đây là cơ sở của hiện tượng cộng kích thích.
- Hội tụ nhiều nhánh tận cùng của một nơron: nhiều cúc tận cùng của một nơron
cùng tạo synap với một nơron khác.
- Hội tụ nhiều nhánh tận cùng của nhiều nơron: nhiều cúc tận cùng của nhiều
nơron khác nhau cùng tạo synap với một nơron. Ví dụ: nơron trung gian nhận tín
hiệu từ các sợi ngoại vi, sợi liên đốt tủy, sợi từ não; sau đó nhiều nơron trung
gian lại hội tụ trên nơron vận động của sừng trước tủy sống.
2. CÁC CHẤT TRUYỀN ĐẠT THẦN KINH
2.1. Phân loại các chất truyền đạt thần kinh
Toàn hệ thần kinh có khoảng 40 chất truyền đạt và được chia hai nhóm:
143
Bảng 1. Phân loại chất truyền đạt thần kinh
Nhóm có phân tử nhỏ Nhóm có phân tử lớn (peptid não)Acetylcholin
Các amin:
Dopamin
Norepinephrin
Epinephrin
Histamin
Serotonin
Các acid amin:
Glutamat
Aspartat
Glycin
GABA
Các purin:
Adenosin
ATP
Chất P
Vasopressin
Oxytocin
CRH
TRH
GRH
Somatostatin
GnRH
Endothelin
Encephalin
Endorphin
Cholecystokinin
Neurotensin
Gastrin
Glucagon
Motilin
Secretin
Neuropeptid Y
Activin
Inhibin
Angiotensin II
FMRF amide
ANP (antrial natriuretic peptid)
Galanin
BNP (brain natriuretic peptid)
CGRPα (calcitonin gene releasing peptid α)
VIP (vasoactive intestinal polypeptid)
GRP (gastrin releasing peptid)
2.2. Đặc điểm chung của các chất truyền đạt thần kinh144
Bảng 2. Đặc điểm của các chất truyền đạt thần kinh
Nhóm có phân tử nhỏ Nhóm có phân tử lớnĐược tổng hợp ngay tại cúc tận cùng Được tổng hợp ở thân nơronMỗi nơron chỉ tổng hợp và bài tiết một
loại chất có phân tử nhỏ
Mỗi nơron có thể tổng hợp và bài tiết
một hay nhiều peptid nãoTác dụng nhanh nhưng ngắn Tác dụng chậm nhưng kéo dàiCác túi synap chứa chất truyền đạt thần
kinh được tái sử dụng
Các túi synap chứa chất truyền đạt thần
kinh không được tái sử dụngBị khử nhanh chóng bằng 3 cách:
khuếch tán ra khỏi khe synap, bị enzym
phân hủy hoặc tái hấp thu lại cúc tận
cùng
Bị loại bỏ chậm bằng cách khuếch tán ra
mô xung quanh rồi phân hủy bởi enzym
3. CÁC HỆ THỐNG DẪN TRUYỀN QUA SYNAP TRONG CƠ THỂ
Ba hệ thống dẫn truyền qua synap ở hệ thần kinh ngoại biên (PNS: peripheral
nervous system) và hệ thần kinh trung ương (CNS: central nervous system) là: hệ
thống dẫn truyền qua synap thần kinh cơ, hệ thống dẫn truyền qua synap thần kinh
thực vật (ngoại biên) và hệ thống dẫn truyền qua synap thần kinh trung ương.
3.1. Dẫn truyền qua synap thần kinh-cơ (Neuromuscular transmission)
Là sự dẫn truyền qua synap giữa nơron vận động alpha và một sợi cơ vân ở
khớp thần kinh cơ.
3.1.1. Giải phẫu chức năng synap thần kinh-cơ
3.1.1.1. Quan sát dưới kính hiển vi thường
- Nơron vận động alpha phân nhánh đến các sợi cơ mà nó chi phối. Một nơron vận
động alpha có thể phân bố rộng đến hàng trăm, hàng ngàn sợi cơ kiểm soát
trương lực tạo ra tư thế nhưng chỉ phân bố đến vài sợi cơ kiểm soát những cử
động chính xác. Ngược lại, mỗi sợi cơ vân chỉ nhận một cúc tận cùng.
- Cúc tận cùng nằm trong một rãnh do sự lõm vào của sợi cơ gọi là máng synap
(synaptic trough).
