BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ … · của đất nước,...
Transcript of BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ … · của đất nước,...
BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
ĐỀ ÁN
TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ ĐỘI NGŨ
CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC NGÀNH TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
PHẦN 1. SỰ CẦN THIẾT VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ
I. Sự cần thiết
Ngành tài nguyên và môi trường là ngành đa lĩnh vực, thực hiện chức năng,
nhiệm vụ quản lý nhà nước và điều tra cơ bản gắn với nghiên cứu, phát triển
khoa học - công nghệ trên 09 lĩnh vực có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bao
gồm: đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản, địa chất; môi trường; khí
tượng thủy văn; biến đổi khí hậu; đo đạc và bản đồ; quản lý tổng hợp tài nguyên
và bảo vệ môi trường biển và hải đảo; viễn thám. Đây là những lĩnh vực có tính
chất phức tạp, nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến quyền lợi của nhân dân, doanh
nghiệp, tổ chức, có tác động lớn đến bảo đảm an ninh quốc phòng, sự phát triển
kinh tế - xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước. Cùng với sự phát triển
của đất nước, ngành tài nguyên và môi trường cũng ngày càng lớn cả về quy mô
tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và nguồn nhân lực, công tác quản lý nhà nước
về tài nguyên và môi trường đã có những chuyển biến tích cực, bước đầu đáp
ứng những nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi cơ
bản, hiện nay, công tác quản lý tài nguyên và môi trường vẫn còn không ít khó
khăn, thách thức, tồn tại, hạn chế như sau:
1.1. Về chức năng, nhiệm vụ:
Hầu hết các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ đều được
phân cấp cho chính quyền địa phương các cấp. Tuy nhiên, quá trình triển khai
thực hiện và tổng kết cho thấy việc tổ chức thực thi pháp luật về tài nguyên và
môi trường còn nhiều tồn tại hạn chế; việc phân cấp mạnh về nhiệm vụ nhưng
nguồn lực để thực hiện, nhất là nguồn nhân lực chưa bảo đảm; công tác thanh
tra, kiểm tra đã được đẩy mạnh ở các cấp nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu quản lý.
1.2. Về tổ chức bộ máy:
Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý của ngành được tổ chức ở cả 04 cấp từ
Trung ương đến cơ sở. Kể từ khi được thành lập, hệ thống tổ chức bộ máy của
ngành đã từng bước được kiện toàn, hoàn thiện nhưng thực tiễn vận hành vẫn
cho thấy còn nhiều bất cập, vướng mắc, nhất là ở địa phương.
Triển khai Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban
Chấp hành Trung ương về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
Dự thảo
2
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số
19-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp
tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp công lập, hiện nay các địa phương đang tiến hành
kiện toàn tổ chức bộ máy của ngành tài nguyên và môi trường ở địa phương
trong điều kiện chưa có hướng dẫn cụ thể của Trung ương, do vậy, tổ chức bộ
máy của ngành được kiện toàn theo các mô hình khác nhau, dẫn tới khó khăn
trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ.
1.3. Về đội ngũ công chức, viên chức:
Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong toàn ngành từ
Trung ương đến cơ sở hiện nay rất lớn - có khoảng trên 65.000 người; chưa kể
đến lực lượng lao động ngoài ngành có liên quan đang làm việc trong các khu
vực của nền kinh tế quốc dân. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao
động của Bộ, của Ngành đã được bổ sung, tăng cường đáng kể so với thời kỳ
đầu mới thành lập; đáp ứng yêu cầu trước mắt về số lượng, nâng cao về chất
lượng; từng bước được chuẩn hóa, chuyên nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Song thực tiễn cho thấy, đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về
tài nguyên môi trường vẫn còn thiếu về số lượng, chưa đáp ứng về chất lượng,
cơ cấu đội ngũ cán bộ chưa phù hợp (số cán bộ, công chức được đào tạo về kỹ
thuật nhiều hơn số cán bộ công chức được đào tạo về nghiệp vụ quản lý, kinh tế;
số cán bộ, công chức có chuyên ngành đào tạo phù hợp với vị trí công tác không
nhiều). Trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức không đồng đều, nhất là ở
địa phương; một số lĩnh vực có sự hụt hẫng về đội ngũ công chức, viên chức có
trình độ cao, chuyên môn sâu; ở địa phương, đội ngũ công chức, viên chức về tài
nguyên và môi trường, đặc biệt các lĩnh vực địa chất khoáng sản, tài nguyên
nước, khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu đang thiếu về số lượng, yếu về
chất lượng, cơ cấu đội ngũ chưa hợp lý; hiện nay đang tập trung nhiều ở lĩnh
vực quản lý đất đai, trong khi đó cán bộ về môi trường, địa chất khoáng sản, tài
nguyên nước, quản lý biển, hải đảo, biến đổi khí hậu, khí tượng thủy văn còn rất
thiếu. Khối lượng nhiệm vụ hiện nay tại địa phương chủ yếu vẫn giải quyết các
vấn đề về quản lý đất đai; các vấn đề khác, nhất là về quản lý môi trường, tài
nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, biển, hải đảo ngày càng trở nên cấp thiết.
Ngoài ra, phần lớn số công chức, viên chức được đào tạo về các chuyên ngành
kỹ thuật, thiếu kỹ năng quản lý. Số công chức, viên chức, chuyên gia được đào
tạo trình độ cao ở các nước tiên tiến trên thế giới trước đây đã nghỉ hưu hoặc
chuẩn bị nghỉ hưu nhưng chưa có đủ đội ngũ chuẩn bị thay thế. Đa số các địa
phương đang đứng trước tình trạng khan hiếm nhân lực có trình độ cao về
chuyên môn nghiệp vụ. Trong bối cảnh khối lượng công việc của Bộ, ngành
ngày càng lớn, tăng nhiều nhiệm vụ so với trước đây; lại phải thực hiện chủ
trương tinh giản biên chế đã tạo áp lực và là thách thức lớn cho toàn Ngành.
Thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17 tháng 4 năm 2017 của Ban
Chấp hành Trung ương về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban
3
Chấp hành Trung ương về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số
19-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp
tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19
tháng 5 năm 2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược,
đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; để có đẩy đủ cơ sở đề
xuất thực hiện đồng bộ việc phân công, phân cấp thực hiện nhiệm vụ quản lý
nhà nước về tài nguyên và môi trường đi đôi với kiện toàn hệ thống tổ chức và
sắp xếp, bố trí đội ngũ cán bộ công chức của Ngành, đáp ứng yêu cầu quản lý
cũng như mục tiêu, yêu cầu của các nghị quyết nêu trên; Bộ Tài nguyên và Môi
trường đề xuất Thủ tướng Chính phủ xây dựng Đề án tăng cường năng lực hệ
thống tổ chức và đội ngũ công chức, viên chức ngành tài nguyên và môi
trường đến năm 2030. Đề án mang ý nghĩa, vai trò quan trọng trong sự phát
triển của ngành tài nguyên và môi trường.
II. Cơ sở pháp lý
1. Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17 tháng 4 năm 2017 của Ban Chấp
hành Trung ương về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức;
2. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp
hành Trung ương về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
3. Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp
hành Trung ương về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập;
4. Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2014 của Chính phủ ban
hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-
NQ/TW Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo;
5. Luật cán bộ, công chức năm 2008 (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm
2010);
6. Luật viên chức năm 2010 (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2012);
7. Luật tổ chức chính phủ năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm
2016);
8. Nghị định số 125/2011/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2011 của Chính
phủ quy định về trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân;
9. Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ
về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức;
4
10. Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2010 của Chính
phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức;
11. Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2014 của Chính
phủ về chính sách tinh giản biên chế;
12. Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25 tháng 01 năm 2016 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức
giai đoạn 2016-2025;
13. Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2017 của Chính
phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức;
14. Nghị định số 161/2018/NĐ-CP ngày 29 tháng 11 năm 2018 của Chính
phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số quy định về tuyển dụng công chức, viên
chức, nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức và thực hiện chế độ hợp
đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự
nghiệp công lập
15. Thông tư số 03/2019/TT-BNV ngày 14 tháng 5 năm 2019 của Bộ Nội
vụ về việc sửa đổi, bổ sung một số quy định về tuyển dụng công chức, viên
chức, nâng ngạch ngạch công chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên
chức và thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành
chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập.
16. Quyết định số 2476/QĐ-BTNMT ngày 30 tháng 12 năm 2011 của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực
ngành tài nguyên và môi trường giai đoạn 2012-2020;
17. Quyết định số 2979/QĐ-BTNMT ngày 23 tháng 11 năm 2017 của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển
nhân lực ngành tài nguyên và môi trường đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
PHẦN 2. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG TỔ CHỨC, ĐỘI NGŨ CÔNG
CHỨC, VIÊN CHỨC NGÀNH TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG TỪ
TRUNG ƯƠNG ĐẾN ĐỊA PHƯƠNG
I. Thực trạng hệ thống tổ chức
1.1. Ở Trung ương
Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập theo Nghị quyết số
02/2002/QH11 ngày 05/8/2002 của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ nhất, trên cơ sở hợp nhất Tổng cục Địa chính,
Tổng cục Khí tượng Thủy văn và các tổ chức thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về tài nguyên nước, địa chất, khoáng sản, môi trường thuộc các Bộ: Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn; Công nghiệp; Khoa học, Công nghệ và Môi
trường.
Trong nhiệm kỳ Chính phủ khóa XI, theo quy định tại Nghị định số
91/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
5
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài nguyên
và Môi trường thực hiện chức năng quản lý nhà nước 06 lĩnh vực, gồm có: đất
đai; tài nguyên nước; địa chất, khoáng sản; môi trường; khí tượng thuỷ văn; đo
đạc và bản đồ; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của Bộ. Đến nhiệm kỳ Chính phủ khóa XII, theo quy định tại Nghị định số
25/2008/NĐ-CP ngày 04/3/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường (thay thế Nghị
định số 91/2002/NĐ-CP), Bộ Tài nguyên và Môi trường đã được bổ sung thêm
chức năng, nhiệm vụ về định giá đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất, quản lý lưu vực sông, biến đổi khí hậu, quản lý tổng hợp
và thống nhất về biển và hải đảo.
Ngày 04/3/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 21/2013/NĐ-CP quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và
Môi trường. Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện chức năng, nhiệm
vụ quản lý nhà nước trên 08 lĩnh vực, bao gồm: đất đai; tài nguyên nước; tài
nguyên khoáng sản, địa chất; môi trường; khí tượng thủy văn; biến đổi khí hậu;
đo đạc và bản đồ; quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo. Cơ cấu tổ
chức của Bộ bao gồm 18 tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý
nhà nước: 7 vụ, 4 tổng cục, 5 cục, Thanh tra Bộ, Văn phòng Bộ; 12 đơn vị sự
nghiệp trực thuộc Bộ: 3 trung tâm, 4 viện, 3 trường (trong đó có 02 trường đại
học, 01 trường cao đẳng), Báo Tài nguyên và Môi trường, Tạp chí Tài nguyên
và Môi trường. Ngoài các đơn vị nêu trên, Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý
hoạt động của 03 văn phòng các ban chỉ đạo liên ngành do Thủ tướng Chính phủ
thành lập; 03 doanh nghiệp TNHH một thành viên 100% vốn nhà nước và Quỹ
Bảo vệ môi trường Việt Nam.
Để tiếp tục khắc phục những tồn tại và đáp ứng yêu cầu trong tình hình
mới. Ngày 04/4/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 36/2017/NĐ-CP quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và
Môi trường. Theo đó Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện chức năng, nhiệm
vụ quản lý nhà nước trên 09 lĩnh vực, bao gồm: đất đai; tài nguyên nước; tài
nguyên khoáng sản, địa chất; môi trường; khí tượng thủy văn; biến đổi khí hậu;
đo đạc và bản đồ; quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải
đảo; viễn thám. Cơ cấu tổ chức của Bộ đã được kiện toàn, tổ chức lại1. Theo đó,
1 Sáp nhập Vụ Kế hoạch và Vụ Tài chính thành Vụ Kế hoạch - Tài chính; Thành lập Tổng cục Khí tượng
Thủy văn trên cơ sở tổ chức lại, chuyển đổi mô hình hoạt động của Trung tâm Khí tượng Thủy văn quốc gia và
tiếp nhận bộ phận quản lý nhà nước về khí tượng thủy văn tại Cục Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu;
Thành lập Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tài nguyên và môi trường trực thuộc Bộ trên cơ sở sáp nhập và tổ
chức lại bộ phận thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại Trường Đại học Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội, Tổng cục Môi trường, Tổng cục Quản lý đất đai, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Trung
tâm Khí tượng Thủy văn quốc gia, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu; Thành lập Trung
tâm truyền thông tài nguyên và môi trường trực thuộc Bộ trên cơ sở sáp nhập và tổ chức lại bộ phận thực hiện
công tác truyền thông tại các Tổng cục Môi trường, Tổng cục Quản lý đất đai, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt
Nam; Sáp nhập Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung vào Trường Đại học Tài nguyên và
Môi trường Hà Nội và trở thành Phân hiệu Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội; Thành lập Viện
Khoa học tài nguyên nước trực thuộc Bộ.
6
hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường có 30 tổ chức, gồm: 6 vụ, 5 tổng cục, 5
cục, Thanh tra Bộ, Văn phòng Bộ; 12 đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ: 3 trung
tâm, 5 viện, 2 trường đại học, Báo Tài nguyên và Môi trường, Tạp chí Tài
nguyên và Môi trường. Bên cạnh đó, Bộ quản lý 03 doanh nghiệp và Quỹ Bảo
vệ môi trường Việt Nam; 03 Văn phòng (Văn phòng Hội đồng đánh giá trữ
lượng khoáng sản quốc gia, Văn phòng Thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt
Nam, Văn phòng Đảng - Đoàn thể).
1.2. Ở địa phương
1.2.1. Sở Tài nguyên và Môi trường
Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV, cơ
cấu tổ chức của các Sở Tài nguyên và Môi trường được quy định cụ thể, thống
nhất như sau:
- Các tổ chức tham mưu tổng hợp và chuyên môn, nghiệp vụ: Văn phòng,
Thanh tra, Phòng Kế hoạch - Tài chính, Phòng Đo đạc, Bản đồ và Viễn thám,
Phòng Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, Phòng Khoáng sản, Phòng Tài
nguyên nước, Chi cục Bảo vệ môi trường, Chi cục Quản lý đất đai, Chi cục Biển
và Hải đảo (được thành lập đối với các tỉnh, thành phố có biển).
- Các đơn vị sự nghiệp công lập: Trung tâm Công nghệ thông tin tài
nguyên và môi trường, Trung tâm phát triển quỹ đất, Trung tâm Quan trắc tài
nguyên và môi trường, Văn phòng đăng ký đất đai, Trung tâm Kỹ thuật tài
nguyên và môi trường.
Đến nay, có 62/632 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã kiện toàn tổ
chức bộ máy của Sở Tài nguyên và Môi trường theo hướng dẫn tại Thông tư liên
tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV ngày 28/8/2014, cụ thể như sau:
- Các tổ chức hành chính:
+ Văn phòng Sở và Thanh tra Sở: được tổ chức tại 63/63 Sở Tài nguyên và
Môi trường;
+ Phòng Kế hoạch - Tài chính: được tổ chức tại 42/63 Sở Tài nguyên và
Môi trường. Đối với các tỉnh còn lại, chức năng, nhiệm vụ về kế hoạch - tài
chính được giao cho Văn phòng Sở;
+ Phòng Đo đạc, bản đồ và viễn thám (hoặc Phòng Đo đạc và bản đồ):
được tổ chức tại 37/63 Sở Tài nguyên và Môi trường. Đối với các tỉnh còn lại,
được ghép vào các phòng khác (Ph òng Đo đạc - Quy hoạch; Phòng Thống kê
đất đai, Đo đạc, bản đồ và Viễn thám; Phòng Đo đạc, Bản đồ - Khí tượng thủy
văn, biến đổi khí hậu;...) hoặc được ghép vào Chi cục Quản lý đất đai, Phòng
Quản lý đất đai.
+ Phòng Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu: được tổ chức tại 17/63
Sở Tài nguyên và Môi trường. Đối với các tỉnh còn lại, được ghép với các phòng
2 Sở TN&MT Thanh Hóa chưa thực hiện kiện toàn;
7
khác (Phòng Tài nguyên nước, khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu) hoặc
được ghép với Chi cục Bảo vệ môi trường.
+ Phòng Khoáng sản (Phòng Tài nguyên khoáng sản): được tổ chức tại
30/63 Sở Tài nguyên và Môi trường. Đối với các tỉnh còn lại, được ghép với các
phòng khác (Phòng Tài nguyên nước - Khoáng sản).
+ Phòng Tài nguyên nước: được tổ chức tại 16/63 Sở Tài nguyên và Môi
trường. Đối với các tỉnh còn lại, được ghép với các phòng khác (Phòng Tài
nguyên nước - Khoáng sản; Phòng Tài nguyên nước, khí tượng thủy văn và biến
đổi khí hậu).
+ Chi cục Bảo vệ môi trường: được tổ chức tại 58/63 Sở Tài nguyên và
Môi trường. Các tỉnh còn lại chỉ thành lập Phòng Quản lý môi trường.
+ Chi cục Quản lý đất đai: được tổ chức tại 37/63 Sở Tài nguyên và Môi
trường. Các tỉnh còn lại, được tổ chức thành 01 phòng (Phòng Quản lý đất đai)
hoặc từ 2 - 3 phòng (Phòng Quy hoạch, kế hoạch đất đai; Phòng Quy hoạch - Kế
hoạch; Phòng Đo đạc và Đăng ký đất đai; Phòng Giá đất - Bồi thường, tái định
cư; Phòng Giá đất;...).
+ Chi cục Biển và Hải đảo (hoặc tên gọi khác): được tổ chức tại 22/28 Sở
Tài nguyên và Môi trường các tỉnh có biển. Các tỉnh còn lại, được tổ chức theo
mô hình phòng.
- Các đơn vị sự nghiệp:
+ Trung tâm Công nghệ thông tin tài nguyên và môi trường: được tổ chức
tại 47/63 Sở Tài nguyên và Môi trường. Các tỉnh còn lại, được ghép vào Trung
tâm Kỹ thuật tài nguyên và môi trường, ghép vào Văn phòng Đăng ký đất đai
hoặc đã giải thể.
+ Trung tâm Kỹ thuật tài nguyên và môi trường (hoặc tên gọi khác): được
tổ chức tại 38/63 Sở Tài nguyên và Môi trường. Các tỉnh còn lại, không thành
lập hoặc được ghép vào các đơn vị khác (Trung tâm Công nghệ thông tin tài
nguyên và Môi trường, Trung tâm Quản trắc tài nguyên và môi trường, Văn
phòng đăng ký đất đai).
+ Trung tâm Quan trắc tài nguyên và môi trường: được tổ chức tại 51/63
Sở Tài nguyên và Môi trường. Các tỉnh còn lại, không thành lập hoặc được ghép
vào các đơn vị khác (Trung tâm Kỹ thuật tài nguyên và môi trường).
+ Văn phòng Đăng ký đất đai: Đến nay, đã có 57/63 tỉnh, thành phố đã
thành lập Văn phòng đăng ký đất đai theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số
15/2015/TTLT-BTNMT-BNV-BTC và đi vào hoạt động, các tỉnh đã xây dựng
Đề án và đang trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
+ Trung tâm Phát triển quỹ đất:
Có 13 địa phương Trung tâm Phát triển quỹ đất đã được quyết định và hoạt
động với mô hình một cấp theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 43/2014/NĐ-
CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ; Có 17 địa phương có Trung tâm
8
Phát triển quỹ đất đang hoạt động theo mô hình hai cấp; Có 06 địa phương chỉ
có một Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi
trường.
03 địa phương thực hiện mô hình kết hợp: Trung tâm Phát triển quỹ Nhà và
Đất tỉnh Bạc Liêu; Ban Bồi thường Giải phóng mặt bằng và Phát triển quỹ đất
tỉnh Vĩnh Phúc, Văn phòng Đăng ký đất đai và Phát triển quỹ đất tỉnh Yên Bái.
Thành phố Hồ Chí Minh thành lập Trung tâm Phát triển quỹ đất trực thuộc
sở Tài nguyên và Môi trường và 24 Ban bồi thường giải phóng mặt bằng trực
thuộc Ủy ban nhân dân các quận, huyện.
Tỉnh Cao Bằng không có Trung tâm Phát triển quỹ đất cấp tỉnh mà có 03
Trung tâm Phát triển quỹ đất cấp huyện.
Riêng tỉnh Hà Giang không thành lập Trung tâm Phát triển quỹ đất.
1.2.2. Phòng Tài nguyên và Môi trường
Đã có 710/713 (trừ các huyện đảo: Bạch Long Vĩ, Hoàng Sa, Trường Sa)
đơn vị hành chính cấp huyện thành lập Phòng Tài nguyên và Môi trường.