- Sự dẫn truyền qua synap xảy ra ở vùng đĩa tận cùng (end-plate region) của sợi cơ
(màng sau synap).
145
Nơron vận động alpha
Máng synap
Sợi cơ vân
Cúc tận cùng
Khe synap
Màng trước synap Túi synap chứa ACh
Màng sau synap
Nếp nối
Vị trí gắnVùng hoạt hóa
Đĩa tận cùng
ACh receptor
Sarcome
AChEase
Hình 2. Cấu trúc giải phẫu của khớp thần kinh cơ
3.1.1.2. Quan sát dưới kính hiển vi điện tử
- Các túi synap có đường kính khoảng 50nm chứa chất truyền đạt thần kinh
acetylcholin (ACh) nằm trong cúc tận cùng. Chúng tập trung xung quanh những
cấu trúc đặc biệt của màng trước synap gọi là vùng hoạt hoá (active zone).
- Khe synap rộng khoảng 60nm là một mạng mô liên kết không định hình gọi là
lớp cơ bản trong đó có men acetylcholinesterase (AChEase). AChEase phân huỷ
ACh sau khi nó tác dụng lên màng sau synap.
- Màng sau synap chứa nhiều nếp nối (junctional fold) là chỗ lõm vào của màng
sau synap đối diện với vùng hoạt hoá. Receptor của ACh nằm gần các nếp đó.
3.1.2. Sự dẫn truyền qua synap thần kinh-cơ
3.1.2.1. Cơ chế trước synap
- Tổng hợp và dự trữ ACh:
+ ACh được tổng hợp từ cholin và acetyl coenzyme A dưới sự xúc tác của
enzym cholin acetyltransferase ở cúc tận cùng.
146
+ Sau khi tổng hợp, ACh được đưa vào dự trữ trong các túi synap. Có khoảng
5.000-10.000 phân tử trong mỗi túi. Các túi synap ở cúc tận cùng bị ức chế bởi
một protein gắn trên túi gọi là synapsin I.
- Giải phóng ACh:
+ Khi điện thế hoạt động lan truyền đến cúc tận cùng sẽ gây khử cực màng trước
synap. Sự khử cực làm mở các kênh Ca++ ở vùng hoạt hoá. Ca++ khuếch tán
vào trong cúc tận cùng.
+ Khi Ca++ vào trong cúc tận cùng nó sẽ khởi động sự phosphoryl hóa synapsin I
làm tách synapsin I ra khỏi túi synap. Khoảng 200-300 túi synap được hoạt
hóa sẽ đến gắn vào màng trước synap ở điểm gắn để giải phóng ACh vào khe
synap bằng hiện tượng xuất bào.
- Tái tạo túi synap: màng trước synap lõm vào tạo thành một cái túi sau đó tách ra
khỏi màng. Túi mới lại được chứa đầy ACh và để tiếp tục giải phóng ACh vào
khe synap sau đó.
3.1.2.2. Cơ chế sau synap
- Receptor ACh nằm ở vùng đĩa tận cùng của cơ vân gọi là nicotinic bởi vì nó
được kích thích bởi nicotin và ức chế bởi curare. Receptor ACh là một protein
xuyên màng gồm 5 tiểu đơn vị (2α, β, γ, δ) tạo thành một kênh trong lớp lipid
kép. Khi 2 tiểu đơn vị α được gắn bởi 2 phân tử ACh, protein thay đổi cấu hình
làm mở cổng kênh.
- Kênh cho thấm cả Na+ và K+ nhưng không giống như kênh Na+ và K+ trong cơ
chế tạo ra điện thế màng được hoạt hoá bởi điện thế, kênh này được hoạt hoá bởi
sự gắn kết của ACh vì thế nó là kênh hoá học. Khi kênh mở, Na+ đi vào và K+ đi
ra theo bậc thang gradient. Do gradient điện hóa của Na+ lớn hơn K+ nên số lượng
Na+ vào trong tế bào lớn hơn số lượng K+ đi ra khỏi tế bào làm tế bào cơ vân
được khử cực.
- Mức độ khử cực màng sau synap phụ thuộc với số lượng kênh ACh mở. 2 phân
tử ACh sẽ làm mở một kênh ACh tạo điện thế thấp vài microvolt. Một túi synap
hòa màng sẽ giải phóng được 5.000-10.000 phân tử ACh làm màng tế bào khử
cực xấp xỉ 1mV. Điện thế này gọi là điện thế đĩa tận cùng tối thiểu (MEPP:
miniature end-plate potential). Bình thường sự giải phóng luôn xảy ra với tốc độ
1 túi/giây, MEPP cũng được duy trì liên tục tạo ra trạng thái co cơ cơ sở (trương 147
lục cơ). MEPP có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự liên kết giữa các sợi cơ,
nếu phá bỏ sự liên kết đó các sợi cơ sẽ teo lại.
- Khi có 200-300 túi synap cùng giải phóng ACh sẽ tạo một điện thế xấp xỉ 50mV.
Điện thế này gọi là EPP - điện thế đĩa tận cùng (end-plate potential). EPP sẽ làm
điện thế màng tế bào cơ vân tăng lên đến ngưỡng và xuất hiện điện thế hoạt động
(action potential) gây co cơ thật sự. Khi khử cực tối đa điện thế màng tế bào cơ
có thể đạt đến -15mV.
3.1.2.3. Chấm dứt dẫn truyền qua synap
Sau khi gắn vào receptor gây khử cực màng sau synap, ACh nhanh chóng tách
ra khỏi receptor và bị phân hủy bởi AchEase có ở khe synap thành acetat và cholin.
Đây là cách loại bỏ chất truyền đạt thần kinh khá đặc hiệu cho ACh, các chất
truyền đạt thần kinh khác hầu như đều được loại bỏ bằng cách khuếch tán ra khỏi khe
synap hoặc được vận chuyển tích cực trở lại cúc tận cùng để tái sử dụng chứ không bị
phân hủy trực tiếp bởi enzym.
3.2. Dẫn truyền qua synap ở hệ thần kinh thực vật (Autonomic synaptic
transmission)
Hệ thần kinh thực vật gồm hai phần: giao cảm (∑) và phó giao cảm (p∑=∑’),
nhìn chung có tác dụng ngược nhau trong điều hoà hoạt động các tạng vì vậy bình
thường giúp cân bằng được hoạt động của tạng.
3.2.1. Tổ chức của hệ thần kinh thực vật
3.2.1.1 Hệ giao cảm
- Trung tâm: sừng bên chất xám tuỷ sống đoạn D1-L2.
- Đường dẫn truyền: đường dẫn truyền từ trung tâm đến mô có hai nơron là nơron
tiền hạch và nơron hậu hạch.
- Hạch giao cảm: là khớp nối giữa nơron tiền hạch và hậu hạch, nơi tập trung thân
nơron hậu hạch. Hạch giao cảm nằm gần trung tâm, xa tạng mà nó chi phối.
+ Chuỗi hạch giao cảm cạnh sống: gồm các hạch giao cảm nằm dọc hai bên
cạnh cột sống.
+ Nhóm hạch trước cột sống: hạch tạng (từ dây các sợi hậu hạch đi ra tạo thành
đám rối dương vùng thượng vị), hạch mạc treo, hạch hạ vị nằm trong ổ bụng.
148
Đặc biệt: sợi giao cảm đến chi phối tuỷ thượng thận chỉ có một sợi và tạo synap
với tế bào tuỷ thượng thận (do tế bào thần kinh biệt hoá tạo thành) gây bài tiết hormon
catecholamin (adrenalin và noradrenalin) có tác dụng giống hiệu ứng giao cảm.
3.2.1.2. Hệ phó giao cảm
- Trung tâm:
+ Trung não, hành não.
+ Chất xám tuỷ sống S2-S4.
- Đường dẫn truyền: đường dẫn truyền từ trung tâm đến mô có hai nơron là nơron
tiền hạch và nơron hậu hạch. Đặc biệt các sợi phó giao cảm xuất phát từ trung
não, hành não sẽ đi theo dây thần kinh III, VII, IX, X. 75% các sợi phó giao cảm
nằm trong dây thần kinh X.
- Hạch phó giao cảm: là khớp nối giữa nơron tiền hạch và hậu hạch, nơi tập trung
thân nơron hậu hạch. Hạch phó giao cảm nằm gần tạng mà nó chi phối, xa trung
tâm
+ Hạch mi: thuộc dây thần kinh III.
+ Hạch tai: thuộc dây thần kinh IX.
+ Hạch dưới hàm, dưới lưỡi: thuộc dây thần kinh VII’.
+ Hạch bướm khẩu cái: thuộc dây thần kinh VII.