1.2.3. Công chức tài nguyên và môi trường cấp xã
Cả nước hiện có 11.112 đơn vị hành chính cấp xã. Theo báo cáo đến nay
100% số xã có cán bộ chuyên trách quản lý tài nguyên và môi trường. Thông
thường mỗi xã có 01 cán bộ chuyên trách, tuy nhiên ở một số xã khu vực đô thị
hóa và cấp phường, thị trấn có từ 02 đến 03 cán bộ. Đặc biệt ở một số xã,
phường, thị thấn đã thành lập Ban Địa chính - Xây dựng.
Theo Thông tư liên tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV, Sở Tài nguyên và
Môi trường có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ quản lý nhà
nước về lĩnh vực tài nguyên và môi trường đối với công chức chuyên môn giúp
Ủy ban nhân dân cấp.
II. Thực trạng việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về
tài nguyên và môi trường ở Trung ương và địa phương
2.1. Ở Trung ương
Theo quy định tại Nghị định số 36/2017/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2017
của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường có chức năng, quản lý nhà nước
trên 9 lĩnh vực: đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản, địa chất; môi
trường; khí tượng thuỷ văn; biến đổi khí hậu; đo đạc và bản đồ; quản lý tổng
hợp và thống nhất về biển và hải đảo; viễn thám.
Việc Chính phủ bổ sung thêm chức năng quản lý nhà nước về viễn thám đã
bao quát hết các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, thể hiện rõ vị trí, chức năng của một Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ được quy định tại Nghị định số 36/2017/NĐ-CP
đã được rà soát, sửa đổi, bãi bỏ các nhiệm vụ, quyền hạn không còn phù hợp;
bổ sung các nhiệm vụ mới được phân công, còn thiếu hoặc chưa được quy định
9
cho phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật liên quan; phân định rõ hơn
một số nhiệm vụ còn chồng chéo với các Bộ, ngành khác.
Tuy nhiên, bản chất của vấn đề tài nguyên và môi trường có tính chất liên
vùng, liên ngành; nhiều vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn và nhiệm vụ quản lý
tài nguyên và môi trường được quy định ở nhiều đạo luật và văn bản quy phạm
pháp luật chuyên ngành khác nhau. Tuy về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tài
nguyên và Môi trường được quy định tại Nghị định số 36/2017/NĐ-CP cơ bản
không có sự trùng lắp, chồng chéo với bộ, ngành khác nhưng pháp luật chuyên
ngành về bảo vệ môi trường, đầu tư, xây dựng, đa dạng sinh học, quản lý chất
thải rắn, quản lý hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, tài nguyên nước, thủy lợi, bảo
vệ và phát triển rừng… còn có các nội dung quy định giao thoa về trách nhiệm
quản lý giữa các cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa Bộ
Tài nguyên và Môi trường với các bộ, ngành liên quan và các địa phương còn
chưa đi vào thực chất, hiệu quả; việc thiếu cơ chế điều tiết liên vùng dẫn đến sự
chồng chéo trong quy hoạch, không khai thác được các tiềm năng thế mạnh của
mỗi địa phương cho sự phát triển chung của vùng; công tác thanh tra, kiểm tra
về tài nguyên và môi trường của các cơ quan Trung ương còn có sự chồng chéo,
chưa bám sát địa bàn.
2.2. Ở địa phương
Trên cơ sở báo cáo của các địa phương, cho thấy các cơ quan chuyên môn
về tài nguyên và môi trường các cấp đã thực hiện tốt chức năng tham mưu, giúp
Ủy ban nhân dân các cấp quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường; hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới
đồng bộ, phù hợp bảo đảm thực thi có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ quản lý
nhà nước của ngành tài nguyên và môi trường tại địa phương; chức năng, nhiệm
vụ của các cơ quan chuyên môn về tài nguyên và môi trường cơ bản được phân
định rõ với các ngành khác tại địa phương; công tác kiểm tra, thanh tra được
thực hiện thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm, kịp thời phát hiện và xử lý
những sai phạm trong quản lý, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn những tồn tại và hạn chế, kết quả cụ thể
như sau:
2.2.1. Về lĩnh vực đất đai:
Các hoạt động đã được thực hiện theo quy trình chặt chẽ, công khai, minh
bạch, rõ ràng về cơ chế đấu giá quyền sử dụng đất, về quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất, về đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; công tác
đấu giá quyền sử dụng đất trong những năm qua được tổ chức rất tốt, đem lại
nguồn thu lớn cho ngân sách địa phương; công tác kiểm tra, thanh tra được thực
hiện thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm, kịp thời phát hiện và xử lý những
sai phạm trong quản lý và sử dụng đất đai. Nhiều địa phương đã thực hiện tốt
công tác quản lý nhà nước về đất đai, từng bước giải quyết dứt điểm tranh chấp,
kiện tụng kéo dài về đất đai.
Tuy nhiên, tính pháp lý về đất đai rất phức tạp, có trường hợp phải tổ chức
xác định thực tế qua nhiều gian đoạn quản lý, sử dụng mới có cơ sở xem xét bồi
10
thường, hỗ trợ, dẫn đến việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ thường chậm tiến độ.
Công tác quản lý đất đai, quản lý quy hoạch, xây dựng trước đây có một số nơi
còn rất nhiều hạn chế, bất cập, tình trạng sử dụng đất sai mục đích diễn ra ở
nhiều nơi; xây dựng không phép; lấn, chiếm đất đai xảy ra phổ biến. Chi phí hỗ
trợ để di dời các trường hợp này thường thấp. Do đó, gây khó khăn cho công tác
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và thiệt hại cho ngân sách Nhà nước.
Việc định giá đất cụ thể để bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có nơi
chưa phản ánh đúng thực tế thị trường, do người dân chuyển nhượng quyền sử
dụng đất thường không kê khai đúng giá trị thực chuyển nhượng nhằm giảm
thực hiện nghĩa vụ tài chính phải nộp. Do đó, việc giá đất cụ thể căn cứ hồ sơ
pháp lý chuyển nhượng của người dân, nên một số dự án thấp so với thị trường,
nhiều khó khăn cho công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, vì người bị thu
hồi đất luôn luôn muốn được bồi thường giá cao, dẫn đến khiếu kiện, làm chậm
tiến độ cho công tác giải phóng mặt bằng. Các văn bản hướng dẫn chưa ban
hành biểu mẫu chung, nên quá trình thực hiện tại các địa phương còn lúng túng,
thiếu tính đồng bộ làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện thu hồi đất, bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư.
Một số dự án triển khai bồi thường, hỗ trợ, tái định cư kéo dài gây khó
khăn trong việc ổn định đời sống, việc làm của người dân trong khu vực thực
hiện dự án. Trong khi đó, chính sách pháp luật của Nhà nước thường xuyên
được điều chỉnh, bổ sung, sau có lợi hơn trước, dẫn đến thắc mắc, so sánh giữa
các đối tượng bị thu hồi đất trong cùng một dự án, đây là nguyên nhân dẫn đến
khiếu kiện, tố cáo gay gắt của người bị thu hồi đất; một số dự án, chủ đầu tư
không đảm bảo kinh phí để thực hiện nên dẫn tới kéo dài. Đối với ngành nghề tư
vấn bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa có quy định, do đó, rất khó khăn trong
việc kiểm tra điều kiện hoạt động của các đơn vị. Công tác cập nhật, chỉnh lý
biến động đất đai còn gặp nhiều khó khăn do các quyết định thu hồi, chuyển
mục đích sử dụng đất trước đây ở cấp huyện không có sơ đồ, vị trí, số thửa…;
một số hồ sơ địa chính gốc bị thất lạc ảnh hưởng đến thời gian giải quyết thủ tục
hành chính.
2.2.2. Về tài nguyên nước:
Các văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước đã tiếp tục được hoàn
thiện, tạo hành lang pháp lý trong công tác quản lý tài nguyên nước tại địa
phương ngày càng có hiệu quả; công tác phổ biến, hướng dẫn các cơ quan quản
lý nhà nước ở địa phương và các tổ chức, cá nhân trong việc khai thác, sử dụng
tài nguyên nước từng bước được tăng cường; một số địa phương đã xây dựng
quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước để triển khai thực hiện
trên địa bàn; thường xuyên thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật
và sử dụng tài nguyên nước, xử lý kịp thời tình những vi phạm pháp luật về tài
nguyên nước.
2.2.3. Về địa chất và khoáng sản:
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung hoặc xây
dựng mới bảo đảm đồng bộ, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã
11
hội chủ nghĩa đã giúp công tác quản lý nhà nước về khoáng sản ở địa phương
cũng như Trung ương đạt hiệu quả cao, thúc đẩy ngành công nghiệp khai thác,
chế biến khoáng sản phát triển gắn liền với việc sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên, đảm bảo sự bền vững môi trường sinh thái; công tác thanh tra, kiểm tra
được tiến hành thường xuyên, kịp thời chấn chỉnh các hoạt động khoáng sản
không phù hợp với quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, nguồn ngân sách của địa phương còn hạn hẹp nên chưa thực
hiện các dự án, quy hoạch liên quan đến lĩnh vực tài nguyên nước, khoáng sản.
Văn bản hướng dẫn của Trung ương ban hành chậm hoặc chưa được bàn hành,
nên chưa có cơ sở để thực hiện những nhiệm vụ nêu trên. Thực tế tại một số tỉnh
nhiệm vụ lập quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản do ngành công
thương và ngành xây dựng thực hiện; việc xây dựng giá tính thuế tài nguyên
khoáng sản tại câp tỉnh do Sở Tài chính chủ trì tham mưu thực hiện.
2.2.4. Về môi trường:
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ngày càng hoàn
thiện, quy định cụ thể, chi tiết đối với từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa bàn,
khu vực; các địa phương đã chủ động phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường
triển khai các biện pháp xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiêm môi trường nghiêm
trọng, đẩy nhanh công tác xử lý triệt để, khắc phục ô nhiễm và giảm thiểu suy
thoái môi trường đối với các tổ chức thuộc khu vực công ích và triển khai thực
hiện dự án bảo vệ môi trường làng nghề và Chương trình điều tra đánh giá mức
độ ô nhiễm xuyên biên giới đối với các hệ thống sông Hồng, sông Mê Công.
2.2.5. Về khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu:
Đã có sự tích cực phối hợp, tham gia với cơ quan khí tượng thủy văn của
trung ương đóng tại địa phương xây dựng phương án phòng, chống, khắc phục
hậu quả thiên tai tại địa phương; triển khai các nhiệm vụ về biến đổi khí hậu
theo chương trình mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu; hướng dẫn cho các
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh thực hiện cơ chế phát triển sạch (CDM); tuyên
truyền về động đất, sóng thần.
Tuy nhiên, hiện nay mạng lưới các trạm quan trắc khí tượng tại tỉnh còn
thiếu hoặc đã xuống cấp gây khó khăn cho công tác dự báo. Bên cạnh đó, các
hiện tượng lốc xoáy, dông, sét thường xuất hiện trong phạm vi hẹp và xảy ra rất
nhanh gây thiệt hại đến tính mạng và tài sản của nhân dân, nhưng các loại hình
thiên tai này lại khó dự báo trước nên công tác phòng, chống còn bị động, hiệu
quả thấp; tình hình sạt lở diễn biến ngày càng phức tạp.
Tổ chức bộ máy đa phần là kiêm nhiệm, nguồn lực làm công tác này còn
thiếu và chưa được đào tạo bài bản dẫn đến công tác tham mưu hỗ trợ chỉ đạo
điều hành đôi lúc chưa đạt hiệu quả cao. Trang thiết bị phục vụ công tac phòng
chống thiên tai chủ yếu là thiết bị văn phòng, chưa được trang bị đồng bộ thiết bị
chuyên dụng, hiện đại để theo dõi, tiếp nhận, phân tích, tổng hợp, truyền tin
phục vụ tham mưu chỉ đạo, điều hành.
2.2.6. Về đo đạc và bản đồ:
12
Đã thực hiện tốt các nhiệm vụ: thẩm định hồ sơ cấp phép; tổ chức thực
hiện việc xây dựng, cập nhật, khai thác hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đo đạc
và bản đồ tại địa phương. Các nhiệm vụ khác như công tác kiểm tra, nghiệm
thu sản phẩm đo đạc bản đồ, thanh tra, kiểm tra các hoạt động đo đạc bản đồ
phần lớn các Sở Tài nguyên và Môi trường chưa triển khai trên thực tế.
Tuy nhiên, hiện nay do biên chế ít nên chủ yếu mới tập trung thực hiện
được công tác đo đạc, đăng ký thống kê; nội dung về viễn thám gần như chưa tổ
chức triển khai được (do thiếu nhân lực, điều kiện cơ sở vật chất, tài chính).
Chức năng quản lý hoạt động đo đạc bản đồ chủ yếu mới được thực hiện trong
phạm vi về đo đạc trong lĩnh vực đất đai, đối với các lĩnh vực khác thì chức
năng quản lý còn bị trùng lặp giữa các ngành, chưa có quy định cụ thể do đó
việc theo dõi các hoạt động đo đạc và xuất bản bản đồ còn gặp nhiều khó khăn,
hạn chế. Do kinh phí đầu tư cho công tác đo đạc và bản đồ của địa phương còn
hạn chế nên việc xây dựng, cập nhật, khai thác hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật
đo đạc và bản đồ còn hạn chế. Nhu cầu sử dụng dữ liệu viễn thám của địa
phương không nhiều nên việc theo dõi, quản lý hoạt động này chưa được quan
tâm, hoạt động chưa hiệu quả.
2.2.7. Quản lý tổng hợp thống nhất về biển và hải đảo:
Mặc dù nhiệm vụ quản lý tổng hợp thống nhất về biển và hải đảo, công tác
quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đối với lĩnh vực biển, hải đảo đã bắt
đầu được triển khai nhanh chóng trên phạm vi 28 tỉnh ven biển; công tác kiểm
tra việc thi hành pháp luật về lĩnh vực biển, đảo đã được thực hiện nhằm xử lý
những sai phạm trong quản lý và sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường biển;
công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về biển và hải đảo tại các tỉnh ven
biển đã được đẩy mạnh.
Nhiệm vụ quản lý tổng hợp thống nhất các vấn đề về biển và hải đảo là
nhiệm vụ mới, phạm vi rộng liên quan nhiều sở, ngành, đơn vị, các huyện ven
biển. Tuy nhiên, cơ chế, chính sách, công cụ quản lý lĩnh vực này còn rất hạn
chế, các văn bản pháp lý còn nhiều điểm chung chung, chưa cụ thể, nên rất khó
khăn cho công tác quản lý tổng hợp thống nhất biển và hải đảo tại địa phương.
Nhận thức về biển, đảo ở các ngành, các cấp và cộng đồng dân cư còn nhiều hạn
chế. Công tác tuyên truyền về biển đảo còn mang tính đơn lẻ, tính đồng bộ và
thống nhất chưa cao.
Cơ chế quản lý tài nguyên, đặc biệt tài nguyên biển và hải đảo còn theo cơ
chế ngành, còn nhiều lĩnh vực chưa tập trung được về đầu mối; các khái niệm,
công cụ quản lý tổng hợp còn thiếu, chính vì thế trong công tác quản lý theo
phương thức tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đã qua gặp
nhiều khó khăn. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan trong
trao đổi thông tin, dữ liệu về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; cơ sở vật
chất, trang thiết bị, tài chính công phục vụ quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ
môi trường biển và hải đảo còn hạn hẹp, chưa được bố trí đầy đủ và hợp lý.
Quản lý tổng hợp về biển và hải đảo rộng, liên quan đến nhiều sở, ngành,
mang tính kỹ thuật sâu, đặc biệt trong công tác điều tra cơ bản tài nguyên, môi
13
trường biển và hải đảo, để làm cơ sở tham mưu hoạch định các cơ chế chính
sách, công cụ quản lý, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường biển. Trong khi đó
đội ngũ công chức ít được bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn sâu, dẫn đến rất
khó khăn trong công tác tham mưu thực hiện nhiệm vụ.
2.3. Kết quả thực hiện phân cấp trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước về tài nguyên và môi trường giữa Trung ương và địa phương
Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính
quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhiều nội dung phân cấp trong
thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường đã được thể
chế hóa vào các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành và các Nghị định
của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
từng Bộ, cơ quan ngang Bộ; Nghị định quy định tổ chức các cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Nghị định
quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Theo đó, việc phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương
đối với các lĩnh vực thuộc ngành tài nguyên và môi trường như sau:
2.3.1. Lĩnh vực đất đai:
Việc phân cấp quản lý nhà nước về đất đai hiện nay đảm bảo được sự quản
lý thống nhất của Chính phủ; phát huy được tính chủ động, trách nhiệm, tinh
thần sáng tạo của chính quyền địa phương; đã gắn cụ thể thẩm quyền, trách
nhiệm và chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp với điều kiện thực tiễn của địa
phương; đã phân định rõ nhiệm vụ quản lý nhà nước của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ, ngành và chính quyền các cấp; bảo đảm cho công tác quản lý đất
đai được chủ động, công khai, minh bạch và dân chủ hơn.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu để cơ quan có thẩm quyền quy
định phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh toàn bộ thẩm quyền về: xây dựng
một số chính sách, ban hành các quyết định hành chính về tổ chức thực thi chính
sách pháp luật đất đai tại địa phương, thanh tra, kiểm tra đã được phân cấp, phân
quyền cho địa phương như: ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm
quyền của địa phương; giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất; thu hồi đất; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; cấp giấy chứng nhận;
quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại địa phương; quyết định thanh tra,
kiểm tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật đất đai.
Qua đó, các địa phương đã chủ động hơn trong trong vấn đề quản lý, sử dụng đất
đai, quản lý tốt công tác quy hoạch sử dụng đất và kế hoạch sử dụng đất hằng
năm; chủ động thu hút, kêu gọi đầu tư. Tuy nhiên, việc phân cấp quản lý nhà
nước về đất đai vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn chế như sau:
Việc ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật đất đai theo phân
công trách nhiệm của Quốc hội, Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường của các địa phương còn chưa kịp thời, phần lớn ban hành chậm nhiều
tháng so với thời điểm Luật đất đai năm 2013 có hiệu lực (ngày 01 tháng 7 năm
14
2014); còn nhiều nội dung đến thời điểm kiểm tra vẫn chưa được quy định (tỉnh
ít nhất có 4 nội dung, tỉnh nhiều nhất có 13 nội dung chưa quy định); có nhiều
nội dung quy định chưa cụ thể theo yêu cầu hoặc quy định chưa phù hợp thực tế
hoặc chưa đúng với pháp luật đất đai hiện hành và còn tình trạng ban hành nhiều
nội dung, văn bản quy định vượt, không đúng thẩm quyền (không được Luật,
các Nghị định và Thông tư phân cấp).
Việc phân cấp chưa thực sự phù hợp với tình hình quản lý ở một số địa
phương, đặc biệt là chưa tương xứng với năng lực của chính quyền cấp dưới dẫn
đến việc thực thi pháp luật ở địa phương chưa tốt, có nhiều quyết định về đất đai
không phù hợp pháp luật cả ở cấp tỉnh và cấp huyện. Đặc biệt, việc phân cấp
hoàn toàn cho chính quyền địa phương thực hiện các thẩm quyền về thu hồi đất,
giao đất, cho thuê, định giá đất trong khi chế tài xử lý theo quy định của pháp
luật chưa nghiêm, chưa có tính răn đe, một số nơi năng lực, trình độ cán bộ chưa
đáp ứng yêu cầu cũng đã dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật; thực hiện thu
hồi, giao, cho thuê đất tràn lan, gây lãng phí; có trường hợp chưa kiểm soát chặt
chẽ khi giao đất, cho thuê đất tại các khu vực nhạy cảm về an ninh, quốc phòng.
Việc phân cấp không đồng bộ trong việc thực hiện các nội dung quản lý
nhà nước về đất đai sẽ gây phức tạp và khó khăn trong tổ chức thực hiện. Ví dụ:
Luật đất đai quy định cho phép Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền cho Ủy ban
nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm
quyền giao đất, cho thuê đất; tuy nhiên, việc quyết định giá đất cụ thể để bồi
thường, để tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất lại quy định do Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh quy định. Do đó, sẽ rất khó khăn để quyết định giá đất cùng thời
điểm thu hồi, giao đất, cho thuê đất.
Trách nhiệm tham mưu trong việc thực hiện các nội dung quản lý nhà nước
chưa thống nhất, đồng bộ đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý.
Ví dụ: Đối với công tác xác định giá đất, cơ quan tài chính tham mưu trong việc
xác định giá đất đối với trường hợp đất gắn với tài sản của Nhà nước; cơ quan
tài nguyên và môi trường tham mưu xác định giá đất cho các trường hợp còn lại.
Như vậy, đối với nội dung quản lý việc xác định giá đất cụ thể có 02 cơ quan
tham mưu khác nhau.
Việc phân cấp chưa đi đôi với việc nâng cao chất lượng quy hoạch và hiệu
quả của công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của Trung ương và trách nhiệm
báo cáo, tự giải trình của các địa phương.