+ Các hạch nằm ngay trong thành các tạng ở cổ, ngực, bụng: thuộc dây thần
kinh X và phần xuất phát từ S2-S4.
149
Phó giao cảm
Giao cảm
Tuyến lệĐồng tử Đồng tử
Tuyến lệĐộng mạch cảnh
Các tuyến nước bọt
Hạch cổTim
Tim
Tuyến mang tai
Tuyến dưới hàm Tuyến dưới lưỡi
Hạch mi
Hạch bướm khẩu cáiHạch dưới hàm
Hạch tai
Phổi
Phổi
Dạ dày
Dạ dày
Tụy
TụyRuột non
Ruột non
Hạch tạng
Gan
Gan
Đại tràng
Đại tràng
Tuyến thượng thậnHạch mạc treo
Hạch hạ vị
Bàng quang
Bàng quang
Tuyến sinh dụcTuyến sinh dục
Chuỗi hạchgiao cảmcạnh sống
Góc đại tràng
Thần kinh tạng
Hình 3. Sơ đồ hệ thần kinh thực vật
3.2.2. Sự dẫn truyền qua synap ở hệ thần kinh thực vật
Các sợi thần kinh giao cảm và phó giao cảm bài tiết một trong hai chất truyền
đạt thần kinh là noradrenalin (norepinephrin) và acetylcholin. Các sợi bài tiết
noradrenalin được gọi là adrenergic, các sợi bài tiết acetylcholin được gọi là sợi
cholinergic.
3.2.2.1. Dẫn truyền qua synap ở hạch giao cảm và phó giao cảm
- Hạch giao cảm và phó giao cảm là vùng synap giữa nơron tiền hạch và nơron hậu
hạch. Hóa chất trung gian ở cúc tận cùng của nơron tiền hạch là acetylcholin nên
vùng này thuộc hệ cholinergic. Receptor ở màng sau synap (nơron hậu hạch) là
nicotinic.
150
- Cơ chế dẫn truyền qua synap: nhìn chung giống với cơ chế dẫn truyền qua synap
thần kinh-cơ. Tuy nhiên sự dẫn truyền có hai điểm khác:
+ Một sợi tiền hạch không thể giải phóng đủ lượng ACh cần thiết để làm hoạt
hóa màng sau synap như sự dẫn truyền qua synap thần kinh-cơ. Do đó cần
phải có cơ chế cộng synap với sự tham gia của nhiều sợi tiền hạch.
+ Receptor nicotinic không hoàn toàn giống với receptor ở đĩa tận cùng của cơ
vân. Nicotin gây kích thích các receptor nicotinic nhưng ở nồng độ cao nó chỉ
tác dụng lên receptor nicotinic của hệ thần kinh thực vật gây nôn, tiêu chảy, vã
mồ hôi chứ không tác dụng lên receptor nicotinic ở cơ vân. Hexamethonium
gây ức chế receptor nicotinic ở hệ thần kinh thực vật trong khi curare gây ức
chế receptor nicotinic ở cơ vân.
3.2.2.2. Dẫn truyền qua synap của sợi hậu hạch phó giao cảm
- Nơron hậu hạch phó giao cảm tạo synap với cơ quan mà nó chi phối. Hóa chất
trung gian ở cúc tận cùng của nơron hậu hạch là acetylcholin nên vùng này thuộc
hệ cholinergic. Receptor ở màng sau synap là muscarinic. Receptor này bị ức chế
bởi atropin.
- ACh có thể gây tác dụng kích thích hoặc ức chế tùy thuộc vào loại receptor
muscarinic ở màng sau synap
+ ACh có tác dụng kích thích trên các sợi cơ trơn (dạ dày, ruột, túi mật, phế
quản) và các tuyến do nhiều cơ chế khác nhau:
⋅ ACh có thể gắn lên receptor gây khử cực màng tế bào giống như cơ chế ở
đĩa tận cùng cơ vân.
⋅ ACh có thể gắn lên receptor làm mở các kênh Ca++, Ca++ đi vào trong tế bào
góp phần tạo ra điện thế hoạt động gây co cơ trơn.