2.3.2. Lĩnh vực tài nguyên nước:
Việc phân cấp giữa Trung ương và địa phương trong lĩnh vực tài nguyên
nước được quy định rõ ràng, phù hợp với quan điểm, chủ trương chung của
Đảng, Nhà nước và Chính phủ, được quy định cụ thể tại Luật tài nguyên nước,
các văn bản dưới Luật. Việc phân cấp được thực hiện theo quy định tại Thông tư
liên tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV ngày 28 tháng 8 năm 2014 hướng dẫn
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tài nguyên và Môi
trường thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
15
Phòng tài nguyên và môi trường thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh. Ở cấp tỉnh, chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên
nước được giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường; cấp huyện có Phòng Tài
nguyên và Môi trường.
Trong từng công tác từ khai thác, sử dụng, quy hoạch, điều tra, bảo vệ
nguồn nước và hạn chế tác hại của nước gây ra đã được phân định cụ thể trong
Luật tài nguyên nước, các Nghị định của Chính phủ và các Thông tư thuộc thẩm
quyền và lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Hiện nay, Ủy ban nhân dân các cấp và Sở Tài nguyên và Môi trường đã
được phân cấp thực hiện các nhiệm vụ: phê duyệt, điều chỉnh, thông báo việc
truy thu, hoàn trả tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với trường hợp
khai thác, sử dụng tài nguyên nước thuộc thẩm quyền cấp phép;ban hành giá
tính thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên trên địa bàn theo khung giá do Bộ
Tài chính ban hành; ban hành giá để làm cơ sở tính tiền khai thác tài nguyên
nước đối với trường hợp chưa có giá tính thuế tài nguyên nước và kiểm tra,
thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về tính, thu, nộp tiền cấp quyền khai thác tài
nguyên nước trong phạm vi địa phương; Tổ chức lập và phê duyệt, công bố
Danh mục và Bản đồ phân vùng hạn chế khai thác nướcdưới đất và lập phương
án thực hiện; bố trí kinh phí thực hiện; Xây dựng, lắp đặt thiết bị thu, nhận, lưu
trữ dữ liệu cơ sở trên địa bàn;chỉ đạo việc quản lý, vận hành, bảo trì và đảm bảo
các điều kiện cần thiết để bảo đảm hoạt động của các thiết bị thu nhận, lưu trữ
dữ liệu thuộc phạm vi quản lý;kiểm tra, thanh tra việc thực hiện; Phê duyệt khả
năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải của các sông, hồ là nguồn nước nội tỉnh;
tổ chức thực hiện điều tra, đánh giá tổng hợp tài nguyên nước dưới đất, điều tra,
đánh giá tài nguyên nước dưới đất theo chuyên đề đối với các nguồn nước nội
tỉnh, nguồn nước liên tỉnh trên địa bàn; Xác định, phê duyệt và công bố vùng
bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt của công trình khai thác nước trên địa
bàn;chỉ đạo, thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động trong vùng
bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt trên địa bàn; Tổ chức điều tra, đánh
giá, lấy ý kiến và phê duyệt dòng chảy tối thiểu trên các sông, suối nội tỉnh và
các sông, suối theo quy định
Về cơ bản, các quy định phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và
chính quyền địa phương trong lĩnh vực tài nguyên nước đã được các địa phương
thực hiện tương đối thống nhất và có hiệu quả, nâng cao tính chủ động cho
chính quyền địa phương trong quản lý, sử dụng các nguồn lực ở địa phương, góp
phần thực hiện công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước.
2.3.3. Lĩnh vực địa chất và khoáng sản:
Sau khi Luật Khoáng sản năm 2010 được ban hành và có hiệu lực, các văn
bản quy định chi tiết dưới Luật cũng đã được ban hành nhằm chi tiết hóa và
hướng dẫn các quy định của Luật nói chung và các quy định phân cấp nói riêng,
qua đó cơ bản đã thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương
và địa phương.
16
Hiện nay, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đang được phân cấp thực hiện các
nhiệm vụ: cấp Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai thác khoáng sản
làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn, khoáng sản tại các khu vực có
khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường khoanh định
và công bố; Giấy phép khai thác tận thu khoáng sản; quyết định khu vực không
đấu giá quyền khai thác khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp giấy phép; phê duyệt
trữ lượng khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp giấy phép; khoanh định, trình Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt khu vực cấm hoạt động khoáng sản, khu vực tạm
thời cấm hoạt động khoáng sản sau khi có ý kiến của Bộ Tài nguyên và Môi
trường và bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan; Ban hành theo thẩm quyền hoặc
trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản để thi hành pháp luật về
khoáng sản tại địa phương; tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
trong việc bảo vệ khoáng sản chưa khai thác; tổ chức bảo vệ khoáng sản chưa
khai thác; huy động và chỉ đạo phối hợp các lực lượng trên địa bàn để giải tỏa,
ngăn chặn hoạt động khoáng sản trái phép tại địa phương. Ủy ban nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm: tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về
khoáng sản tại địa phương; chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn thực
hiện các biện pháp bảo vệ khoáng sản chưa khai thác; huy động và chỉ đạo phối
hợp các lực lượng trên địa bàn để giải tỏa, ngăn chặn hoạt động khoáng sản trái phép.
Việc phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp Giấy phép thăm dò, khai
thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường đã tạo điều kiện cho các địa
phương chủ động trong việc lập quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản thuộc
thẩm quyền nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây
dựng trên địa bàn, đặc biệt là nhu cầu cấp thiết trong việc xây dựng đường giao
thông, đê kè, cầu cống là những công trình yêu cầu về tiến độ thực hiện để phục
vụ mục đích an sinh xã hội.
Công tác bảo vệ khoáng sản chưa khai thác là nhiệm vụ thường xuyên của
các cấp chính quyền địa phương. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có văn bản
hướng dẫn của Bộ Tài chính về nguồn kinh phí, định mức chi… nên các địa
phương không có cơ sở lập dự toán chi ngân sách hàng năm, khó khăn cho việc
bảo đảm kinh phí thực hiện công tác này.
Công tác giám sát thi công đề án thăm dò khoáng sản thuộc thẩm quyền
cấp phép của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chưa được quan tâm thực hiện, chất
lượng các báo cáo kết quả thăm dò chưa cao. Việc đôn đốc các tổ chức, cá nhân
thực hiện nghĩa vụ nộp báo cáo thăm dò địa chất (sau khi được Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh phê duyệt) vào lưu trữ địa chất của Bộ Tài nguyên và Môi trường theo
quy định tại khoản 2 Điều 49 Luật khoáng sản chưa được quan tâm đúng mức,
chưa thường xuyên gây khó khăn cho công tác thống kê, kiểm kê trữ lượng.
2.3.4. Lĩnh vực môi trường:
Luật Bảo vệ môi trường hiện hành đã quy định khá cụ thể trách nhiệm của
các bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý nhà nước về
môi trường. Thời gian qua, một số văn bản quy phạm pháp luật quy định nội
17
dung phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương đã được ban hành bổ
sung như: Nghị định số 59/2017/NĐ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2017 của Chính
phủ về quản lý tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích phát sinh từ việc sử dụng
nguồn gen đã phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có nguồn gen ngoài tự
nhiên hoặc nơi đăng ký trụ sở của Bên cung cấp có trách nhiệm xác nhận Hợp
đồng do tổ chức, cá nhân đề nghị; Thông tư số 03/2018/TT-BTNMT ngày 14
tháng 8 năm 2018 của Bộ Tài nguyên và Môi trường đã rà soát, điều chỉnh các
thủ tục hành chính trong công tác tiếp nhận, xử lý hồ sơ cấp Giấy phép đủ điều
kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất
trên cơ sở thực hiện thông qua Cơ chế một cửa quốc gia, tạo điều kiện tinh giản
thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ của các doanh nghiệp; Các
Thông tư số 08/2018/TT-BTNMT và Thông tư số 09/2018/TT-BTNMT ngày 14
tháng 9 năm 2018 của Bộ Tài nguyên và Môi trường đã rà soát, bổ sung và phân
cấp tới Sở Tài nguyên và Môi trường địa phương đối với các thủ tục tiếp nhận,
kiểm tra và xử lý hồ sơ đăng ký kiểm tra nhà nước đối với phế liệu nhập khẩu.
Tuy nhiên, việc phân cấp giữa trung ương và địa phương chưa thực sự rõ ràng,
chưa thể hiện được vai trò, trách nhiệm của các địa phương đối với các vấn đề
môi trường trên địa bàn.
Nghị quyết số 09/NQ-CP của Chính phủ về phiên họp thường kỳ tháng 01
năm 2019 đã thống nhất giao Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đầu mối,
thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
chịu trách nhiệm toàn diện về vấn đề rác thải và xử lý rác thải trên địa bàn. Do
vậy, thời gian tới cần sớm rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật có liên
quan, đảm bảo xác định rõ hơn việc phân công, phân nhiệm chức năng quản lý
nhà nước trình cấp có thẩm quyền ban hành để thống nhất quản lý nhà nước về
chất thải rắn.
Để tiếp tục tăng cường phân cấp cho địa phương, thực hiện chương trình
công tác của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức xây dựng dự
thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường và đã trình Chính phủ để xem xét,
ban hành. Đồng thời, Bộ đã trình Chính phủ đề xuất dự án Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, theo đó đã xác định một trong các
quan điểm xây dựng Luật là nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng thời có sự
phân công, phân cấp rõ ràng trong quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; tăng
cường trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi tổ chức và cá nhân đối với công tác bảo vệ
môi trường.
2.3.5. Lĩnh vực khí tượng thủy văn:
Kể từ thời điểm Luật khí tượng thủy văn có hiệu lực (ngày 01 tháng 7 năm
2016) đến nay, nhiều quy định trong Luật đã được các Bộ, ngành, địa phương
triển khai đạt kết quả, đáng chú ý là công tác xây dựng, ban hành văn bản quy
phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ
nhằm thi hành các nội dung cụ thể của Luật đạt kết quả cả về số lượng và chất
lượng của văn bản. Công tác quản lý nhà nước hoạt động khí tượng thủy văn ở
18
Trung ương và địa phương từng bước đi vào nền nếp, có đủ cơ sở pháp lý để
triển khai trên thực tế. Các vấn đề chuyên môn, nghiệp vụ của khí tượng thủy
văn từng bước được cụ thể hóa, quy định minh bạch, khả thi, tạo điều kiện thuận
lợi hơn cho việc tiếp cận, thực thi trên thực tế của các tổ chức, cá nhân. Hoạt
động khí tượng thủy văn đã từng bước đi vào cuộc sống, được chính quyền địa
phương các cấp, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, xã hội, cộng đồng ghi nhận
về vai trò và hiệu quả của lĩnh vực thông qua hệ thống pháp luật.
Theo Luật Khí tượng Thủy văn, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm:
Xây dựng, ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm
pháp luật về khí tượng thủy văn, giám sát biến đổi khí hậu; Trình Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh phương án phân bổ dự toán, quản lý, sử dụng ngân sách theo quy
định của pháp luật để bảo đảm thực hiện các hoạt động khí tượng thủy văn phục
vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, phòng, chống thiên tai của địa phương;
Cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi giấy phép hoạt động dự báo, cảnh báo khí tượng
thủy văn đối với tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật; Quản lý các hoạt
động quan trắc, dự báo, cảnh báo, thông tin, dữ liệu, cung cấp dịch vụ khí tượng
thủy văn tại địa phương; Theo dõi, đánh giá việc khai thác, sử dụng tin dự báo,
cảnh báo khí tượng thủy văn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, phòng, chống
thiên tai trên địa bàn; Tổ chức, chỉ đạo thực hiện hoạt động thẩm định, thẩm tra,
đánh giá việc khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu khí tượng thủy văn trong các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội;
việc lồng ghép kết quả giám sát biến đổi khí hậu trong các chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch trên địa bàn thuộc phạm vi quản lý; Tổ chức đánh giá tác động
của biến đổi khí hậu, xây dựng các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu đối
với các lĩnh vực, khu vực thuộc phạm vi quản lý; Tổ chức truyền, phát tin dự
báo, cảnh báo khí tượng thủy văn thuộc phạm vi quản lý; Quản lý, lưu trữ thông
tin, dữ liệu; xây dựng cơ sở dữ liệu khí tượng thủy văn thuộc phạm vi quản lý;
Phổ biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền về khí tượng thủy văn, biến đổi khí
hậu; thực hiện các biện pháp phát triển hoạt động phục vụ, dịch vụ khí tượng
thủy văn trên địa bàn; Thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về hoạt động khí
tượng thủy văn theo thẩm quyền; Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo về khí tượng thủy văn theo thẩm quyền; Xử lý theo thẩm quyền hành vi vi
phạm hành lang kỹ thuật công trình khí tượng thủy văn và các hành vi vi phạm
pháp luật khác về khí tượng thủy văn trên địa bàn; Báo cáo Bộ Tài nguyên và
Môi trường công tác quản lý nhà nước về hoạt động khí tượng thủy văn trên địa bàn.
Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố
thuộc thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm: Theo dõi việc chấp hành
pháp luật về khí tượng thủy văn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn;
Theo dõi, đánh giá, khai thác, sử dụng tin dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, phòng, chống thiên tai trên địa bàn; Phổ biến,
giáo dục pháp luật và tuyên truyền về khí tượng thủy văn; tham gia giải quyết,
xử lý vi phạm về khí tượng thủy văn theo thẩm quyền; Tổng hợp, báo cáo Ủy
ban nhân dân cấp trên trực tiếp tình hình hoạt động khí tượng thủy văn, thiệt hại
do thiên tai khí tượng thủy văn gây ra trên địa bàn; Tham gia giải quyết khiếu
19
nại, tố cáo về khai thác, bảo vệ công trình khí tượng thủy văn trên địa bàn; Thực
hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về hoạt động khí tượng thủy văn theo phân
cấp hoặc ủy quyền của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên.
Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm: Tham gia bảo vệ công trình khí
tượng thủy văn trên địa bàn; Phổ biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền về khí
tượng thủy văn; tham gia giải quyết, xử lý vi phạm về khí tượng thủy văn theo
thẩm quyền; Tổng hợp, báo cáo Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp tình hình
hoạt động khí tượng thủy văn, thiệt hại do thiên tai khí tượng thủy văn gây ra
trên địa bàn; Tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo về khai thác, bảo vệ công
trình khí tượng thủy văn trên địa bàn; Thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước
về hoạt động khí tượng thủy văn theo phân cấp hoặc ủy quyền của cơ quan quản
lý nhà nước cấp trên.
Tuy nhiên, công tác đôn đốc, kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật khí
tượng thủy văn còn hạn chế ở cả cấp Trung ương và địa phương. Kinh phí hàng
năm dành cho hoạt động triển khai thi hành pháp Luật Khí tượng thủy văn còn
hạn chế; hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật chủ yếu mang tính đơn lẻ
thông qua một số hội nghị phổ biến, tập huấn của địa phương. Một số nội dung
cụ thể của Luật Khí tượng thủy văn và các văn bản quy định chi tiết Luật chưa
được triển khai đầy đủ, chưa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước đối với hoạt
động khí tượng thủy văn. Công tác quản lý nhà nước lĩnh vực khí tượng thủy
văn tại địa phương còn chưa được chú trọng đúng mức. Hành lang pháp lý cho
chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về khí tượng thủy văn của chính quyền
địa phương các cấp chưa bám sát, cụ thể hóa theo quy định của Luật Khí tượng
thủy văn và văn bản quy phạm pháp luật liên quan.
2.3.6. Lĩnh vực biến đổi khí hậu:
Do biến đổi khí hậu là lĩnh vực mới nên việc phân cấp cho địa phương
chưa có văn bản cụ thể. Tuy nhiên, tại một số văn bản quy phạm pháp luật đã có
đề cập đến việc phân cấp cho các địa phương lĩnh vực biến đổi khí hậu như:
Luật Bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13; Luật Khí tượng thủy văn số
90/2015/QH13; Thông tư liên tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV ngày 28
tháng 8 năm 2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nội vụ hướng dẫn
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tài nguyên và Môi
trường thuộc Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh; Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 05 tháng 12 năm
2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia biến đổi khí
hậu... Theo đó, các nội dung phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương
gồm: Xây dựng, cập nhật kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của
địa phương; Hướng dẫn, tổ chức thực hiện nhiệm vụ thuộc phạm vi của Sở Tài
nguyên và Môi trường trong các chiến lược, chương trình, kế hoạch quốc gia về
biến đổi khí hậu, các đề án, dự án, chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu;
Tổ chức kiểm tra thực hiện các mục tiêu trong các chương trình, kế hoạch, đề
án, dự án biến đổi khí hậu trên địa bàn quản lý; Theo dõi, đánh giá tác động của
20
biến đổi khí hậu đối với điều kiện tự nhiên, con người và phát triển kinh tế - xã
hội để đề xuất các giải pháp ứng phó; Hướng dẫn thực hiện các hoạt động giảm
nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội của địa
phương; Thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ các quy định về kiểm kê và giảm nhẹ
phát thải khí nhà kính.
Thời gian qua, công tác quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu ở địa phương
đã từng bước được hình hành và triển khai thực hiện có hiệu quả. Công tác phối
hợp giữa Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) và Sở Tài
nguyên và Môi trường các tỉnh ngày càng được tăng cường. Tuy nhiên, hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật về biến đổi khí hậu chưa được hoàn thiện, chưa đáp
ứng được yêu cầu thực tế. Công tác quản lý nhà nước vẫn còn hạn chế, nhất là ở
địa phương do không đủ nhân lực. Các Sở Tài nguyên và Môi trường đã có bộ
phận quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu nhưng phần lớn đều từ các lĩnh vực
khác chuyển qua, số lượng cán bộ ít, kiêm nhiệm nhiều lĩnh vực.
2.3.7. Lĩnh vực đo đạc và bản đồ:
Luật Đo đạc và bản đồ được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 5 thông qua
ngày 14 tháng 6 năm 2018. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2019. Luật Đo đạc và bản đồ đã được xây dựng với nhiều điểm mới, mang
tính đột phá về thể chế chính sách trong lĩnh vực đo đạc và bản đồ qua đó đảm
bảo thống nhất về đo đạc và bản đồ trong phạm vi cả nước, tránh chồng chéo
trong công tác quản lý và triển khai thực hiện các nhiệm vụ về đo đạc và bản đồ
từ Trung ương đến địa phương và giữa các bộ, ngành; tăng cường phân cấp
trách nhiệm quản lý và tổ chức triển khai hoạt động đo đạc và bản đồ cho Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, tạo chủ động cho các địa phương thực hiện các nhiệm vụ
đo đạc và bản đồ nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương; phát huy được các nguồn lực của xã hội trong hoạt động đo đạc và
bản đồ; góp phần củng cố, nâng cao năng lực của địa phương trong lĩnh vực đo
đạc và bản đồ.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về
hoạt động đo đạc và bản đồ thuộc phạm vi quản lý; ban hành văn bản theo thẩm
quyền; chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ về đo đạc và bản đồ
theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; tổ chức hướng dẫn, kiểm tra, theo dõi tình
hình thi hành pháp luật về đo đạc và bản đồ trên địa bàn; Quản lý công trình hạ
tầng đo đạc theo phân cấp; Tổ chức triển khai xây dựng và quản lý hạ tầng dữ
liệu không gian địa lý quốc gia và cơ sở dữ liệu đo đạc và bản đồ thuộc phạm vi
quản lý; Quản lý chất lượng sản phẩm đo đạc và bản đồ thuộc phạm vi quản
lý; Quản lý lưu trữ, cung cấp, sử dụng thông tin, dữ liệu, sản phẩm đo đạc và
bản đồ thuộc phạm vi quản lý; Thẩm định hồ sơ đề nghị cấp giấy phép hoạt
động đo đạc và bản đồ; quản lý việc cấp chứng chỉ hành nghề đo đạc và bản đồ;
quản lý tổ chức, cá nhân hoạt động đo đạc và bản đồ trên địa bàn; Thanh tra,
kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo về đo đạc và bản
đồ theo thẩm quyền.
21
Tuy nhiên, một số địa phương chưa thực sự chủ động triển khai thực hiện
các hoạt động đo đạc và bản đồ theo phân cấp; chưa ban hành kịp thời hoặc ban
hành chưa đầy đủ quy định về quản lý hoạt động đo đạc và bản đồ theo pháp
luật; còn hạn chế về kinh phí, nhân lực và điều kiện kỹ thuật. Một số quy định
của pháp luật mới được ban hành, chưa có đủ thời gian thực hiện.