⋅ ACh có thể gắn vào receptor gây hoạt hóa protein G (guanosine triphosphat
binding protein) - một loại protein gắn trên màng tế bào. Khi protein G
được hoạt hóa sẽ kích hoạt phospholipase C. phospholipase C kích thích sự
tạo thành IP3 (inositol triphosphat) và diacylglycerol từ PIP2
(phosphatidylinositol di phosphat). IP3 vào trong bào tương làm tăng giải
phóng Ca++ từ các kho dự trữ nội bào dẫn đến co cơ. Diacylglycerol ở lại
màng tế bào và hoạt hóa protein kinase C gây phosphoryl hóa nhiều protein
nội bào.151
+ ACh có tác dụng ức chế trên tim mà chủ yếu là ức chế nút xoang làm giảm tần
số tim, ức chế nút nhĩ thất làm giảm dẫn truyền từ nhĩ xuống thất theo các cơ
chế:
⋅ Ưu phân cực màng tế bào: ACh làm mở các kênh K+. K+ thoát ra ngoài tế
bào theo gradient điện hóa làm tăng phân cực màng tế bào.
⋅ Ức chế trực tiếp: ACh ức chế trực tiếp các kênh gây khử cực tự động của tế
bào tạo nhịp.
3.2.2.3. Dẫn truyền qua synap của sợi hậu hạch giao cảm
- Nơron hậu hạch giao cảm tạo synap với cơ quan mà nó chi phối. Hóa chất trung
gian ở cúc tận cùng của nơron hậu hạch là noradrenalin nên vùng này thuộc hệ
adrenergic. Receptor ở màng sau synap là α và β. Receptor α được hoạt hóa bởi
adrenalin và bị ức chế bởi phenoxybenzamin, receptor β được hoạt hóa bởi
isoproterenol và bị ức chế bởi propranolol.
- Noradrenalin được tổng hợp ở cúc tận cùng sợi adrenergic theo các bước:
Tyrosin → DOPA → Dopamin → Noradrenalin. Ở tủy thượng thận 80%
noradrenalin được chuyển thành adrenalin. Noradrenalin có thể gây tác dụng kích
thích hoặc ức chế tùy thuộc vào loại và vị trí receptor ở màng sau synap
+ Receptor β: khi noradrenalin gắn lên receptor β sẽ gây hoạt hóa protein Gs
giống như cơ chế hoạt hóa của ACh. Protein Gs hoạt hóa sẽ kích hoạt adenyl
cyclase. Adenyl cyclase kích thích sự tạo thành AMPc từ ATP. Đến lượt mình
AMPc sẽ hoạt hóa hệ thống enzym nội bào là protein kinase A dẫn đến sự
phosphoryl hóa acid amin serin và threonin của các protein nội bào, từ đó gây
đáp ứng sinh lý:
⋅ Tim: sự phosphoryl hóa protein kênh Ca++ ở tế bào cơ tâm thất làm tăng
lượng Ca++ vào tế bào gây tăng lực co. Đồng thời cũng phosphoryl hóa
phospholamban ở màng mạng nội bào tương gây hoạt hóa bơm Ca++, bơm
này sẽ bơm Ca++ từ bào tương vào trong mạng nội bào tương tế bào cơ tâm
thất dẫn đến giảm thời gian co cơ. Ngoài ra sự phosphoryl hóa còn xảy ra ở
các kênh protein của màng tế bào tạo nhịp làm tăng tần số khử cực và rút
ngắn thời gian của điện thế hoạt động dẫn đến tăng tần số tim.
152
⋅ Phổi: phosphoryl hóa phospholamban ở màng mạng nội bào tương tế bào
cơ trơn phế quản gây hoạt hóa bơm Ca++, bơm này sẽ bơm Ca++ từ bào
tương vào trong mạng nội bào tương dẫn đến giảm co thắt cơ trơn làm giãn
phế quản.
+ Receptor α:
⋅ Receptor α2: khi noradrenalin gắn lên receptor α2 sẽ hoạt hóa protein Gi.
Protein Gi hoạt hóa sẽ ức chế adenyl cyclase làm giảm AMPc trong tế bào.
⋅ Receptor α1: khi noradrenalin gắn lên receptor α1 sẽ hoạt hóa protein G
giống như cơ chế hoạt hóa của ACh trên receptor muscarinic ở tế bào cơ
trơn. Kết quả là tạo thành IP3 và diacylglycerol gây co các tế bào cơ trơn
thành mạch.
- Noradrenalin và adrenalin bị bất hoạt theo 3 đường:
⋅ Tái nhập trở lại cúc tận cùng của sợi hậu hạch giao cảm.