2.3.8. Lĩnh vực viễn thám:
Ngày 04/01/2019 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 30/2019/NĐ-CP về
hoạt động viễn thám; tiến tới xây dựng Luật Viễn thám. Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 01 tháng 02 năm 2019 phê duyệt
Chiến lược phát triển viễn thám quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2040
trong đó xác định rõ quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp và trách nhiệm
của Bộ TN&MT, cũng như các bộ ngành và địa phương trong việc phát triển
lĩnh vực viễn thám trong các giai đoạn nói trên. Mặc dù vậy, hiện nay hành lang
pháp lý phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về viễn thám hiện vẫn còn thiếu
(chưa có Luật, còn thiếu nhiều văn bản quy phạm trong quản lý, kỹ thuật, tiêu
chuẩn, quy chuẩn). Một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao đã
đề cập đến ứng dụng viễn thám nhưng vẫn còn ít và chưa được chuyển thành các
nhiệm vụ cụ thể. Các văn bản quản lý nhà nước, định mức và tiêu chuẩn kỹ thuật
lĩnh vực viễn thám vẫn đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện.
Hiện nay, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đang được giao thực hiện các nhiệm
vụ: tổ chức triển khai thực hiện các đề án, dự án về ứng dụng viễn thám trong
phạm vi quản lý; Bảo đảm hành lang an toàn kỹ thuật và bảo vệ các công trình
hạ tầng thu nhận dữ liệu ảnh viễn thám thuộc phạm vi quản lý theo quy định tại
Nghị định này và các quy định pháp luật khác có liên quan; Xây dựng nhu cầu
sử dụng dữ liệu ảnh viễn thám thuộc phạm vi quản lý của địa phương định kỳ
hàng năm, 05 năm và theo nhiệm vụ đột xuất Nhà nước giao, gửi Bộ Tài nguyên
và Môi trường để tổng hợp và thống nhất việc thu nhận; Triển khai thực hiện
việc thu nhận, lưu trữ, xử lý dữ liệu ảnh viễn thám thuộc phạm vi quản lý; Xây
dựng, cập nhật, công bố siêu dữ liệu viễn thám để đáp ứng yêu cầu khai thác và
sử dụng thuộc phạm vi quản lý của địa phương; cung cấp bản sao dữ liệu và siêu
dữ liệu ảnh viễn thám mua từ nước ngoài bằng nguồn ngân sách nhà nước cho
Bộ Tài nguyên và Môi trường để tích hợp vào cơ sở dữ liệu ảnh viễn thám quốc
gia trong thời hạn chậm nhất là 03 tháng, kể từ ngày nhận được dữ liệu từ nhà
cung cấp…
Công tác quản lý nhà nước và đẩy mạnh ứng dụng viễn thám ở hầu hết các
địa phương còn hạn chế, chỉ một số ít Sở Tài nguyên và Môi trường của các
tỉnh, thành phố lớn (như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, thành phố
Đà Nẵng, Khánh Hòa) có ứng dụng viễn thám và có cán bộ kỹ thuật, chuyên
môn am hiểu về viễn thám. Các tỉnh, thành phố khác hiện chưa bố trí kinh phí
hoặc chưa có cơ chế thúc đẩy việc khai thác và sử dụng dữ liệu ảnh vệ tinh viễn
thám trong triển khai các nhiệm vụ chuyên môn được giao.
2.3.9. Lĩnh vực quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo:
22
Việc phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương trong lĩnh vực quản lý tổng hợp tài nguyên,
bảo vệ môi trường biển và hải đảo đã được quy định cụ thể tại Luật Tài nguyên,
môi trường biển và hải đảo, Luật quy hoạch, Nghị định số 40/2016/NĐ-CP ngày
15/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo, Nghị định số 41/2016/NĐ-CP ngày
15/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết việc cấp phép cho tổ chức, cá nhân
nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam và Nghị
định số 51/2014/NĐ-CP ngày 21/5/2014 của Chính phủ quy định giao khu vực
biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thức, sử dụng tài nguyên biển; theo đó,
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được giao thực hiện các nhiệm vụ: giao, gia hạn, sửa
đổi, bổ sung quyết định giao khu vực biển, trả lại khu vực biển trong phạm vi
vùng biển 03 hải lý; cấp, cấp lại, gia hạn, sửa đổi, bổ sung, cho phép trả lại, thu
hồi giấy phép nhận chìm ở biển trong vùng biển ven bờ thuộc phạm vi quản lý
của địa phương; thiết lập và quản lý hành lang bảo vệ bờ biển; lập hồ sơ tài
nguyên hải đảo trong phạm vi quản lý của địa phương….
Về cơ bản các nội dung phân cấp trong lĩnh vực quản lý tổng hợp tài
nguyên, bảo vệ môi trưởng biển và hải đảo hiện nay đều hợp lý, phù hợp với
tiến trình cải cách hành chính, các nội dung phân cấp được quy định là phù hợp
với thực tiễn quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo hiện nay.
III. Thực trạng đội ngũ công chức, viên chức ngành tài nguyên và môi
trường
3.1. Đội ngũ tại các bộ, ngành
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành tài nguyên và môi trường, đội
ngũ công chức, viên chức trong ngành thời gian quan đã phát triển nhanh về số
lượng, trưởng thành một bước về chất lượng, thích nghi dần với nền kinh tế thị
trường và có những đóng góp đáng kể trong sự nghiệp phát triển của ngành tài
nguyên và môi trường nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Một số
lượng đáng kể chuyên gia, cán bộ có trình độ chuyên môn, công nghệ và ngoại
ngữ tốt đã được thu hút về công tác tại Bộ Tài nguyên và Môi trường. Lực lượng
này đã tham gia tích cực, hiệu quả vào việc nghiên cứu và giải quyết một số vấn
đề lớn, quan trọng và phát triển các lĩnh vực của ngành tài nguyên và môi
trường. Đây là nguồn nhân lực rất quan trọng đối với Bộ Tài nguyên và Môi
trường.
Đội ngũ công chức, viên chức và người lao động của ngành tài nguyên và
môi trường ở cấp Trung ương4: có khoảng 1.200 công chức đang công tác tại
4 Theo trình độ đào tạo, khối quản lý nhà nước có: 9% tiến sĩ, 35% thạc sĩ, 43% đại học; khối sự nghiệp
có: 3% tiến sĩ; 15% thạc sĩ; 43% đại học. Về độ tuổi, khối quản lý nhà nước có: 8,87% công chức từ 30 tuổi trở
xuống, 44,2% từ 31 đến 40 tuổi, 23,36% từ 41 đến 50 tuổi và 12,86% trên 50 tuổi; khối sự nghiệp: 18,1% từ 30
tuổi trở xuống, 34,62% từ 31 đến 40 tuổi, từ 41 đến 50 tuổi chiếm 23,11%, từ 51 đến 60 tuổi 14,16%, trên 60
tuổi là 0,11%. Đa số viên chức công tác tại các đơn vị sự nghiệp hoạt động mang tính đặc thù về điều tra cơ bản,
dự báo trên khắp các vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo.
Về cơ cấu công chức: tại các đơn vị trực thuộc Bộ hiện có 61 chuyên viên cao cấp và tương đương (chiếm
5,6%); hơn 400 chuyên viên chính và tương đương (chiếm 37%); hơn 600 chuyên viên và tương đương (chiếm
23
các đơn vị quản lý nhà nước và gần 11.000 viên chức, người lao động làm việc
trong các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, đội ngũ công chức, viên chức làm công tác tài nguyên và môi
trường ở các ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước khác có khoảng 10.000 người;
nhân sự chuyên trách về tài nguyên và môi trường trong các khu công nghiệp,
tập đoàn kinh tế nhà nước, Tổng công ty nhà nước khoảng 20.000 (chưa kể lực
lượng cảnh sát môi trường và lực lượng sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp về
tài nguyên và môi trường trong quân đội).
Ở cấp Trung ương, một số lĩnh vực có sự hụt hẫng về đội ngũ công chức,
viên chức có trình độ cao, chuyên môn sâu. Phần lớn số công chức, viên chức
được đào tạo về các chuyên ngành kỹ thuật, thiếu kỹ năng quản lý. Trong khi
đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành tài nguyên và môi trường còn
bất cập, chính sách thu hút học sinh, sinh viên học tập một số chuyên ngành về
tài nguyên và môi trường chưa được quan tâm xây dựng dẫn đến tình trạng một
số ngành, chuyên ngành được đào tạo tràn lan trong khi một số ngành ít có sinh
viên, học sinh (như ngành khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu, quản lý biển và
hải đảo...). Số công chức, viên chức, chuyên gia được đào tạo trình độ cao ở các
nước tiên tiến trên thế giới trước đây đã nghỉ hưu hoặc chuẩn bị nghỉ hưu hiện
nay chưa có đội ngũ chuẩn bị thay thế. Thực trạng nêu trên đòi hỏi phải có chiến
lược, kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực, được đào tạo bài bản, chuyên
sâu, có nhiệt huyết, trí tuệ, đáp ứng nhu cầu nhân lực trước mắt cũng như lâu dài
của ngành tài nguyên và môi trường và theo nhu cầu xã hội.
3.2. Thực trạng nhân lực ngành tài nguyên và môi trường ở địa
phương
Tại địa phương5, đội ngũ công chức, viên chức ngành tài nguyên và môi
trường có khoảng 37.170 người, gồm 26.060 công chức và 11.110 viên chức.
Theo thống kê, số biên chế công chức trung bình của các Sở Tài nguyên và
Môi trường hiện nay là 67 biên chế. Nhìn chung, số lượng công chức của các Sở
Tài nguyên và Môi trường là tương đối hạn chế so với yêu cầu về chức năng,
nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức6.
Đối với Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện, trung bình được giao
7 - 8 biên chế (cá biệt có Phòng Tài nguyên và Môi trường chỉ được giao 4 - 5
biên chế).
57%). Cơ cấu chức danh nghề nghiệp viên chức: tính đến năm 2017, các chức danh viên chức hạng I tại các đơn
vị thuộc Bộ khoảng 09 người; hạng II khoảng 810 người; hạng III khoảng 4742; hạng IV khoảng 1856 người;
còn lại 1435 công nhân. 5 Theo trình độ đào tạo, khối quản lý nhà nước có: 0,11% tiến sĩ, 6,12% thạc sĩ, 58,1% đại học, 7,3% cao
đẳng và 28,37% trung cấp và sơ cấp; khối sự nghiệp có: 0,003% tiến sĩ; 16,9% thạc sĩ; 72,11% đại học; 10,98%
dưới đại học. Về độ tuổi, có 29,34% từ 30 tuổi trở xuống, 44,22% từ 31 đến 40 tuổi, 17,43% từ 41 đến 50 tuổi,
8,96% từ 51 đến 60 tuổi, 0,034% trên 60 tuổi.
6 Lớn nhất là Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh có 309 biên chế, ít nhất là các Sở Tài
nguyên và Môi trường: Kon Tum, Lai Châu có 40 biên chế, An Giang có 41 biên chế; 31/63 tỉnh có ít hơn 60
biên chế; 24/63 tỉnh có ít hơn 55 biên chế; 13/63 tỉnh có ít hơn 50 biên chế.
24
Đối với công chức tài nguyên và môi trường cấp xã, hiện nay, mỗi xã bố trí
01-02 cán bộ làm công tác địa chính, môi trường, kiêm nhiệm thêm các nhiệm
vụ khác về xây dựng, đô thị, giao thông, nông nghiệp, nông thôn mới. Tuy
nhiên, việc tham mưu, triển khai thực hiện nhiệm vụ về quản lý đất đai, tài
nguyên và môi trường của công chức địa chính xã còn hạn chế về tiến độ và chất
lượng, hiệu quả công việc; một phần do khối lượng công việc lớn, kiêm nhiệm
nhiều nhiệm vụ, chất lượng đội ngũ còn thấp so với yêu cầu công việc.
Cơ cấu nhân lực giữa các ngành chuyên môn đang có sự mất cân đối, đặc
biệt các lĩnh vực địa chất khoáng sản, bảo vệ môi trường, tài nguyên nước, khí
tượng thủy văn và biến đổi khí hậu đang thiếu về số lượng, yếu về chất lượng,
cơ cấu đội ngũ chưa hợp lý, trong đó bao gồm cả lực lượng làm công tác thanh
tra, giám sát tài nguyên và môi trường; phần lớn lực lượng tài nguyên và môi
trường đang tập trung ở lĩnh vực quản lý đất đai; trong khi đó, các công tác về
bảo vệ môi trường, tài nguyên nước, khoáng sản đang đặt ra nhiều thách thức
đối với địa phương nên cần phải tăng cường và bố trí cơ cấu nhân lực phù hợp.
Trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức địa phương không đồng
đều, đặc biệt là cấp huyện và cấp xã còn yếu chuyên môn, tập trung nhiều ở lĩnh
vực quản lý đất đai, trong khi đó cán bộ về môi trường, địa chất khoáng sản, tài
nguyên nước, quản lý biển, hải đảo, biến đổi khí hậu, khí tượng thủy văn còn rất
thiếu. Khối lượng nhiệm vụ hiện nay tại địa phương chủ yếu vẫn tập trung giải
quyết các vấn đề về quản lý đất đai; tuy nhiên, các vấn đề khác, nhất là về quản
lý môi trường, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, biển, hải đảo (đối với
các địa phương có biển) ngày càng trở nên cấp thiết. Đội ngũ cán bộ thực hiện
công tác giải phóng mặt bằng còn thiếu và yếu, đặc biệt là đội ngũ cán bộ địa
chính xã; việc tiếp cận và cập nhật các quy định của người bị thu hồi đất còn
chậm và không đồng đều, vì vậy việc tuyên truyền phổ biến pháp luật còn gặp
nhiều khó khăn.
Thực tế hiện nay, các địa phương đang đứng trước tình trạng khan hiếm
nhân lực có trình độ cao về chuyên môn nghiệp vụ. Việc tuyển dụng người có
năng lực chuyên môn, được đào tạo chính quy ở các chuyên ngành về tài nguyên
và môi trường rất khó khăn, kể cả ở các đơn vị cấp sở. Do khối lượng công việc
được giao lớn, số lượng cán bộ công chức hiện có chưa đáp ứng hết nhiệm vụ
nhà nước giao nên nhiều Sở đã trưng tập các cán bộ viên chức của các đơn vị sự
nghiệp làm việc tại Sở thực hiện nhiệm vụ chuyên môn.
3.3. Thực trạng nhân lực ngành tài nguyên và môi trường theo từng
lĩnh vực
3.3.1. Lĩnh vực đất đai
a) Cấp trung ương
Tổng cục Quản lý đất đai7 hiện có tổng số công chức, viên chức và lao
động hợp đồng có thời hạn từ 1 năm trở lên đang làm việc tại Tổng cục là 669
7 Theo trình độ đào tạo (trên 70% được đào tạo tại Trường Đại học Nông nghiệp, nay viện Nông nghiệp): Tiến
sỹ: 17 người; Thạc sỹ: 210 người; Đại học: 424 người và cao đẳng, trung cấp: 15 là Học người.
25
người, trong đó: 158 công chức, 15 hợp đồng lao động theo Nghị định số
68/2000/NĐ-CP; 198 viên chức và 298 lao động hợp đồng. Chuyên ngành đào
tạo chiếm gần 50% là địa chính và quản lý đất đai, số còn lại là các ngành
nghề khác (kinh tế, tài chính, kế toán, môi trường, trắc địa bản đồ, khoa học
trái đất, trắc địa tin học, luật, tin học, công nghệ thông tin, lưu trữ,… ).
b) Cấp địa phương
Lực lượng công chức, viên chức và người lao động của toàn lĩnh vực đã lên
đến trên 3 vạn người có mặt ở cả 4 cấp quản lý nhà nước, trong đó có hơn 1 vạn
cán bộ địa chính xã… góp phần đảm bảo phát triển sản xuất bền vững, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, hình thành một lực
lượng hùng hậu nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý và sử dụng đất đai trong
thời kỳ mới.
Tuy nhiên, do mô hình tổ chức hiện nay thì ở Trung ương chỉ quản lý về
chuyên môn nghiệp vụ, quản lý về nguồn nhân lực, tuyển dụng, điều động, luôn
chuyển, quy hoạch, bổ nhiệm thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân các cấp do
đó việc đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực cho ngành có phần hạn
chế, mới chỉ ở mức tổ chức các khoá tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ
làm công tác quản lý đất đai về giá đất, công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất, đăng ký đất đai, chính sách pháp luật đất đai…
c) Đánh giá khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực
Trong những năm qua, việc sử dụng và bố trí nguồn nhân lực luôn được
Tổng cục quan tâm. Trên cơ sở nguồn nhân lực hiện có, chức năng nhiệm vụ của
các đơn vị trực thuộc, Tổng cục đã phân công, bố trí cán bộ phù hợp với năng
lực, chức danh nghề nghiệp và chuyên ngành đào tạo, tạo điều kiện để từng cán
bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trình độ chuyên môn của cán bộ từng
bước được nâng cao, cơ bản đáp ứng được nhiệm vụ chuyên môn, nghiên cứu
khoa học, chuyển giao công nghệ. Đa số cán bộ là lực lượng trẻ, năng động,
nhiệt tình, có khả năng làm việc độc lập và làm việc theo nhóm.
Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ trẻ của Ngành được đào tạo cơ bản về chuyên
môn, nghiệp vụ, năng động nhưng còn thiếu kinh nghiệm thực tế, số có độ tuổi
dưới 30 có tỷ lệ khá cao; tỷ lệ cán bộ nghiên cứu có trình độ cao (tiến sĩ, tiến sĩ
khoa học), các chuyên gia đầu ngành còn thấp; một số cán bộ có bề dày kinh
nghiệm nghiên cứu đã nghỉ hưu theo chế độ, nguy cơ thiếu hụt cán bộ chuyên
môn có trình độ và kinh nghiệm chuyên sâu. Trình độ ngoại ngữ của một số cán
bộ chủ chốt, cán bộ nguồn hiện nay đang là thách thức lớn đối với việc hội nhập
quốc tế, khả năng cập nhật thông tin chuyên ngành và nắm bắt thông tin kinh tế,
xã hội phục vụ cho nhu cầu quản lý.
Nhiệm vụ trong lĩnh vực đất đai của ngành hiện nay là rất lớn như công tác
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất, thống kê, kiểm kê đất đai,
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, điều tra đánh giá đất đai, thanh kiểm tra ...
nhưng biên chế công chức được giao hiện nay còn thiếu dẫn đến việc thực thi nhiệm
vụ còn gặp khó khăn, như: chưa tổ chức thực hiện công tác điều tra đánh giá tài
26
nguyên đất; Thiếu công chức trong lĩnh vực đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất…
3.3.2. Lĩnh vực môi trường
a) Cấp Trung ương
Tổng cục Môi trường hiện nay có tổng số cán bộ, công chức, viên chức và
lao động hợp đồng là 635 người. Trong đó, có 34 Tiến sỹ (chiếm tỷ lệ 5,5 %),
245 Thạc sỹ (chiếm tỷ lệ 38,5 %), 296 người có trình độ đại học (chiếm tỷ lệ
46,7 %) và 60 người có trình độ dưới đại học (chiếm tỷ lệ 9,3%); về cơ cấu giới
tính: nam 382 người, nữ 271 người.
b) Cấp địa phương
Cơ quan quản lý nhà nước về môi trường ở địa phương có khoảng 13.600
người, trong đó: Cấp tỉnh có 1.126 người, trong đó có 135 người có trình độ sau
đại học, chiếm khoảng 12%; đại học có 620 người, chiếm khoảng 55%; cao
đẳng và trung cấp chuyên nghiệp có 372 người, chiếm 33%. Cấp huyện có 1.316
người, trong đó 79 người có trình độ thạc sỹ, chiếm 6%; đại học có 526 người,
chiếm 40%; cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp có 710 người, chiếm 54%.
Cấp xã có 11.148 người, trong đó có: 111 người có trình độ thạc sĩ, chiếm 1%;
đại học có 1.783 người, chiếm 16%, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp có
9.253 người, chiếm 83%.
c) Đánh giá khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực
Những năm qua công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực
trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và nguồn nhân lực làm công
tác quản lý nhà nước về môi trường đã được quan tâm và chú trọng. Tỷ lệ cán
bộ, công chức, viên chức và nguồn nhân lực trong lĩnh vực môi trường được cử
đi đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ ngày càng tăng và chất lượng
ngày càng được nâng lên. Nguồn lực đầu tư và kinh phí đào tạo tuy còn ít và
chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của ngành nhưng phần nào đã hỗ trợ tốt và
đầu tư có hiệu quả nâng cao rõ rệt năng lực, trình độ, nhận thức của cán bộ, công
chức, viên chức công tác trong ngành môi trường.
Cán bộ làm trong công tác bảo vệ môi trường hiện nay còn thiếu ở các cấp
do còn phải kiêm nhiệm và thực hiện nhiệm vụ khác như công tác xây dựng nông
thôn mới, nông nghiệp, xây dựng (ở cấp xã)…Các khóa đào tạo được tổ chức còn
ít, chưa đáp ứng được nhu cầu học tập rất lớn của cán bộ, công chức viên chức.
Còn nhiều lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành, nhiều kỹ năng rất cần được tổ
chức mở lớp bồi dưỡng cho cán bộ nhưng do không có kinh phí nên không thể
tổ chức được.
3.3.3. Lĩnh vực địa chất khoáng sản
a) Cấp Trung ương
- Tổng cục địa chất và Khoáng sản Việt Nam là cơ quan lớn nhất và giữ vai
trò trọng tâm trong lĩnh vực địa chất và khoáng sản. Hiện nay, Tổng cục Địa
chất và Khoáng sản Việt Nam có 1.936 công chức, viên chức, người lao động
27
hiện đang làm việc; trong đó có 01 PGS, 28 tiến sỹ (1,5%), 235 thạc sỹ (12,1%),
870 trình độ đại học (44,9%), 52 trình độ cao đẳng (2,6%), 750 trình độ dưới
cao đẳng (38,7%). Tuổi đời bình quân của cán bộ có trình độ tiến sĩ là 53,08
tuổi; thạc sĩ là 44,52 tuổi; đại học là 42,43 tuổi.
- Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản: hiện nay, Viện có 205 cán bộ,
viên chức và người lao động trên tổng số 239 người làm việc được Bộ giao.
Theo trình độ đào tạo: Viện có 17 người trình độ tiến sĩ (01 PGS); thạc sĩ là
81 người và 93 người trình độ đại học; còn lại là lực lượng hỗ trợ phục vụ có
trình độ cao đẳng trở xuống.
b) Cấp địa phương
Tổng số nhân lực trong lĩnh vực địa chất khoáng sản tại các địa phương là
4.686 người, trong đó: Tiến sĩ 183 người; Thạc sĩ 386 người; Đại học 2.598
người; Cao đẳng 300 người; Trung cấp và Sơ cấp là 1.275 người.
c) Đánh giá khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực lĩnh vực địa chất và khoáng sản khá dồi dào. Với trình độ
đào tạo, năng lực chuyên môn hiện có, đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực địa chất và
khoáng sản đã cơ bản bố trí, sắp xếp và sử dụng hợp lý theo đúng vị trí việc làm,
yêu cầu công việc nhằm phát huy tối đa năng lực chuyên môn, quản lý bảo đảm
hoàn thành mọi nhiệm vụ đạt hiệu quả, chất lượng cao. Mặc dù vậy qua những
theo dõi, thực trạng của nguồn nhân lực vẫn còn một số tồn tại như về kỹ năng
chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp, thái độ nghề nghiệp và khả năng thích
nghi với môi trường nghề nghiệp.
Do đặc thù của ngành, phần lớn các cán bộ công nhân viên của ngành địa
chất và khoáng sản trưởng thành từ những công việc thực tế, kỹ năng chuyên
môn và kỹ năng nghề nghiệp trong ngành được rèn luyện và tích lũy từ công tác
thực hiện những dự án điều tra cơ bản mang tính hệ thống của nhà nước như lập
bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản các tỉ lệ, đánh giá những khoáng sản
khoáng sản trọng điểm (than Quảng Ninh, Đồng Sin Quyền, Apatit Lài Cai v.v).
Cùng với sự giúp đỡ của chuyên gia các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là các
chuyên gia Liên Xô, qua lịch sử phát triển lâu dài, ngành địa chất và khoáng sản
Việt Nam đã có được một lực lượng cán bộ có kỹ năng chuyên môn và kỹ năng
nghề nghiệp cao; luôn tôn trọng nghề nghiệp và thích nghi tốt với môi trường
công tác ngay cả khi công tác ở những vùng gian khổ và nguy hiểm nhất. Mặc
dù vậy trong những năm gần đây, lực lượng nòng cốt này đang hao hụt dần do
vấn đề về tuổi công tác. Một lực lượng lớn các kỹ sư, cử nhân trẻ những người
sẽ thay thế trong tương lai còn thiếu kỹ năng chuyên môn và kỹ năng nghề
nghiệp và thiếu cơ hội để hoàn thiện và nâng cao hai kỹ năng này. Ngoài ra, thái
độ nghề nghiệp của lực lượng này cũng chưa tốt, tỉ lệ các kỹ sư trẻ mới ra
trường tham gia công tác địa chất ở các vùng khó khăn thôi việc sau 1 hoặc 2
mùa thực địa còn lớn và phổ biến.
Ở các địa phương, đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà
nước về địa chất, khoáng sản đều có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên; đa
28
số là thanh tra viên hoặc được giao nhiệm vụ thực hiện thanh tra chuyên ngành.
Tuy nhiên theo đánh giá chung trong quá trình thanh tra, kiểm tra đều nhận thấy,
một bộ phận không nhỏ cán bộ có trình độ, chuyên môn và thực tiễn công việc
chưa đáp ứng được yêu cầu.
3.3.4. Lĩnh vực tài nguyên nước
a) Cấp Trung ương
- Hiện tại, Cục Quản lý tài nguyên nước có 48 công chức đang công tác tại
các đơn vị thuộc khối hành chính, quản lý nhà nước trực thuộc Cục. 100% công
chức đều có trình độ đào tạo từ đại học trở lên, trong đó có 02 Tiến sỹ, 37 Thạc
sỹ, còn lại là cử nhân, kỹ sư
- Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia có 760 người,
trong đó có 195 nữ (25,66%), trình độ đào tạo: Tiến sỹ 10 người (1,32%), Thạc
sỹ 122 người (15,05%), Đại học 356 người (46,84%), Cao đẳng 14 người
(1.84%), Trung cấp và công nhân các loại 258 người (33,95%).
- Viện Khoa học tài nguyên nước có 42 người, trong đó: 07 Tiến sỹ (17%),
16 Thạc sỹ (38%), 19 Đại học (45%).
- Văn phòng Thường trực ủy ban sông Mê Công Việt Nam có 17 công
chức, trong đó, có 03 Tiến sỹ (18%), 08 Thạc sỹ (47%) và 06 Đại học (35%).
Ngoài ra, còn có 01 hợp đồng lao động theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP và 11
hợp đồng lao động tại đơn vị sự nghiệp.
b) Cấp địa phương
Số lượng công chức, viên chức thuộc lĩnh vực tài nguyên nước tại địa
phương khoảng 1.000 người. Trong đó, số cán bộ công chức làm việc trong tại
Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh khoảng 300 người, đa số cán bộ được đào
tạo các chuyên ngành liên quan đến lĩnh vực tài nguyên nước (địa chất, địa chất
thủy văn, kỹ thuật tài nguyên nước, thủy lợi, môi trường…).
c) Đánh giá khả năng đáp ứng nguồn nhân lực
Cán bộ làm việc trong lĩnh vực tài nguyên nước cơ bản được đào tạo đúng
chuyên ngành, đáp ứng được các công việc đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao trong lĩnh vực tài nguyên nước như: sử dụng mô hình toán, phân tích không
gian, phân tích đánh giá nguồn nước và khả năng khai thác nguồn nước, đánh
giá hiện trạng khai thác sử dụng nước, quản lý tổng hợp tài nguyên nước, các máy
phân tích chất lượng nước…. , bảo đảm đáp ứng theo yêu cầu công việc và vị trí
việc làm. Tuy nhiên, phần lớn số công chức, viên chức được đào tạo về các
chuyên ngành kỹ thuật, thiếu kỹ năng quản lý.
Theo kết quả điều tra thì số lượng công chức thực hiện công tác quản lý
nhà nước về tài nguyên nước ở địa phương mặc dù đã có những thay đổi tích
cực nhưng vẫn không đáp ứng được yêu cầu công việc. Lượng công việc thường
quá tải đối với cán bộ thực hiện công tác này do khối lượng công việc lớn nhưng
số lượng người làm việc ít mà thường được ghép với việc thực hiện cả quản lý
trong các lĩnh vực khác như: khí tượng thủy văn, khoáng sản.
29
3.3.5. Lĩnh vực đo đạc, bản đồ và thông tin địa lý
a) Cấp Trung ương:
Theo kết quả thống kê sơ bộ từ số liệu của Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông
tin địa lý Việt Nam, nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực đo đạc và bản đồ ở
Việt Nam có khoảng 15.000 người; trong đó, các bộ, ngành khoảng 13.500 người.
- Các đơn vị trong Bộ Tài nguyên và Môi trường gần 4.000 người.
Số lượng cán bộ chuyên môn về đo đạc và bản đồ thuộc Bộ Tài nguyên và
Môi trường chia theo chức năng hoạt động như sau:
Tại các tổng cục, cục trực thuộc Bộ: có 810 người (tiến sĩ 10 người, chiếm
1,2 %; thạc sĩ 150 người, chiếm 18,5%; đại học 650 người, chiếm 80,2%; trình
độ khác 100 người, chiếm 12,3%).
Tại các viện, trường trực thuộc Bộ: có 332 người (tiến sĩ 22 người, chiếm
6,6%; thạc sĩ 110 người, chiếm 33,1%; đại học 200 người, chiếm 60,2%; trình
độ khác 100 người, chiếm 30,1%).
Tại các doanh nghiệp: có 2222 người (tiến sĩ 02 người, chiếm 0,1%; thạc sĩ
120 người, chiếm 5,4%; đại học 1200 người, chiếm 54%; trình độ khác 800
người, chiếm 36%).
- Số liệu nhân lực tại Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam:
Tổng số: 431 người (gồm 39 công chức, 180 viên chức và lao động hợp
đồng). Trong đó, cán bộ có trình độ tiến sĩ: chiếm 1,4%; thạc sĩ: 20,4%; đại học:
58,93%; số tuyển mới từ 2012 -2015: 6 người; số cán bộ thôi việc, nghỉ hưu: 8
người. Tuyển dụng viên chức 2016: 24 người.
b) Cấp địa phương
Ở địa phương cơ cấu tổ chức của bộ phận quản lý đo đạc và bản đồ trực
thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường không có sự thay đổi qua các thời kỳ. Hiện
nay, số lượng công chức, viên chức thuộc lĩnh vực này tại địa phương khoảng
1.500 người. Nhìn chung công tác quản lý nhà nước về đo đạc và bản đồ ở địa
phương đã có những bước phát triển mạnh đặc biệt trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, theo kết quả điều tra thì số lượng công chức thực hiện công tác quản
lý nhà nước về đo đạc và bản đồ ở địa phương mặc dù đã có những thay đổi tích
cực nhưng vẫn không đáp ứng được yêu cầu công việc.
c) Đánh giá khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực
Phần lớn cán bộ đã đáp ứng được yêu cầu công việc theo nhiệm vụ được
giao ở mức độ hoàn thành và hoàn thành tốt; trong đó có khoảng 50% ở mức độ
hoàn thành, 20% hoàn thành tốt và có khoảng 30% số cán bộ còn yếu về chuyên
môn do không đúng chuyên ngành hoặc năng lực cá nhân còn hạn chế. Đo đạc
và Bản đồ là lĩnh vực kỹ thuật nên các cán bộ kỹ thuật phần lớn đều được đào
tạo các chuyên ngành về đo đạc và bản đồ, địa lý, địa chính.
Hiện nay, chỉ có khoảng 40% số cán bộ đo đạc và bản đồ có đào tạo cơ bản
tại các trường có bề dày đào tạo; bản thân cá nhân có kiến thức, có nhiệt tình,
30
trách nhiệm với công việc, chịu khó học hỏi và có thời gian công tác lâu năm
đáp ứng tốt yêu cầu trong xử lý các công việc chuyên môn. Tuy nhiên, do nhiều
yếu tố khác nhau như: điểm tuyển sinh phần lớn chỉ đạt ở mức trung bình, rất ít
học sinh có nền tảng kiến thức giỏi; sự thay đổi nhiệm vụ do yêu cầu thực tế, sự
thay đổi của công nghệ, làm việc không đúng ngành nghề đào tạo, điều kiện làm
việc... nên có ảnh hưởng đến quá trình rèn luyện kỹ năng về mặt chuyên môn
của cán bộ.
Về khả năng sử dụng ngoại ngữ: hiện chỉ có một số lượng rất nhỏ cán bộ có
khả năng ngoại ngữ làm việc trực tiếp với người nước ngoài, chỉ có khoảng 10-
15% cán bộ có thể đọc sách chuyên môn kỹ thuật bằng tiếng nước ngoài (chủ
yếu là tiếng Anh, Nga) phục vụ yêu cầu công việc. Đây là một trong những điểm
yếu nhất của cán bộ đo đạc và bản đồ hiện nay nhưng sẽ rất khó cải thiện nếu
không có giải pháp tích cực. Khả năng ngoại ngữ yếu là trở ngại lớn để nâng cao
trình độ cho cán bộ hiện nay do không tiếp cận được với kiến thức mới trên thế
giới, đặc biệt là những kiến thức về khoa học và công nghệ liên quan đến lĩnh
vực đo đạc và bản đồ. Điều đó sẽ ảnh hưởng tới hội nhập khu vực và quốc tế về
hợp tác và tham gia thị trường lao động của khu vực trong thời gian sắp tới.
Vẫn còn một số lượng khoảng 20% cán bộ chưa thích nghi với môi trường
làm việc đặc thù của lĩnh vực, đặc biệt là các công tác biên giới, đo đạc và bản
đồ ở ngoại nghiệp do công việc vất vả, lưu động nhiều, làm việc ở vùng núi khó
khăn, xa nhà... Đó cũng là do đặc thù của lĩnh vực có nhiều công việc đột xuất
phải giải quyết trực tiếp, hoặc công tác kỹ thuật tỉ mỉ, làm việc chủ yếu trên các
thiết bị công nghệ điện tử, máy tính nên cũng dễ gây áp lực. Một số kỹ sư mới ra
trường đã bỏ việc vì không thích nghi được với điều kiện công tác. Cán bộ kỹ
thuật tại các địa phương ít có điều kiện nâng cao trình độ do phải đảm nhiệm
nhiều công việc không đúng chuyên môn, việc tiếp xúc với công nghệ còn hạn
chế, điều kiện tham dự các khóa bồi dưỡng chuyên môn còn gặp nhiều khó khăn.
3.3.6. Lĩnh vực biển và hải đảo
a) Cấp Trung ương
Tính đến nay, thực trạng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực biển và
hải đảo tại Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam có khoảng 650 công chức, viên
chức, và người lao động, cụ thể:
Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo của công chức, viên chức: Tiến
sỹ: 19 người (03%); Thạc sỹ: 96 người (15%); Trình độ khác: 535 người ( 82%).
Về cơ cấu theo ngạch của công chức, viên chức: Chuyên viên cao cấp và tương
đương: 19 người (03 %); Chuyên viên chính và tương đương: 121 người (17
%); Còn lại: 578 người (81%).
Về cơ cấu cán bộ theo chuyên ngành đào tạo của công chức, viên chức:
Các chuyên ngành tài nguyên nước, thủy lợi, khí tượng thủy văn biển, hải dương
học: 93 người, chiếm 13%; Các chuyên ngành mỏ, địa chất, địa vật lý biển: 82
người, chiếm 11%; Chuyên ngành môi trường, sinh thái học: 45 người, chiếm 6%;
Chuyên ngành đo đạc bản đồ, viễn thám: 312 người, chiếm 43%; Các chuyên ngành
31
kinh tế: 79 người, chiếm 11%; Các chuyên ngành luật, quản lý hành chính: 33
người, chiếm 5%; Các chuyên ngành ngoại ngữ: 43 người, chiếm 6%; Các
chuyên ngành khác: 31 người, chiếm 4%.
b) Cấp địa phương: có khoảng 250 người.
Thực hiện hướng dẫn của Thông tư Liên tịch số 26/TTLT-BNV-BTNMT
ngày 05/11/2010 về việc thành lập Chi cục biển và hải đảo, đến nay cả nước đã
có 24/28 Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương ven biển thành lập Chi cục biển và hải đảo.
Về lĩnh vực quản lý biển và hải đảo, tại mỗi Sở Tài nguyên và Môi trường
công chức được phân công theo dõi, thực thi trong lĩnh vực này là khoảng từ 03
đến 07 người. Ở cấp huyện và cấp xã hiện nay vẫn chưa có cán bộ chuyên trách
về lĩnh vực biển, đảo (chủ yếu là cán bộ làm công tác thuỷ sản và kiêm nhiệm
thêm nhiệm vụ trong lĩnh vực biển đảo).
Tại bộ phận quản lý tổng hợp các vấn đề về biển, đảo thuộc các Sở Tài
nguyên và Môi trường các tỉnh ven biển và cán bộ Phòng Tài nguyên và Môi
trường các huyện ven biển, huyện đảo: số lượng cán bộ được đào tạo chuyên
môn về lĩnh vực biển nhìn chung rất hiếm, chủ yếu là cán bộ được đào tạo hoặc
có kinh nghiệm làm công tác trong các lĩnh vực đất đai, môi trường, thuỷ sản ...
Tại một số Sở Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân tỉnh có điều
chuyển một số ít cán bộ làm công tác thủy sản sang tăng cường. Số lượng cán bộ
làm công tác biển đảo ở địa phương chưa ổn định, tại nhiều nơi phải kiêm nhiệm
các lĩnh vực khác có liên quan đến chuyên môn được đào tạo. Chưa có đơn vị sự
nghiệp và viên chức sự nghiệp phục vụ riêng cho công tác quản lý biển đảo ở địa
phương. Một số đơn vị sự nghiệp thuộc các lĩnh vực công nghệ môi trường, thông
tin dữ liệu, điều tra quy hoạch đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường vẫn phải
đảm nhận luôn các dịch vụ liên quan đến địa bàn biển, hải đảo. Ở địa phương
nguồn cán bộ được đào tạo cơ bản về các ngành khoa học liên quan đến biển còn
rất ít. Công tác đo vẽ địa hình đáy biển; thống kê, đánh giá tài nguyên, tiềm năng và
thực trạng khai thác, sử dụng các vùng biển, ven biển, hải đảo và đề xuất nhu cầu
khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo của địa phương
gặp nhiều khó khăn do hạn chế về năng lực và nguồn lực thực hiện….
c) Đánh giá khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực:
Đội ngũ cán bộ làm công tác điều tra cơ bản và nghiên cứu về tài nguyên -
môi trường biển của nước ta còn phân tán, thiếu cán bộ có trình độ cao, đặc biệt
là đội ngũ cán bộ kế cận. Phần lớn cán bộ có chuyên môn và kinh nghiệm trong
lĩnh vực biển, hải đảo tập trung ở các đơn vị sự nghiệp, trước hết là những đơn
vị sự nghiệp được thành lập trước đó, hoạt động trong lĩnh vực biển. Còn trong
khối quản lý nhà nước, số công chức được đào tạo có trình độ chuyên môn sâu
về biển (ví dụ: hải dương học, kinh tế hàng hải, kinh tế thủy sản, luật biển quốc
tế, quy hoạch biển v.v..) có rất ít.
32
Qua điều tra, khảo sát, tỷ lệ cán bộ tham gia trực tiếp tại các đơn vị sự
nghiệp được đào tạo bài bản hoặc đúng chuyên ngành còn thấp. Khả năng đáp
ứng về chuyên môn phù hợp chỉ đạt 35% đến 40% số lượng cán bộ tại các đơn
vị sự nghiệp trong khi nhu cầu đào tạo nâng cao trình độ của các cán bộ tại các
đơn vị sự nghiệp là rất lớn (hơn 90% số lượng cán bộ được điều tra/phỏng vấn
trực tiếp xác định có như cầu lớn về bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,
chuyên ngành). Trong đào tạo, bồi dưỡng, mới chú trọng đến đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực điều tra cơ bản, chưa chú trọng đến đào tạo, bồi dưỡng nhân lực
quản lý. Có tình trạng mất cân đối với lực lượng nhân lực điều tra cơ bản, quản
lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển giữa Trung ương và địa phương.
Ở các địa phương, nhân lực làm công tác điều tra cơ bản rất ít và hầu hết cán bộ
quản lý phải kiêm nhiệm. Thiếu hụt nghiêm trọng một đội ngũ có năng lực, kinh
nghiệm về quản lý tài nguyên và môi trường biển phù hợp với đòi hỏi của hướng
tiếp cận tổng hợp. Số lượng cán bộ trình độ cao, có năng lực quản lý tốt, nắm rõ
việc vận dụng nguyên tắc quản lý tổng hợp trong tổ chức triển khai công tác còn
rất ít.
3.3.7. Lĩnh vực khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu là vấn đề do nhiều Bộ, ngành, địa phương thực hiện. Đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động làm việc trong lĩnh vực
biến đổi khí hậu cũng nằm ở các Bộ, ngành, địa phương, các viện, trường, trung
tâm nghiên cứu, các tổ chức xã hội, phi chính phủ hoạt động tại Việt Nam. Hiện
chưa có thống kê chính thức về đội ngũ này tại Việt Nam.
Trong ngành tài nguyên và môi trường, ngoài các đơn vị hoạt động trong
lĩnh vực khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu, còn rất nhiều đơn vị có liên
quan cùng tham gia như các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực tài nguyên nước,
môi trường...
a) Cấp Trung ương
Nguồn nhân lực hiện đang làm công tác trong lĩnh vực biến đổi khí hậu ở
cấp Trung ương thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường hiện là các cán bộ, công
chức, viên chức và người lao động của các đơn vị, cơ quan trong ngành làm
công tác kiêm nhiệm quản lý các vấn đề biến đổi khí hậu thuộc 03 đơn vị sau:
Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia (nay là Tổng cục Khí tượng Thủy
văn); Cục Biến đổi khí hậu; Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí
hậu. Nhận định chung trong toàn lĩnh vực là tỷ lệ các cán bộ có trình độ tiến sĩ,
thạc sĩ còn thấp; tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học trở xuống cao hơn. Tuy nhiên,
tỷ lệ cán bộ trong độ tuổi làm việc tích cực khá cao, đây cũng là điều kiện thuận
lợi cho công tác đào tạo.