⋅ Khuếch tán vào dịch kẽ bao quanh.
⋅ Bị các enzym phân giải như enzym Catechol-O-methyltranferase (cơ chế
này không quan trọng).
3.2.3. Tác dụng của hệ thần kinh thực vật
Hệ thần kinh thực vật tác dụng thông qua các phản xạ thực vật để điều hòa hoạt
động các cơ quan.
153
Bảng 3. Tóm tắt tác dụng của hệ thần kinh thực vật lên các cơ quan
Cơ quan đáp ứng Adrenergic CholinergicReceptor Đáp ứng Đáp ứng
Mắt:
- Đồng tử
- Cơ thể mi
α
β
- Giãn (++)
- Dãn
- Co (+++)
- Co
Tim:
- Nút xoang
- Tâm nhĩ
- Nút nhĩ thất
- Bó his-Purkinje
- Tâm thất
β1
β1
β1
β1
β1
- ↑ nhịp tim
- ↑ co thắt và dẫn truyền
(++)
- ↑ tính tự động (++)
- ↑ dẫn truyền (+++)
- Tăng co thắt, vận tốc
dẫn truyền, tính tự động
(+++)
- ↓ nhịp tim (+++)
- ↓ co thắt và dẫn
truyền (++)
- ↓ dẫn truyền (+++)
- Ít ảnh hưởng
- Ít ảnh hưởng
Tiểu động mạch:
- Vành
- Da và niêm
- Cơ xương
- Não
- Phổi
- Tạng ở bụng
- Tuyến nước bọt
α, β2
α
α, β2
α
α, β2
α, β2
- Co (+), dãn (++)
- Co (+++)
- Co (++), dãn (++)
- Co ít
- Co (+), dãn
- Co (+++), dãn (+)
- Co (+++)
- Dãn (+/-)
- Dãn
- Dãn (+)
- Dãn
- Dãn
- Dãn (++)
Tĩnh mạch α, β2 Co (++), dãn (++)Phổi:
- Cơ phế quản
- Tuyến phế quản
β2 - Dãn (+)
- Ức chế
- Co (++)
- Kích thích (+++)Tuyến mũi hầu Bài tiết (++)Dạ dày:
- Co bóp, trương lực
- Cơ vòng
- Bài tiết
α2, β2
α
- Giảm (+)
- Co (+)
- Ức chế (?)
- Tăng (+++)
- Dãn (+)
- Kích thích (+++)Ruột:
154
- Co bóp, trương lực
- Cơ vòng
- Bài tiết
α2, β2
α
- Giảm (+)
- Co (+)
- Ức chế (?)
- Tăng (+++)
- Dãn (+)
- Kích thích Ống mật, túi mật Dãn (+) Co (+)Gan α, β2 - Thủy phân glucogen,
tân tạo đường (+++)
- Tổng hợp glycogen
(+)Tụy:
- Nang
- Tế bào β
α
α, β2
- Giảm bài tiết (+)
- Giảm bài tiết (+++),
tăng bài tiết (+)
- Bài tiết (++)
Vỏ lách α, β2 - Co (+++), dãn (+)Thận β2 Bài tiết ReninTủy thượng thận Tăng tiết catecholaminBàng quang:
- Cơ bàng quang
- Cơ vòng
β
α
- Dãn (+)
- Co (++)
- Co (+++)
- Dãn (++)
Niệu quản:
Cử động, trương lực α, β2 - Tăng - Tăng (?)Dương vật α Phóng tinh (+++) Cương (+++)Da:
- Cơ dựng lông
- Tuyến mồ hôi
α
α
- Co (++)
- Tiết tại chỗ (+) - Tiết chung (+++)
Tuyến nước bọt β - Bài tiết nước và K+ (+) - Bài tiết nước và K+
(+++)Tế bào mỡ α, β1 Thủy phân mỡ (+++)Cơ vân Tăng phân giải glycogenChuyển hóa cơ sở Tăng 100%Hoạt động tâm thần Tăng3.3. Dẫn truyền qua synap ở hệ thần kinh trung ương (CNS: synaptic
transmission)
Có rất nhiều hệ thống dẫn truyền qua synap ở hệ thần kinh trung ương trong đó
hệ thống dẫn truyền của các nhân nền não đóng vai trò quan trọng.