Nguồn nhân lực theo các đơn vị cụ thể như sau:
- Tổng cục Khí tượng Thủy văn hiện có 2927 người trong đó: công chức:
28 người; viên chức: 2899 người. Về trình độ đào tạo: tiến sỹ: 25 người, chiếm
0,85%; thạc sỹ: 227 người, chiếm 7,76%; đại học: 1416 người, chiếm 48,17%;
cao đẳng, trung học, sơ cấp, công nhân… 1265 người, chiếm 43,22%.
33
- Cục Biến đổi khí hậu
Cục Biến đổi khí hậu có tổng số cán bộ là 85 người, trong đó có: 51 công
chức, 03 viên chức, 31 hợp đồng lao động tại 02 đơn vị sự nghiệp. Về trình độ
đào tạo: có 04 tiến sĩ (4,7%), 49 thạc sĩ (57,6%), 32 đại học (37,6%).
- Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu
Tổng số cán bộ, viên chức và người lao động của Viện hiện có 212 người,
trong đó: có 105 nữ; 01 GS, 05 PGS, trên ĐH: 74; ĐH: 121; khác: 11.
b) Cấp địa phương
Do đặc thù chuyên ngành, số lượng cán bộ, công chức quản lý về khí tượng
thủy văn và biến đổi khí hậu ở cấp địa phương hiện có rất ít, phần lớn bộ máy
tham mưu, phụ trách về khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu đều được ghép
chung với các lĩnh vực khác như tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản v.v…
Quản lý về biến đổi khí hậu là một công tác hoàn toàn mới trong quản lý nhà
nước ở cấp địa phương nên hầu hết các địa phương chưa có cán bộ được đào tạo
đúng chuyên ngành và được giao chuyên trách cho công tác này.
Đối với Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, hầu hết các cán bộ có trình độ đại học, còn đối với các Phòng Tài nguyên
và Môi trường các quận, huyện, số lượng cán bộ có trình độ đại học còn hạn
chế. Ở cả hai cấp tỉnh và huyện đều chưa có cán bộ được giao chuyên trách công
tác quản lý các vấn đề về khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu mà chủ yếu là cán
bộ kiêm nhiệm.
c) Đánh giá khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực
- Lĩnh vực khí tượng thủy văn: nguồn nhân lực lĩnh vực khí tượng thủy văn
về cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, tuy nhiên năng lực chuyên sâu về
chuyên môn vẫn còn hạn chế. Sự chuyển giao thế hệ còn hẫng hụt, chưa liên tục,
ít được quan tâm đúng mức, dẫn đến thiếu hụt cán bộ nguồn, thiếu cán bộ, viên
chức có kinh nghiệm, trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực khí tượng thủy
văn; sự chênh lệch số lượng, chất lượng đào tạo, trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, ngoại ngữ... của cán bộ, viên chức giữa Trung ương và địa phương khá lớn.
- Lĩnh vực biến đổi khí hậu: nguồn nhân lực lĩnh vực biến đổi khí hậu của
Việt Nam tuy đã được củng cố, tăng cường trong thời gian qua nhưng so với nhu
cầu thì vẫn còn đang thiếu hụt nghiêm trọng, cụ thể: Thiếu hụt đội ngũ chuyên
gia, cán bộ kỹ thuật chuyên sâu ở một số lĩnh vực, đặc biệt ở cấp địa phương về
biến đổi khí hậu và đánh giá hiệu quả các hoạt động ứng phó với biến đổi khí
hậu, lựa chọn ưu tiên; Thiếu hụt đội ngũ chuyên gia, cán bộ khoa học và công
nghệ về biến đổi khí hậu trong các lĩnh vực nằm ngoài phạm vi truyền thống của
vấn đề khí hậu, bao gồm: thương mại và biến đổi khí hậu; ngoại giao, đàm phán
về biến đổi khí hậu; an ninh, y tế, di dân, tái định cư trong bối cảnh biến đổi khí
hậu; Thiếu hụt cán bộ trong bộ máy quản lý nhà nước ở các cấpcó đủ năng lực
để thực hiện các yêu cầu giám sát, kiểm tra, đánh giá các hoạt động ứng phó với
biến đổi khí hậu theo yêu cầu và quy định của quốc tế.
34
3.3.8. Lĩnh vực viễn thám
a) Cấp Trung ương
Hiện tại tổng số công chức, viên chức, người lao động của Cục Viễn thám
quốc gia là 279 người, trong đó có: 31 công chức, 40 viên chức, còn lại là lao
động hợp đồng thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn và hỗ trợ, phục vụ; có 49
người làm việc tại bộ phận hành chính, 230 người làm việc tại các đơn vị sự
nghiệp trực thuộc Cục, với cơ cấu nhân lực như sau:
- Về trình độ đào tạo: có 06 người trình độ tiến sỹ, chiếm 2%; 84 người
trình độ thạc sỹ chiếm 30%, 158 người trình độ đại học, cao đẳng, chiếm 57 %;
31 người trình độ trung cấp và các trình độ đào tạo khác, chiếm 11%. Số cán bộ
khoa học công nghệ có chuyên môn về viễn thám hiện đang làm việc chiếm tỉ lệ
tương đối lớn, với 230 người trong tổng số (chiểm tỉ lệ khoảng 55%);
- Về độ tuổi: có 20 người trên 50 tuổi, chiếm 7%; 56 người từ 40 đến 50
tuổi, chiếm 20%; 175 người từ 30 đến 40 tuổi, chiếm 63%; 28 người dưới 30
tuổi, chiếm 10%.
- Về giới: có 175 nữ, chiếm 63%; 104 nam, chiếm 37%; trong đó bộ phận
hành chính có 32 nữ chiếm 65%, 17 nam, chiếm 35%.
Ngoài ra, số lượng các chuyên gia, cán bộ có chuyên môn về viễn thám làm
trong các cơ quan, đơn vị khác của Bộ Tài nguyên và Môi trường khoảng 30
người (chiếm 11 %), trong đó tập trung chủ yếu là Viện Khoa học Địa chất và
Khoáng sản, Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam và Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ.
b) Cấp địa phương
Nghị định số 03/2019/NĐ-CP ngày 04 tháng 01 năm 2019 của Chính phủ
về hoạt động viễn thám, cũng như Chiến lược phát triển viễn thám quốc gia đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2040 (Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 01 tháng
02 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ) đã bổ sung thêm nhiều nội dung liên
quan đến các công tác viễn thám tại địa phương.
Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước lĩnh vực viễn thám tại địa phương
hiện nay mới chủ yếu được thực hiện theo quy định của Thông tư liên tịch số
50/2014/TT-BTNMT-BNV ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường, Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Sở Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong Thông tư đã quy định cụ
thể các nhóm nhiệm vụ về viễn thám gồm 02 nhóm nhiệm vụ chính là: (1) Chủ
trì tổng hợp nhu cầu khai thác, sử dụng dữ liệu viễn thám của địa phương; đề
xuất việc mua, trao đổi dữ liệu viễn thám trong nước và quốc tế trình Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định; (2) Quản lý, lưu trữ, bổ sung, cập nhật,
công bố dữ liệu viễn thám và xây dựng cơ sở dữ liệu viễn thám của địa phương
để cung cấp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật, đồng
thời quy định cụ thể Phòng Đo đạc, Bản đồ và Viễn thám là một trong các tổ
35
chức tham mưu tổng hợp và chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở Tài nguyên và
Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Trên cơ sở Thông tư liên tịch số 50/2014/TT-BTNMT-BNV, qua rà soát và
tổng hợp tình hình quản lý nhà nước về viễn thám đã cho thấy hầu hết các địa
phương hiện nay còn đang lúng túng trong việc tìm hiểu và ứng dụng công nghệ
viễn thám, đặc biệt tại các địa phương thuộc vùng sâu, vùng xa, cơ sở vật chất
còn nghèo nàn, ít được tiếp cận với công nghệ hiện đại, đội ngũ cán bộ làm công
tác về viễn thám còn ít và mỏng, chưa được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực mà
họ công tác. Đội ngũ cán bộ chuyên môn của Phòng Đo đạc, Bản đồ và Viễn
thám chưa bảo đảm cả về số lượng và chất lượng, hầu hết các Phòng chỉ có từ 4
đến 6 cán bộ, trong đó có từ 2 đến 3 cán bộ có chuyên môn về đo đạc và bản đồ,
có rất ít Sở Tài nguyên và Môi trường có cán bộ chuyên môn về viễn thám.
c) Đánh giá khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực
Hầu hết nguồn nhân lực về viễn thám có ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh)
trình độ B1 trở lên, có thể đọc được các tài liệu tiếng anh trong lĩnh vực viễn
thám, nhiều cán bộ thể giao tiếp khá với người nước ngoài. Đa số cán bộ đã
tham gia vào các công việc nghiên cứu chuyên môn về viễn thám khi thực hiện
các đề tài nghiên cứu khoa học, dự án, đề án. Phần lớn cán bộ khoa học và công
nghệ về viễn thám đều đã và đang làm nhiệm vụ đúng chuyên môn, phù hợp với
chuyên môn sâu được đào tạo; rất ít người chuyển sang công tác ở các vị trí trái
với chuyên môn đã được đào tạo. Đối với các cán bộ có trình độ trên đại học,
mặc dù làm công tác quản lý, nhưng vẫn rất tích cực tham gia công tác chuyên
môn ở đơn vị công tác của mình hoặc tham gia nghiên cứ khoa học, giảng dạy ở
các cơ quan khác. Nhìn chung, xét về khía cạnh nhân sự, lĩnh vực viễn thám có
một đội ngũ cán bộ được đào tạo cơ bản, có kinh nghiệm trong công tác chuyên
môn, có thể phần nào đáp ứng trong công tác nghiên cứu và phát triển khoa học
và công nghệ viễn thám ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, trong những năm qua, đi đôi với sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học vũ trụ và công nghệ tin học, lĩnh vực viễn thám ở nước ta cũng có
bước phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế về nhân lực, đặc biệt
là đội ngũ chuyên gia, cán bộ trình độ cao về viễn thám. Đội ngũ cán bộ trẻ được
đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ, năng động nhưng còn thiếu kinh
nghiệm thực tế, các chuyên gia đầu ngành còn thấp; một số cán bộ có bề dày kinh
nghiệm nghiên cứu đã nghỉ hưu theo chế độ, nguy cơ thiếu hụt cán bộ chuyên
môn có trình độ và kinh nghiệm chuyên sâu. Một bộ phận cán bộ khoa học cán
bộ chủ chốt còn yếu về trình độ ngoại ngữ dẫn đến khả năng giao tiếp, trao đổi
chuyên môn và đàm phán hợp tác trong công tác khoa học và công nghệ còn
yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập hiện nay.
IV. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức
ngành tài nguyên và môi trường
4.1. Ở Trung ương
36
Trên cơ sở các quy định của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức,
viên chức và hướng dẫn của Bộ Nội vụ, hằng năm Bộ Tài nguyên và Môi trường
có văn bản yêu cầu các đơn vị trực thuộc Bộ xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng công chức, viên chức trên cơ sở Quy hoạch phát triển nhân lực ngành;
chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực và phù hợp với vị trí việc làm của cán bộ,
chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu ngạch của đơn vị.
Do nguồn kinh phí về kinh phí đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức
được phân bổ rất hạn hẹp, đến nay Bộ Tài nguyên và Môi trường chưa ban hành
và thực hiện được chính sách ưu đãi trong đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên
chức. Tuy nhiên, Bộ đã tạo điều kiện tối đa để công chức, viên chức được tham
gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, về tiêu chuẩn chức
danh cán bộ, lãnh đạo, tiêu chuẩn ngạch công chức, tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp viên chức cũng như các chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp do các
cá nhân chủ động liên hệ hoặc từ sự hỗ trợ của nước ngoài, các chương trình hợp
tác về đào tạo và trao đổi chuyên gia.
Việc tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức của
Bộ Tài nguyên và Môi trường được thực hiện theo các quy định tại Nghị định số
101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức, Thông tư số 01/2018/TT-BNV ngày 08/01/2018 của Bộ
trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP;
Quyết định số 186/QĐ-BTNMT ngày 19/02/2013 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên
và Môi trường ban hành Quy chế quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Trong đó: Đào tạo, bồi
dưỡng trong nước tập trung vào việc trang bị trình độ lý luận chính trị theo tiêu
chuẩn quy định cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ quy hoạch; nâng trình độ
chuyên môn nghiệp vụ; bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước theo
tiêu chuẩn ngạch công chức và chức danh nghề nghiệp hạng viên chức; bồi
dưỡng các kỹ năng mềm, kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế về tài nguyên và
môi trường, kiến thức pháp luật, quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường,
ngoại ngữ, tin học...; các khóa bồi dưỡng ở nước ngoài tập trung vào việc bồi
dưỡng kiến thức, học tập kinh nghiệm của các nước về quản lý và phát triển
nguồn nhân lực lĩnh vực tài nguyên và môi trường; về kinh nghiệm quản lý nhà
nước về tài nguyên và môi trường, trong đó ưu tiên học tập về những lĩnh vực
tác động trực tiếp đến đời sống dân sinh và an ninh quốc gia như: dự báo khí
tượng thủy văn, biến đổi khí hậu, quản lý biển và hải đảo, quản lý và bảo vệ môi
trường, tài nguyên nước.
Theo quy định tại Luật Viên chức và Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày
12/4/2012 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức
theo phân cấp đào tạo, bồi dưỡng quy định tại Nghị định số 101/2017/NĐ-CP;
theo các Thông tư liên tịch của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nội vụ từ
số 52 đến số 57/2015/TT-BTNMT-BNV quy định mã số và tiêu chuẩn CDNN
VC chuyên ngành: địa chính, điều tra tài nguyên môi trường, dự báo khí tượng
thuỷ văn, kiểm soát khí tượng thuỷ văn, quan trắc tài TNMT và đo đạc bản đồ;
Bộ Tài nguyên và Môi trường với chức năng quản lý viên chức chuyên ngành tài
37
nguyên và môi trường, Bộ đã triển khai xây dựng nội dung, chương trình, tài
liệu và tổ chức các khóa bồi dưỡng về Chương trình bồi dưỡng tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp viên chức ngành tài nguyên và môi trường hạng II và hạng III;
các chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp chuyên ngành (đối
với viên chức không đáp ứng tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy
định về tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành tài nguyên
và môi trường).
Bên cạnh nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước cấp cho công tác đào tạo,
bồi dưỡng công chức, viên chức, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã huy động các
nguồn kinh phí khác từ các chương trình, đề tài, đề án, dự án trong nước và
nước ngoài hoặc từ nguồn kinh phí của các đơn vị sự nghiệp để tăng cường cho
công tác đào tạo, bồi dưỡng. Trong những năm gần đây, thông qua các chương
trình hợp tác song phương, đa phương, đã giúp công chức, viên chức của Bộ có
điều kiện nghiên cứu sâu hơn những vẫn đề chuyên môn, cập nhật những kiến
thức khoa học công nghệ tiên tiến, kỹ năng mới để ứng dụng vào công việc,
phục vụ tốt hơn yêu cầu của công việc trong tình hình mới.
Nhằm đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức,
Bộ đã quan tâm nghiên cứu đổi mới nội dung, chương trình đào tạo theo đối
tượng đào tạo và yêu cầu quản lý, đa dạng hóa các nguồn đầu tư, quan tâm đào
tạo nguồn nhân lực, chính sách thu hút nhân lực, nhân tài làm việc trong lĩnh
vực tài nguyên và môi trường. Các cơ sở đào tạo thuộc Bộ đã xây dựng một số
chương trình bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành như: Bồi dưỡng chuyên môn về
lĩnh vực địa chính, môi trường; Bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ về
định giá đất; Bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ về thanh tra, kiểm tra
và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai; Bồi dưỡng kiến thức tiếng Anh chuyên
ngành địa chất - khoáng sản, môi trường và đất đai; Bồi dưỡng cho công chức
Địa chính - Môi trường cấp xã theo Đề án 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Đào tạo nghề cho lao động nông thôn
đến năm 2020"...Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ thành lập Trường Đại học
Tài nguyên và Môi trường Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, nâng cấp
Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung thành Phân hiệu
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội tại tỉnh Thanh Hóa. Bộ đã
ban hành các văn bản về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức như
sau: Quyết định phê duyệt Quy hoạch Phát triển nhân lực ngành tài nguyên và
môi trường giai đoạn 2012 - 2020; điều chỉnh Quy hoạch phát triển nhân lực
ngành tài nguyên và môi trường đến năm 2020 định hướng đến năm 2030; Quy
chế quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của Bộ;
Quy chế quản lý công tác đào tạo của các cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ; Kế hoạch
hành động của Bộ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội
nghị lần tứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế;
Chiến lược phát triển Trường đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035. Bên cạnh
đó, Bộ trưởng đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-BTNMT ngày 20/5/2014 về tăng
38
cường công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập của ngành tài
nguyên và môi trường. Tổ chức Hội thảo quốc gia về đào tạo, phát triển đội ngũ
chuyên gia, cán bộ khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực tài nguyên và môi
trường; Hội thảo mạng lưới các cơ sở đào tạo chuyên ngành tài nguyên và môi
trường
Ngoài ra, Bộ đã kiến nghị và được Chính phủ cho phép thành lập Trường
Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ tài nguyên và môi trường trên cơ sở hợp nhất, tổ
chức lại các đơn vị hiện đang được giao chức năng đào tạo, bồi dưỡng trong Bộ
gồm: Trung tâm Đào tạo nghiệp vụ và bồi dưỡng cán bộ, công chức trực thuộc
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội; Trung tâm Đào tạo và
Truyền thông trực thuộc Tổng cục Môi trường; Trung tâm Đào tạo và Truyền
thông trực thuộc Tổng cục Quản lý đất đai; Trung tâm Đào tạo và Truyền thông
trực thuộc Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam; Trung tâm Ứng dụng công nghệ
và Bồi dưỡng nghiệp vụ khí tượng thủy văn trực thuộc Trung tâm Khí tượng
Thủy văn quốc gia. Việc thành lập Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ tài nguyên
và môi trường của Bộ không những đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
năng lực về quản lý hành chính nhà nước cho đội ngũ công chức hành chính của
Bộ, bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành tài
nguyên và môi trường hạng II và hạng III ở cả Trung ương lẫn địa phương mà
còn phục vụ việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức và người lao
động trong toàn ngành từ trung ương tới địa phương, góp phần thực hiện ngày
càng tốt hơn sứ mệnh phục vụ chức năng quản lý nhà nước của ngành tài nguyên
và môi trường.
Nhìn chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức đã được
quan tâm và đạt được những kết quả tích cực, toàn diện; tạo ra nhận thức đầy đủ
hơn, cách làm bài bản hơn, hiệu quả hơn; việc tăng cường, mở rộng hợp tác về
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức đã được đẩy mạnh.
4.2. Ở địa phương
Tính riêng trong năm 2018 và năm 2019, ngoài việc bồi dưỡng cho đội ngũ
công chức, viên chức của Bộ, trong thời gian qua, các cơ sở bồi dưỡng của Bộ
đã phối hợp rất tốt với Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội
ngũ công chức, viên chức của địa phương như (số liệu tính từ năm 2018 đến
nay): khoảng… người tham gia lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý tài nguyên và
môi trường dành cho lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường; 2.539 viên chức
tham gia các lớp bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức
TNMT hạng III, trong đó có 2.192 viên chức thuộc các đơn vị sự nghiệp trực
thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; 367 viên chức tham gia các lớp bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh
nghề nghiệp hạng II, trong đó có 96 viên chức thuộc các đơn vị sự nghiệp
trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương và 150 viên chức tham gia các khoá bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp chuyên ngành địa chính, đo đạc bản đồ, khí tượng thủy văn và địa chất
39
khoáng sản; khoảng 150 người tham gia bồi dưỡng chuyên sâu về môi trường
(quản lý chất thải và kế hoạch bảo vệ môi trường gắn liền với xây dựng nông
thôn mới) cho công chức địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường xã.
Trong thời gian tới, Bộ tiếp tục tổ chức các lớp bồi dưỡng nêu trên nhằm
đáp ứng tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ công chức, viên
chức của địa phương. Trong năm 2019, Bộ sẽ phối hợp với Bộ Nội vụ tổ chức
biên soạn chương trình, tài liệu bồi dưỡng chuyên sâu về môi trường (quản lý
chất thải và kế hoạch bảo vệ môi trường gắn liền với xây dựng nông thôn mới)
cho công chức địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường xã và
Chương trình Bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ về bảo vệ môi trường cơ sở sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và một số hoạt động sản xuất quy mô nông hộ phục
vụ cho công chức địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường xã và sẽ tổ
chức bồi dưỡng thí điểm ngay sau khi hoàn thiện các bộ Chương trình bồi
dưỡng này.