3.3.1. Giới thiệu các nhân nền não
Các nhân nền não gồm có nhân đuôi, nhân bèo sẫm, nhân cầu nhạt, chất đen và
nhân hạ đồi nằm ngoài đồi thị, sâu trong não. Hai nhân chính là nhân đuôi và nhân bèo
sẫm có các đường liên hệ với các cấu trúc khác của não rất phức tạp gọi là vòng nhân
155
bèo sẫm và vòng của nhân đuôi. Giữa hai nhân này là bao trong nơi tập hợp hầu hết
các sợi cảm giác và vận động liên hệ giữa vỏ não và tủy sống.
3.3.1.1. Vòng nhân bèo sẫm
- Cấu trúc của vòng nhân bèo sẫm:
+ Vòng nhân bèo sẫm chính: sợi thần kinh khởi đầu từ vỏ não (vùng tiền vận
động, vùng vận động bổ sung, vùng cảm giác I) đi tới nhân bèo sẫm. Sau đó đi
đến nhân cầu nhạt, kế tiếp là nhân bụng trước và nhân bụng bên của đồi thị.
Từ hai nhân này, các sợi thần kinh đi đến vùng vận động sơ cấp và một phần
của vùng tiền vận động và vùng vận động bổ sung.
+ Vòng nhân bèo sẫm phụ: 3 vòng
⋅ Từ nhân bèo sẫm tới phần ngoài nhân cầu nhạt, sau đó đến nhân hạ đồi rồi
tới nhân tiêp hợp ở đồi thị, cuối cùng trở lên vỏ não vận động.
⋅ Từ nhân bèo sẫm tới phần trong của nhân cầu nhạt, sau đó tới chất đen, tiếp
tới nhân tiếp hợp ở đồi thị và cuối cùng trở lại vỏ não vận động.
⋅ Một vòng phản hồi từ phần ngoài của nhân cầu nhạt tới nhân hạ đồi và quay
trở về phần ngoài của nhân cầu nhạt
- Chức năng của vòng của nhân bèo sẫm: giúp vỏ não trong việc thực hiện các kiểu
vận động đã được học tập và trở thành vô thức. Ví dụ như điều hòa các cử động
phức tạp: viết, dùng kéo cắt giấy, ném bóng vào rổ, phủi vết bẩn, nói… . Tổn
thương một bộ phận của vòng này dẫn đến các rối loạn về vận động như tổn
thương nhân cầu nhạt gây chứng athetose (múa vờn), tổn thương nhân bèo sẫm
gây chứng chorea (múa giật), tổn thương chất đen gây chứng liệt run (bệnh
Parkinson).
3.3.1.2. Vòng nhân đuôi
- Cấu trúc của vòng nhân đuôi: tín hiệu thần kinh từ vỏ não đến nhân đuôi, sau đó
tới phần trong của nhân cầu nhạt, rồi tới nhân bụng trước và nhân bụng bên của
đồi thị. Cuối cùng tín hiệu trở về vùng vỏ não trước trán (vùng tiền vận động,
vùng vận động bổ sung). Đặc biệt hầu như không có tín hiệu nào trở lại đi trực
tiếp vào vùng vận động sơ cấp.
156
- Chức năng của vòng nhân đuôi: lập kế hoạch cho nhiều hình thức vận động đồng
thời và kế tiếp nhau để vỏ não có thể lựa chọn và sắp xếp lại nhằm thực hiện một
mục đích nhất định. Tổn thương vòng này sẽ mất những tri thức bản năng.
3.3.2. Các chất truyền đạt thần kinh đặc hiệu của hệ thống nhân nền não
Các chất truyền đạt thần kinh kích thích là những chất gây khử cực màng sau
synap tạo điện thế kích thích sau synap (EPSP: excitatory postsynaptic potential), phần
lớn chất truyền đạt thần kinh kích thích ở thần kinh trung ương là glutamat. Trái lại,
chất truyền đạt thần kinh ức chế là những chất gây ưu phân cực màng sau synap tạo
điện thế ức chế sau synap (IPSP: inhibitory postsynaptic potential), phần lớn chất
truyền đạt thần kinh ức chế ở thần kinh trung ương là glycin và GABA. Một số chất
truyền đạt thần kinh quan trọng của các nhân nền não là:
- Dopamin: do chất đen tạo ra, tới tác dụng ở nhân đuôi và nhân bèo sẫm.