V. Thực trạng các cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ
Bộ Tài nguyên và Môi trường có 02 Trường Đại học: Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội, Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh và 03 Viện
đang đào tạo trình độ tiến sỹ, bao gồm: Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản,
Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, Viện Khoa học Đo đạc
và Bản đồ.
Về các ngành, chuyên ngành đào tạo, hiện tại các trường đại học trực thuộc
Bộ đang đào tạo các chuyên ngành đại học: Công nghệ kỹ thuật môi trường; Khí
tượng thủy văn biển; Kế toán; Quản lý tài nguyên nước; Kỹ thuật trắc địa bản
đồ; Quản lý đất đai; Khí tượng học; Thuỷ văn; Công nghệ thông tin; Quản lý tài
nguyên môi trường; Kỹ thuật địa chất; Quản lý biển; Biến đổi khí hậu và phát
triển bền vững; Kinh tế tài nguyên thiên nhiên; Khoa học đất; Quản trị Dịch vụ
du lịch và lữ hành; Kế toán. Các chuyên ngành thạc sỹ: Khoa học Môi trường;
Kỹ thuật Trắc địa - Bản đồ; Thuỷ văn; Quản lý Đất đai; Khí tượng và Khí hậu
học. Các Viện trực thuộc Bộ đang thực hiện đào tạo trình độ tiến sỹ các chuyên
ngành: Địa chất học, Khoáng vật học và địa hóa học, Khí tượng và Khí hậu học,
Thủy văn học, Hải dương học, Quản lý tài nguyên và môi trường, Biến đổi khí
hậu và phát triển bền vững, Kỹ thuật Trắc địa - Bản đồ.
Về quy mô đào tạo, các Trường hiện đang đào tạo với lưu lượng trung bình
khoảng 9.000 sinh viên/năm. Trong giai đoạn từ 2010 đến năm 2015, các
Trường đã đào tạo được khoảng 10.000 sinh viên hệ cao đẳng, khoảng 4.000
sinh viên hệ trung cấp. Tuy nhiên, về quy mô đào tạo giữa các ngành chưa cân
đối, một số lĩnh vực còn thiếu ngành đào tạo như lĩnh vực biển và hải đảo, biến
đổi khí hậu, quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; một số ngành
đào tạo có đông đảo lượng sinh viên theo học nhưng một số ngành khác ít có
sinh viên học như ngành Khí tượng, Thủy văn, Địa chất... Tại các Viện, lưu
lượng đào tạo hàng năm khoảng 15 nghiên cứu sinh; tính đến nay, các Viện đã
đào tạo được gần 200 tiến sỹ.
40
Về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng thí nghiệm, các điều kiện về cơ sở
vật chất cơ bản đáp ứng được yêu cầu học tập, sinh hoạt của học sinh, sinh viên
tại thời điểm hiện tại. Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội có 03
cơ sở với diện tích đất trên 7 ha và 4.662 m2 diện tích phòng học và phụ trợ,
Phân hiệu Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường tại tỉnh Thanh Hóa có mặt
bằng 4,5 ha và 2.500 m2 xây dựng, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường
thành phố Hồ Chí Minh có 02 cơ sở với diện tích đất trên 6 ha. Các Trường đã
được trang bị các phòng thí nghiệm về môi trường, địa chính, đo đạc bản đồ, khí
tượng thủy văn, bước đầu đáp ứng được nhu cầu thực hành, thí nghiệm và
nghiên cứu khoa học của sinh viên và cán bộ giảng viên. Cơ sở vật chất, trang
thiết bị của phòng phân tích, thí nghiệm phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học
được trang bị tương đối đầy đủ, cơ bản đáp ứng yêu cầu đào tạo và nghiên cứu
khoa học. Tuy nhiên, tại các Trường, phòng học còn chưa đáp ứng yêu cầu đào
tạo theo học chế tín chỉ, phòng thí nghiệm, thực hành chưa được hiện đại hoá,
nhiều trang thiết bị thí nghiệm đã lạc hậu; kinh phí đầu tư, đổi mới trang thiết bị
hàng năm còn hạn hẹp; diện tích đất và diện tích sàn xây dựng chưa đảm bảo tỷ
lệ theo quy định.
Trong bối cảnh hiện nay, thực hiện Nghị quyết số 29/NQ-TW của Trung
ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hướng dẫn các cơ sở
đào tạo triển khai nhiều giải pháp mang tính đột phá để nâng cao chất lượng đào
tạo và đã đạt được những kết quả tích cực, được xã hội đánh giá, công nhận,
trong đó có những kết quả tích cực trong công tác tuyển sinh, đào tạo.
Tuy nhiên, hiện nay, đối với một số chuyên ngành đặc thù của Bộ Tài
nguyên và Môi trường, việc tuyển sinh tại các trường đại học trực thuộc Bộ rất
khó khăn. Một số ngành đòi hỏi thí sinh đầu vào cao trong các môn học như:
toán, lý, hóa, sinh … nhưng số lượng thí sinh đăng ký vào ngành thấp nên không
có cơ hội lựa chọn các thí sinh có chất lượng cao. Một số chuyên ngành, số
lượng thí sinh học theo các khóa chưa đảm bảo cơ cấu mở lớp nhưng các chuyên
ngành gắn với các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ và đội ngũ giảng viên cơ
hữu đã công tác, gắn bó với trường nhiều năm nên các trường vẫn phải duy trì
tuyển sinh, đào tạo. Điều này gây khó khăn cho công tác đào tạo của trường, đặc
khi các trường tiến tới tự chủ đại học năm vào năm 2020.
Nguyên nhân của việc khó tuyển sinh một số các chuyên ngành của các
trường trực thuộc Bộ một phần do các cơ quan ban ngành đang trong giai đoạn
tinh giảm bộ máy, biên chế, các chuyên ngành tài nguyên môi trường là chuyên
ngành đặc thù nên nhu cầu tuyển dụng không nhiều, sinh viên ra trường khó có
cơ hội tìm kiếm việc làm; chế độ chính sách tiền lương, điều kiện làm việc có sự
chênh lệch giữa cơ quan quản lý nhà nước và khối doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp tư nhân.... nên không hấp dẫn sinh viên theo học các chuyên
ngành tài nguyên môi trường. Cơ chế, chính sách ưu đãi đối với các ngành đào
tạo đặc thù chưa đồng bộ, thống nhất từ trung ương đến địa phương nên các
trường chưa có cơ sở để thu hút tuyển sinh.
41
VI. Một số vấn đề đặt ra
6.1. Về chức năng, nhiệm vụ
Bản chất của vấn đề tài nguyên và môi trường có tính chất liên vùng, liên
ngành; nhiều vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn và nhiệm vụ quản lý tài nguyên
và môi trường được quy định ở nhiều đạo luật và văn bản quy phạm pháp luật
chuyên ngành khác nhau. Tuy về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tài nguyên và
Môi trường được quy định tại Nghị định số 36/2017/NĐ-CP cơ bản không có
sự trùng lắp, chồng chéo với bộ, ngành khác nhưng pháp luật chuyên ngành về
bảo vệ môi trường, đầu tư, xây dựng, đa dạng sinh học, quản lý chất thải rắn,
quản lý hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, tài nguyên nước, thủy lợi, bảo vệ và
phát triển rừng… còn có các nội dung quy định giao thoa về trách nhiệm quản lý
giữa các cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa Bộ Tài
nguyên và Môi trường với các bộ, ngành liên quan và các địa phương còn chưa
đi vào thực chất, hiệu quả; việc thiếu cơ chế điều tiết liên vùng dẫn đến sự chồng
chéo trong quy hoạch, không khai thác được các tiềm năng thế mạnh của mỗi
địa phương cho sự phát triển chung của vùng.
Các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài nguyên và Môi
trường là những lĩnh vực có tính chất phức tạp, nhạy cảm, liên quan trực tiếp
đến quyền lợi của người dân, doanh nghiệp, tổ chức, có tác động lớn đến bảo
đảm an ninh quốc phòng, sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển bền vững
của đất nước. Tuy nhiên, công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành vẫn chưa
được tăng cường dẫn đến việc thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về tài nguyên
và tài nguyên chưa được đảm bảo. Nhiều lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của Bộ chưa được giao chức năng thanh tra chuyên ngành như: biển và hải
đảo, khí tượng thủy văn, tài nguyên nước, đo đạc và bản đồ.
Các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường đều có sự
phân cấp đến Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với
mục tiêu quy định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi
cấp trong hệ thống hành chính nhà nước. Tuy nhiên, việc phân cấp chưa đồng bộ
về nhiệm vụ, tài chính, nhân sự mà chủ yếu phân cấp về nhiệm vụ. Phân cấp
chưa phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương, chưa tương xứng với năng lực
quản lý, đặc biệt là đội ngũ nhân sự còn thiếu về số lượng và yếu kém về chuyên
môn, nghiệp vụ; điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn chưa bảo đảm cho việc
thực hiện nhiệm vụ. Bên cạnh đó, vẫn có sự chồng chéo với các ngành, lĩnh vực
khác, như: ngành Tư pháp (quản lý đất đai - tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất),
ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (quản lý tài nguyên nước - xả nước
thải vào công trình thủy lợi), ngành Nội vụ (lĩnh vực đo đạc và bản đồ - xác định
ranh giới hành chính, địa danh)... Mặt khác, việc phân cấp quản lý trong các quy
định của pháp luật chưa đủ mạnh (nhất là trong lĩnh vực bảo vệ môi trường), nên
quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ còn nhiều khó khăn, bất cập; công tác
thanh tra, kiểm tra việc thực thi pháp luật trong lĩnh vực tài nguyên và môi
trường; đặc biệt là công tác thực hiện việc phân cấp, ủy quyền còn hạn chế do số
42
lượng cán bộ của các cơ quan thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra của Ngành
còn rất thiếu11
.
6.2. Về tổ chức bộ máy
Tổ chức bộ máy của ngành liên tục được kiện toàn theo hướng tinh gọn,
hiệu quả. Bộ máy quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường tại Trung ương
và địa phương cơ bản đã thống nhất, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được
giao.
Triển khai Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban
Chấp hành Trung ương về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số
19-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp
tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp công lập, hiện nay các địa phương đang tiến hành
kiện toàn tổ chức bộ máy của ngành tài nguyên và môi trường ở địa phương
trong điều kiện chưa có hướng dẫn cụ thể của Trung ương, do vậy, tổ chức bộ
máy của ngành được kiện toàn theo các mô hình khác nhau, dẫn tới khó khăn
trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ.
Nhiệm vụ của các phòng, tổ chức thuộc Sở không đồng đều, dẫn tới thực
trạng một số phòng, tổ chức được thành lập nhưng nhiệm vụ, đối tượng quản lý
còn hạn chế (Phòng Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, Chi cục Biển và
Hải đảo). Mô hình tổ chức của các chi cục còn hạn chế, chưa có sự phân cấp về
quyền hạn của Sở cho các chi cục, phát sinh tầng nấc trung gian và biên chế làm
công tác hành chính, văn phòng. Cơ cấu tổ chức theo quy định chưa bảo đảm
tính phù hợp với từng vùng, miền, đặc điểm, đối tượng quản lý của từng địa
phương. Theo Nghị quyết Trung ương 6 Khóa XII (Nghị quyết số 19-NQ/TW)
các Trung tâm phát triển quỹ đất về trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện quản
lý. Tuy nhiên đến nay chưa có hướng dẫn cụ thể, nên các địa phương lúng túng
trong việc tổ chức thực hiện. Nhiều địa phương đề nghị Bộ có hướng dẫn về
chức năng, nhiệm vu, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của một số
đơn vị sự nghiệp (Trung tâm Công nghệ thông tin tài nguyên và môi trường,
Trung tâm Quan trắc tài nguyên và môi trường,…).
6.3. Về nguồn nhân lực
So với khối lượng công việc của ngành tài nguyên và môi trường hiện nay,
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của ngành còn rất thiếu về
số lượng và chưa đáp ứng về chất lượng.
Ở cấp Trung ương, những năm qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường được
giao bổ sung một số chức năng, nhiệm vụ và thành lập mới các tổ chức (Cục
Viễn thám quốc gia; Cục Quản lý tài nguyên nước có các chi cục tại thành phố
Hồ Chí Minh, khu vực Bắc Trung Bộ, khu vực miền Trung và Tây Nguyên; 11
Số liệu tổng hợp năm 2018: tổng số cán bộ của các tổ chức thanh tra về tài nguyên và môi trường chỉ có 670
người; trong đó có Sở chỉ có 04 cán bộ như: Điện Biên, Hưng Yên, số lượng cán bộ thanh tra của Ngành chỉ bằng
30 - 50% khi so sánh với một số Ngành khác (Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng, Giao thông vận
tải) và chỉ bằng 15% so với lực lượng cảnh sát môi trường (với tổng số 4.300 cán bộ, chiến sỹ).
43
Tổng cục Môi trường được thành lập Cục Môi trường miền Trung và Tây
Nguyên, Cục Môi trường miền Nam; Cục Quản lý chất thải và Cải thiện môi
trường có thêm Chi cục Bảo vệ môi trường lưu vực sông Cầu, Chi cục Bảo vệ
môi trường lưu vực sông Nhuệ Đáy); Tổng cục Khí tượng Thủy văn quốc
gia); tuy nhiên đến nay, chỉ có Cục Viễn thám quốc gia mới được chuyển đổi 30
biên chế sự nghiệp sang biên chế công chức, các tổ chức khác đã thành
lập nhưng chưa được giao biên chế công chức. Bên cạnh đó, hằng năm, Bộ Tài
nguyên và Môi trường vẫn bị cắt giảm biên chế theo định mức chung; dẫn đến
có một số đơn vị mới thành lập (Tổng cục, Cục trực thuộc Bộ, Cục trực thuộc
Tổng cục) số lượng biên chế được giao không đủ để bố trí cho các vị trí việc làm
theo chức năng, nhiệm vụ được giao; bên cạnh đó, hiện nay các đơn vị này đều
phải thực hiện chính sách cắt giảm biên chế theo quy định, do đó, việc bố trí, sử
dụng công chức theo vị trí việc làm rất khó khăn.Bên cạnh đó, phần lớn số công
chức, viên chức được đào tạo về các chuyên ngành kỹ thuật, thiếu kỹ năng quản
lý; một số lĩnh vực có sự hụt hẫng về đội ngũ công chức, viên chức có trình độ
cao, chuyên môn sâu. Số công chức, viên chức, chuyên gia được đào tạo trình độ
cao ở các nước tiên tiến trên thế giới trước đây đã nghỉ hưu hoặc chuẩn bị nghỉ
hưu hiện nay chưa có đội ngũ chuẩn bị thay thế.
Ở địa phương, biên chế công chức của các Sở Tài nguyên và Môi trường,
Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện tương đối hạn chế so với chức
năng, nhiệm vụ được giao, chưa bảo đảm được việc thành lập, kiện toàn các tổ
chức trực thuộc theo đúng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 50/2014/TTLT-
BTNMT-BNV. Theo thống kê, số biên chế công chức trung bình của các Sở Tài
nguyên và Môi trường hiện nay là 67 biên chế.Phòng Tài nguyên và Môi trường
cấp huyện là 7 - 8 biên chế (cá biệt có Phòng Tài nguyên và Môi trường chỉ
được giao 4 - 5 biên chế). Đối với công chức tài nguyên và môi trường cấp xã,
mỗi xã chỉ bố trí 01-02 cán bộ làm công tác địa chính, môi trường, kiêm nhiệm
thêm các nhiệm vụ khác về xây dựng, đô thị, giao thông, nông nghiệp, nông
thôn mới. Do khối lượng công việc lớn lại phải kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ,
trong khi chất lượng đội ngũ còn thấp so với yêu cầu công việc dẫn tới công tác
tham mưu, triển khai thực hiện nhiệm vụ về quản lý đất đai, tài nguyên và môi
trường của công chức địa chính xã còn hạn chế về tiến độ và chất lượng, hiệu
quả công việc.
Trình độ đội ngũ cán bộ, công chức địa phương không đồng đều. Tỷ lệ cán
bộ quản lý ở các lĩnh vực còn mất cân đối, hiện nay đang tập trung nhiều ở lĩnh
vực quản lý đất đai, trong khi đó cán bộ về môi trường, địa chất khoáng sản, tài
nguyên nước, quản lý biển, hải đảo, biến đổi khí hậu, khí tượng thủy văn còn rất thiếu.
Lực lượng nhân lực quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường còn rất
mỏng, nhất là lực lượng thanh tra. Số lượng công chức của các cơ quan thực
hiện công tác thanh tra, kiểm tra của ngành còn rất thiếu12
. Trong khi đó, tài
nguyên và môi trường là ngành quản lý nhiều lĩnh vực phức tạp, với phạm vi
12
Theo số liệu năm 2018, có tới 14% số Sở chỉ có từ 4 đến 5 cán bộ thanh tra; bằng 30 - 50% so với một số
ngành khác
44
rộng và số lượng đối tượng quản lý rất lớn13
. Đồng thời, ngoài các nhiệm vụ
thanh tra, kiểm tra, cán bộ thanh tra còn phải thực hiện các nhiệm vụ tiếp công
dân, xử lý và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo14
và tham gia vào nhiều đoàn
công tác liên ngành khi được yêu cầu.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ ngành tài nguyên và môi trường ở địa phương
hình thành chủ yếu trên cơ sở đội ngũ cán bộ ngành địa chính trước đây. Khối
lượng nhiệm vụ hiện nay tại địa phương chủ yếu vẫn tập trung giải quyết các
vấn đề về quản lý đất đai; tuy nhiên, các vấn đề khác, nhất là về quản lý môi
trường, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, biển, hải đảo (đối với các địa
phương có biển) ngày càng trở nên cấp thiết và cần bố trí một cơ cấu nhân lực
phù hợp. Trong khi đó, chuyên ngành đào tạo của công chức, viên chức chủ yếu
là quản lý đất đai, kinh tế. Đối với các chuyên ngành môi trường, địa chất số
lượng cán bộ chiếm tỷ lệ nhỏ. Sự mất cân đối về số lượng, chuyên ngành đào tạo
làm ảnh hưởng đến việc thực thi các nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên
và môi trường ở địa phương. Có sự mất cân đối về trình độ đào tạo của cán bộ
ngành tài nguyên và môi trường giữa các vùng, miền; trong đó, vùng đồng bằng,
đô thị có tỷ lệ cán bộ được đào tạo đại học và sau đại học lớn hơn nhiều so với
vùng miền núi, nông thôn, vùng khó khăn, đặc biệt là các vùng: Tây Bắc, Tây
Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long.
6.4. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng
Theo quy định về nội dung đào tạo, bồi dưỡng tại Nghị định số
101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ, việc thực hiện bồi dưỡng theo
yêu cầu của vị trí việc làm, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành chưa
được quan tâm, thực hiện thường xuyên. Còn tình trạng một số công chức, viên
chức đi học với mục đích chỉ để lấy được chứng chỉ đáp ứng theo tiêu chuẩn
ngạch công chức, hạng viên chức hoặc yêu cầu của vị trí việc làm nên không
chú trọng đến việc học tập, bồi dưỡng để lấy kiến thức, kỹ năng làm việc. Điều
này gây nên tình trạng công chức, viên chức tham gia bồi dưỡng theo kiểu đối
phó, không tương tác tốt với giảng viên và các học viên khác. Nhu cầu đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của ngành tài nguyên
và môi trường hiện nay rất lớn, tuy nhiên, số lượng được đào tạo, bồi dưỡng
theo yêu cầu do kinh phí còn hạn chế, đặc biệt kinh phí dành cho viên chức, chủ
yếu là tự túc từ phía người học (do theo quy định tại Thông tư số 36/2018/TT-
BTC ngày 30/3/2018 của Bộ Tài chính thì từ nay ngân sách nhà nước không cấp
kinh phí đào tạo cho viên chức).
Công tác đào tạo nhân lực cho ngành trong các năm qua còn nhiều bất cập,
mất cân đối giữa các ngành, các cấp đào tạo. Hiện nay, một số chuyên ngành đặc
thù của Bộ Tài nguyên và Môi trường rất khó tuyển sinh tại các trường đại học
như: biển và hải đảo, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ… dẫn đến thiếu hụt
13
Chỉ tính riêng một số đối tượng có liên quan đến lĩnh vực đất đai, môi trường và tài nguyên nước đã là 280
khu công nghiệp, 620 cụm công nghiệp, 500.000 cơ sở sản xuất, 4.500 làng nghề. 14
Hàng năm phải xử lý 3.000 - 4.000 lượt đơn; trong đó, phải giải quyết 2.000-2.500 vụ việc được giao hoặc
thẩm quyền giải quyết.