- GABA: do nhân đuôi và nhân bèo sẫm tạo ra, tới tác dụng ở nhân cầu nhạt và
chất đen. GABA và dopamin đóng vai trò là chất ức chế ở phần lớn các vùng của
não bộ. Như vậy vòng điều hoà ngược từ nhân nền trở lại vỏ não thường là vòng
điều hòa ngược dương tính góp phần làm ổn định hệ thống điều khiển vận động.
- Acetylcholin: do vỏ não tạo ra, tới tác dung ở nhân đuôi và nhân bèo sẫm.
- Norepinephrin, serotonin, enkephalin và vài chất truyền đạt thần kinh khác: do
nhiều hệ thống từ thân não tiết ra, tới tác dụng ở nhân nền não và những phần
khác của đại não.
- Glutamat: do nhiều đường thần kinh tiết ra có tác dụng kích thích để cân bằng
với phần lớn chất ức chế (đặc biệt là dopamin, GABA, serotonin).
4. CƠ CHẾ BỆNH SINH MỘT SỐ BỆNH LIÊN QUAN ĐẾN CÁC HỆ THỐNG
DẪN TRUYỀN
4.1. Dẫn truyền thần kinh-cơ: bệnh nhược cơ
- Bệnh nhược cơ là một bệnh tự miễn.
- Cơ chế bệnh sinh: cơ thể hình thành tự kháng thể kháng receptor acetylcholin ở
cơ vân. Ngoài ra cấu trúc của tấm động thần kinh cơ cũng có những thay đổi như
khoảng cách giữa màng trước và màng sau synap lớn hơn bình thường.
157
- Triệu chứng:
+ Thể nhẹ có thể gây sụp mi và liệt các cơ vận nhãn.
+ Thể nặng có thể gây liệt cơ toàn thân.
4.2. Dẫn truyền qua synap ở hệ thần kinh thực vật: ngộ độc thuốc trừ sâu nhóm
kháng men cholinesterase
- Bệnh nhân ngộ độc thuốc trừ sâu có phospho hữu cơ.
- Cơ chế bệnh sinh: men thủy phân acetylcholin là cholinesterase bị phospho hữu
cơ gắn kết làm bất hoạt. Hậu quả là tích tụ acetylcholin tại các vùng synap của hệ
cholinergic gây ra những xung động thừa liên tục.
- Triệu chứng:
+ Hội chứng Muscarinic: đồng tử co nhỏ, giảm nhịp tim, co thắt khí phế quản,
co thắt đường tiêu hóa, tăng tiết dịch.
+ Hội chứng nicotinic: run giật cơ, yếu cơ, liệt cơ.
+ Hội chứng thần kinh trung ương: nhức đầu, co giật, hôn mê.
4.3. Dẫn truyền qua synap ở hệ thần kinh trung ương
4.3.1. Bệnh Parkinson
- Bệnh Parkinson thường xảy ra ở người già.
- Cơ chế bệnh sinh:
+ Cổ điển: thoái hóa các nơron ở liềm đen, thể vân làm giảm tổng hợp dopamin
trong não.
+ Cơ chế bổ sung: có sự xuất hiện tự kháng thể kháng thần kinh trong máu bệnh
nhân (cơ chế tự miễn).
- Triệu chứng: đặc trưng là run, chủ yếu là run ở chi trên và run ngọn chi, run khi
nghỉ ngơi.
4.3.2. Bệnh Huntington
- Bệnh Huntington là bệnh có tính di truyền, bắt đầu triệu chứng vào khoảng 40-50
tuổi.
- Cơ chế bệnh sinh: đột biến gen làm mã bộ ba CAG lập đi lập lại nhiều lần, gây
mã hoá nhiều acid amin glutamin tạo những protein bất thường trong các tế bào
thần kinh. Hậu quả:
158
+ Mất các tế bào tiết GABA ở nhân đuôi và nhân bèo sẫm dẫn đến mất tác dụng
ức chế của GABA trên nhân cầu nhạt và chất đen. Hậu quả là nhân cầu nhạt và
chất đen bộc phát hoạt động gây những cử động vặn vẹo.
+ Mất các tế bào tiết acetylcholin ở nhiều phần của não, đặc biệt là vùng nghĩ
của vỏ não gây chứng mất trí nhớ.
- Triệu chứng:
+ Lúc đầu có những cử động múa giật ở những khớp đơn lẻ sau đó tiến triển tới
những cử động vặn vẹo trầm trọng của toàn cơ thể.
+ Mất trí nặng.
159