45
nhân lực cả ở Trung ương và địa phương. Nguyên nhân của việc khó tuyển sinh
một số các chuyên ngành nêu trên một phần do các cơ quan ban ngành đang
trong giai đoạn tinh giảm bộ máy, biên chế, nhu cầu tuyển dụng không nhiều,
sinh viên ra trường khó có cơ hội tìm kiếm việc làm; chế độ chính sách tiền
lương, điều kiện làm việc có sự chênh lệch giữa cơ quan quản lý nhà nước và
khối doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân.... nên không hấp dẫn sinh
viên theo học các chuyên ngành tài nguyên môi trường. Cơ chế, chính sách ưu
đãi đối với các ngành đào tạo đặc thù chưa đồng bộ, thống nhất từ trung ương
đến địa phương nên các trường chưa có cơ sở để thu hút tuyển sinh.
PHẦN 3. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI CỦA ĐỀ ÁN
I. Mục tiêu
1. Mục tiêu tổng quát
Kiện toàn hệ thống tổ chức, nâng cao năng lực đội ngũ công chức, viên
chức, người lao động thuộc ngành tài nguyên và môi trường từ Trung ương đến
địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về tài nguyên và
môi trường; phát triển ngành tài nguyên và môi trường ngày càng chính quy,
hiện đại, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế và
bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
2. Mục tiêu cụ thể
2.1. Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên và
môi trường từ Trung ương đến địa phương theo hướng tập trung, thống nhất một
đầu mối, có phân công, phân cấp hợp lý, cụ thể giữa các cơ quan Trung ương và
giữa Trung ương với địa phương.
2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tài nguyên và môi
trường từ Trung ương đến địa phương phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, theo
hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ trước mắt và
lâu dài.
2.3. Cơ cấu, số lượng công chức, viên chức, số người làm việc, người lao
động trong các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường được sắp
xếp lại, bổ sung, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
2.4. Đội ngũ cán bộ quản lý về tài nguyên và môi trường từ Trung ương
đến địa phương, đặc biệt là cán bộ địa phương, cơ sở được đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao năng lực, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về tài nguyên và môi
trường, gắn với tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm.
2.5. Hệ thống thanh tra ngành tài nguyên và môi trường từng bước được
hoàn thiện, đội ngũ cán bộ thanh tra được đào tạo nghiệp vụ chuyên ngành và
hoạt động mang tính chuyên nghiệp; có đủ các trang thiết bị phục vụ cho công
tác thanh tra, kiểm tra.
II. Đối tượng của Đề án
46
1. Các đơn vị trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường.
2. Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
trên cả nước.
3. Phòng Tài nguyên và Môi trường các quận, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
4. Cán bộ địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị
trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã).
III. Phạm vi của Đề án
Thời gian thực hiện Đề án: từ năm 2020 đến năm 2030.
Phần 4. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
I. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường từ Trung ương
đến địa phương theo hướng tập trung, thống nhất một đầu mối, có phân
công, phân cấp phù hợp, cụ thể giữa các Bộ, ngành; giữa Trung ương và
địa phương.
1.1. Rà soát, đánh giá thực trạng việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản
lý nhà nước về tài nguyên và môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các
Bộ, ngành liên quan và địa phương; rà soát, đánh giá thực trạng việc thực hiện
phân cấp trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên và môi
trường giữa Trung ương và địa phương.
1.2. Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài nguyên và Môi
trường theo hướng giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tài nguyên
và môi trường; phân công, phân cấp phù hợp, rõ ràng, tránh sự chồng chéo trong
quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường giữa Bộ Tài nguyên và Môi
trường với các Bộ, ngành khác, giữa Trung ương và địa phương.
1.3. Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan chuyên
môn giúp việc cho Ủy ban nhân dân các cấp về tài nguyên và môi trường; phân
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa cơ quan chuyên môn giúp việc Ủy
ban nhân dân các cấp về tài nguyên và môi trường với các cơ quan chuyên môn
khác.
II. Rà soát, đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy, đề xuất kiện toàn tổ
chức bộ máy của các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi
trường từ Trung ương đến địa phương.
2.1. Rà soát, đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy của cơ quan quản lý nhà
nước về tài nguyên và môi trường Trung ương; đề xuất sắp xếp, kiện toàn tổ
chức bộ máy Bộ Tài nguyên và Môi trường đảm bảo khoa học, tránh chồng chéo
về chức năng, nhiệm vụ giữa các đơn vị trong Bộ.
2.2. Rà soát, đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy cơ quan chuyên môn về
tài nguyên và môi trường địa phương; đề xuất kiện toàn tổ chức bộ máy, bảo
đảm thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao.
47
2.3. Đề xuất mô hình tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và
môi trường ở Trung ương và địa phương cho giai đoạn 2025 - 2030 phù hợp với
tình hình và nhiệm vụ của giai đoạn phát triển mới, xu thế hội nhập và thông lệ
quốc tế.
III. Rà soát, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ngành tài nguyên và
môi trường từ Trung ương đến địa phương; phân tích nhu cầu, cơ cấu nhân
lực trong các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường; cơ
cấu sắp xếp lại dựa trên các nguyên tắc, tiêu chuẩn hóa công chức, viên
chức đảm bảo đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và phục vụ quản lý nhà
nước về tài nguyên và môi trường.
3.1. Rà soát, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ngành tài nguyên và môi
trường từ Trung ương đến địa phương về số lượng và chất lượng; thực trạng đáp
ứng yêu cầu công việc theo vị trí việc làm và tiêu chuẩn chức danh cán bộ quản
lý tài nguyên và môi trường từ Trung ương đến địa phương.
3.2. Phân tích, dự báo nhu cầu nhân lực, cơ cấu công chức, viên chức,
người lao động trong các đơn vị quản lý nhà nước và đơn vị sự nghiệp ngành tài
nguyên và môi trường.
3.3. Sắp xếp, bố trí, bổ sung công chức, viên chức trong các cơ quan quản
lý môi trường từ Trung ương đến địa phương đảm bảo phù hợp với nhiệm vụ được
giao.
IV. Rà soát, đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát
triển nguồn nhân lực ngành tài nguyên và môi trường; đánh giá nhu cầu
đào tạo, bồi dưỡng; đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách về đào tạo, phát
triển và sử dụng nhân lực trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường; xây
dựng, thực hiện kế hoạch/chương trình đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn,
nghiệp vụ và các yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng khác cho cán bộ quản lý tài
nguyên môi trường từ Trung ương đến địa phương.
4.1. Rà soát, đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển
nguồn nhân lực ngành tài nguyên và môi trường về năng lực đào tạo, bồi dưỡng;
đội ngũ giảng viên; nội dung/chương trình đào tạo; nội dung/phương pháp giảng
dạy; trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, bồi dưỡng.
4.2. Điều tra, đánh giá, xác định đối tượng và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng
về chuyên môn, nghiệp vụ từ Trung ương đến địa phương; đánh giá, xác định
các đối tượng, khu vực trọng tâm, nội dung trọng tâm, trọng điểm đào tạo, bồi
dưỡng nhằm nâng cao năng lực cán bộ ngành tài nguyên và môi trường.
4.2. Lồng ghép nội dung đào tạo, phát triển nhân lực ngành tài nguyên và
môi trường vào các chủ trương, chính sách phát triển chung và chính sách, quy
hoạch, kế hoạch phát triển nhân lực của các Bộ, ngành, địa phương.
4.4. Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích cán bộ, công chức, viên
chức ngành tài nguyên và môi trường tự học tập, nâng cao kiến thức quản lý và
48
chuyên môn nghiệp vụ, tham gia nghiên cứu, giảng dạy ở các nước có trình độ
tiên tiến về tài nguyên và môi trường.
4.5. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách tuyển dụng, sử dụng và đãi
ngộ, ưu đãi đặc thù đối với cán bộ, công chức, viên chức ngành tài nguyên và
môi trường, đối với những người tham gia đào tạo về tài nguyên và môi trường;
hoàn thiện hệ thống chức danh, vị trí việc làm trong ngành tài nguyên và môi
trường.
4.6. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới cơ chế, chính sách khuyến
khích học sinh, sinh viên học các chuyên ngành về tài nguyên và môi trường, ưu
tiên các chuyên ngành khí tượng thủy văn, đo đạc bản đồ, địa chất khoáng sản.
4.7. Nghiên cứu đổi mới nội dung, chương trình, tài liệu đào tạo, tập huấn
cho các đối tượng, theo các nhu cầu đã được xác định; các điều kiện bảo đảm
thực hiện các chương trình đào tạo, tập huấn.
4.8. Tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho
các cán bộ quản lý tài nguyên và môi trường từ Trung ương đến địa phương; ưu
tiên cấp tỉnh, huyện, xã.
V. Tăng cường năng lực công tác thanh tra các lĩnh vực tài nguyên và
môi trường
5.1. Rà soát, đánh giá thực trạng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức thanh tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
5.2. Rà soát, đánh giá kết quả hoạt động thanh tra tài nguyên và môi
trường.
5.3. Đề xuất giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành cho các đơn
vị trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường; Sở Tài nguyên và Môi trường.
5.4. Đề xuất xây dựng mô hình tổ chức thanh tra ngành tài nguyên và môi
trường theo vùng.
5.5. Rà soát, đánh giá thực trạng nhân lực thuộc các cơ quan thanh tra về tài
nguyên và môi trường từ Trung ương đến địa phương.
5.6. Xây dựng và thực hiện các dự án cung cấp, đầu tư phương tiện, trang
thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp
hành pháp luật về tài nguyên và môi trường.
PHẦN V. KINH PHÍ THỰC HIỆN
Nguồn kinh phí xây dựng và triển khai thực hiện Đề án “Tăng cường năng
lực hệ thống tổ chức và đội ngũ công chức, viên chức ngành tài nguyên và môi
trường đến năm 2030” bao gồm nguồn ngân sách nhà nước phân bổ từ Trung
ương, địa phương và các nguồn tài trợ hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
PHẦN VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
49
Trên cơ sở những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể tại Phụ lục Đề án và giải pháp
tại Đề án; căn cứ chức năng nhiệm vụ đã được phân công, các Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương và các cơ quan liên quan xây dựng kế hoạch triển khai Đề án
theo từng giai đoạn 5 năm; cụ thể hóa thành các nhiệm vụ cụ thể trong kế hoạch
công tác hàng năm để thực hiện:
I. Bộ Tài nguyên và Môi trường
Bộ Tài nguyên và Môi trường điều phối việc tổ chức thực hiện Đề án, tổng
hợp tình hình thực hiện các nội dung, nhiệm vụ của Đề án định kỳ hàng năm báo
cáo Thủ tướng Chính phủ; chủ trì thực hiện các nội dung, nhiệm vụ được phân
công tại Phụ lục kèm theo Đề án này.
II. Bộ Nội vụ
Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ, cơ quan ngang Bộ,
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện các nội
dung, nhiệm vụ được phân công tại phụ lục kèm theo Đề án này.
III. Bộ Tài chính
Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi
trường và các Bộ, ngành liên quan xây dựng cơ chế, chính sách bảo đảm nguồn
kinh phí và hướng dẫn sử dụng ngân sách thực hiện đề án đúng quy định và đảm
bảo tiến độ kế hoạch của đề án; phối hợp kiểm tra, giám sát thực hiện Đề án.
IV. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng
kế hoạch huy động nguồn lực, phê duyệt kinh phí đầu tư để thực hiện đề án.
V. Các Bộ, ngành khác
Chỉ đạo các cơ sở đào tạo nghề trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường
thuộc phạm vi quản lý chủ động tham gia các hoạt động đào tạo theo kế hoạch
thực hiện Đề án.
VI. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện các nội dung, nhiệm vụ được phân
công tại Phụ lục kèm theo Đề án này; báo cáo kết quả thực hiện về Bộ Tài
nguyên và Môi trường trước ngày 31/12 hằng nằm và theo yêu cầu của Bộ Tài
nguyên và Môi trường.
BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
50
BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
PHỤ LỤC
Các nhiệm vụ ưu tiên triển khai Đề án
“Tăng cường năng lực đội ngũ công chức, viên chức ngành tài nguyên và
môi trường đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”
TT Nội dung/Công việc Sản phẩm cuối cùng
Phân công Thời gian
thực hiện
Đơn vị
chủ trì
Đơn vị
phối hợp
I Rà soát, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường từ Trung ương đến địa phương
theo hướng tập trung, thống nhất một đầu mối, có phân công, phân cấp phù
hợp, cụ thể giữa các Bộ, ngành; giữa Trung ương và địa phương
1.1 Rà soát, phân định
chức năng, nhiệm vụ
quản lý nhà nước
trong lĩnh vực tài
nguyên và môi
trường của các Bộ,
ngành, cơ quan liên
quan; đề xuất tổ chức
bộ máy của Chính
phủ thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước
về tài nguyên và môi
trường theo hướng
tập trung, thống nhất.
Báo cáo rà soát, đánh
giá thực trạng việc
thực hiện chức năng,
nhiệm vụ quản lý nhà
nước về tài nguyên và
môi trường của các
Bộ, ngành, cơ quan
liên quan; đề xuất tổ
chức bộ máy của
Chính phủ thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà
nước về tài nguyên và
môi trường theo
hướng tập trung,
thống nhất.
Bộ Nội
vụ
Bộ Tài
nguyên và
Môi
trường,
Bộ Nông
nghiêp và
Phát triển
nông
thôn, Bộ
Xây dựng,
Bộ Giao
thông vận
tải....;
UBND
các tỉnh,
thành phố
trực thuộc
Trung
ương
2020-2021
1.2 Rà soát, đánh giá
thực trạng việc thực
hiện chức năng,
nhiệm vụ quản lý
nhà nước của Bộ Tài
Báo cáo rà soát, đánh
giá thực trạng việc
thực hiện chức năng,
nhiệm vụ quản lý nhà
nước của Bộ Tài
Bộ Tài
nguyên
và Môi
trường
Bộ Nội
vụ, và
một số Bộ
ngành có
liên quan,
2020-2021
51
TT Nội dung/Công việc Sản phẩm cuối cùng
Phân công Thời gian
thực hiện
Đơn vị
chủ trì
Đơn vị
phối hợp
nguyên và Môi
trường.
nguyên và Môi
trường.
UBND
các tỉnh,
thành phố
trực thuộc
Trung
ương
1.3 Rà soát, đánh giá
thực trạng việc thực
hiện chức năng,
nhiệm vụ quản lý
nhà nước về tài
nguyên và môi
trường của các địa
phương.
Báo cáo rà soát, đánh
giá thực trạng việc
thực hiện chức năng,
nhiệm vụ quản lý nhà
nước về tài nguyên và
môi trường của các
địa phương.
UBND
các tỉnh,
thành
phố trực
thuộc
Trung
ương
Bộ Tài
nguyên và
Môi
trường,
các Bộ,
ngành có
liên quan
2020-2021
1.4 Rà soát, đánh giá
thực trạng việc phân
cấp và thực hiện
phân cấp trong thực
hiện nhiệm vụ quản
lý nhà nước về tài
nguyên và môi
trường giữa Trung
ương và địa phương
Báo cáo rà soát, đánh
giá thực trạng việc
phân cấp và thực hiện
phân cấp trong thực
hiện nhiệm vụ quản lý
nhà nước về tài
nguyên và môi trường
giữa Trung ương và
địa phương.
Bộ Tài
nguyên
và Môi
trường,
Bộ Nội
vụ
Một số Bộ
ngành có
liên quan;
UBND
các tỉnh,
thành phố
trực thuộc
Trung
ương
2020-2021
1.5 Hoàn thiện chức
năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Bộ
Tài nguyên và Môi
trường theo hướng
giúp Chính phủ
thống nhất quản lý
nhà nước về tài
nguyên và môi
trường; phân công,
phân cấp phù hợp, rõ
ràng, tránh sự chồng
chéo trong quản lý
nhà nước về tài
nguyên và môi
Báo cáo đề xuất hoàn
thiện chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn
của Bộ Tài nguyên và
Môi trường theo
hướng giúp Chính phủ
thống nhất quản lý
nhà nước về tài
nguyên và môi trường;
phân công, phân cấp
phù hợp, rõ ràng,
tránh sự chồng chéo
trong quản lý nhà
nước về tài nguyên và
môi trường giữa Bộ
Bộ Tài
nguyên
và Môi
trường
Bộ Nội
vụ, và
một số Bộ
ngành có
liên quan,
UBND
các tỉnh,
thành phố
trực thuộc
Trung
ương
2020-2021
52
TT Nội dung/Công việc Sản phẩm cuối cùng
Phân công Thời gian
thực hiện
Đơn vị
chủ trì
Đơn vị
phối hợp
trường giữa Bộ Tài
nguyên và Môi
trường với các Bộ,
ngành khác, giữa
Trung ương và địa
phương.
Tài nguyên và Môi
trường với các Bộ,
ngành khác, giữa
Trung ương và địa
phương.
1.6 Hoàn thiện chức
năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của cơ
quan chuyên môn
giúp việc cho Ủy ban
nhân dân các cấp về
tài nguyên và môi
trường; phân định
chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn giữa cơ
quan chuyên môn
giúp việc Ủy ban
nhân dân các cấp về
tài nguyên và môi
trường với các cơ
quan chuyên môn
khác.
Dự thảo Thông tư
hướng dẫn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn
của Sở Tài nguyên và
Môi trường thuộc Ủy
ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc
Trung ương (thay thế
Thông tư số
50/2014/TTLT-
BTNMT-BNV ngày
28 tháng 8 năm 2014).
Bộ Tài
nguyên
và Môi
trường
Bộ Nội
vụ, và
một số Bộ
ngành có
liên quan,
UBND
các tỉnh,
thành phố
trực thuộc
Trung
ương
2020
II Nghiên cứu, rà soát, đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy, đề xuất kiện toàn tổ
chức bộ máy của các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường từ
Trung ương đến địa phương
2.1 Rà soát, đánh giá
thực trạng tổ chức bộ
máy của cơ quan
quản lý nhà nước về
tài nguyên và môi
trường Trung ương;
đề xuất sắp xếp, kiện
toàn tổ chức bộ máy
Bộ Tài nguyên và
Môi trường đảm bảo
tinh gọn, hiệu lực,
hiệu quả, đáp ứng
- Dự thảo Nghị định
của Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Bộ
Tài nguyên và Môi
trường.
- Dự thảo các Quyết
định của Thủ tướng
Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu
Bộ Tài
nguyên
và Môi
trường
Bộ Nội
vụ, và
một số Bộ
ngành có
liên quan,
UBND
các tỉnh,
thành phố
trực thuộc
Trung
ương
2020-2021
53
TT Nội dung/Công việc Sản phẩm cuối cùng
Phân công Thời gian
thực hiện
Đơn vị
chủ trì
Đơn vị
phối hợp
yêu cầu nhiệm vụ. tổ chức của các Tổng
cục trực thuộc Bộ Tài
nguyên và Môi
trường.
2.2 Rà soát, đánh giá
thực trạng tổ chức bộ
máy cơ quan chuyên
môn về tài nguyên và
môi trường địa
phương; đề xuất kiện
toàn tổ chức bộ máy,
bảo đảm thực hiện
hiệu quả chức năng,
nhiệm vụ được giao.
Báo cáo rà soát, đánh
giá thực trạng tổ chức
bộ máy cơ quan
chuyên môn về tài
nguyên và môi trường
địa phương; đề xuất
kiện toàn tổ chức bộ
máy, bảo đảm thực
hiện hiệu quả chức
năng, nhiệm vụ được
giao.
UBND
các tỉnh,
thành
phố trực
thuộc
Trung
ương
Bộ Tài
nguyên và
Môi
trường,
Bộ Nội
vụ, và
một số Bộ
ngành có
liên quan
2020-2021
2.3 Đề xuất mô hình tổ
chức cơ quan quản lý
nhà nước về tài
nguyên và môi
trường ở Trung ương
và địa phương cho
giai đoạn 2025 -
2030 phù hợp với
tình hình và nhiệm
vụ của giai đoạn phát
triển mới, xu thế hội
nhập và thông lệ
quốc tế.
Đề án mô hình tổ chức
cơ quan quản lý nhà
nước về tài nguyên và
môi trường ở Trung
ương và địa phương
cho giai đoạn 2025 -
2030 phù hợp với tình
hình và nhiệm vụ của
giai đoạn phát triển
mới, xu thế hội nhập
và thông lệ quốc tế.
Bộ Tài
nguyên
và Môi
trường
UBND
các tỉnh,
thành phố
trực thuộc
Trung
ương; Sở
Tài
nguyên và
Môi
trường;
Sở Nội vụ
2022-2025
III Rà soát, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ngành tài nguyên và môi trường
từ Trung ương đến địa phương; phân tích nhu cầu, cơ cấu nhân lực trong các
cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường; cơ cấu sắp xếp lại dựa
trên các nguyên tắc, tiêu chuẩn hóa công chức, viên chức đảm bảo đáp ứng yêu
cầu quản lý nhà nước và phục vụ quản lý nhà nước về tài nguyên và môi
trường
3.1 Rà soát, đánh giá
thực trạng nguồn
nhân lực ngành tài
Báo cáo đánh giá thực
trạng nguồn nhân lực
ngành tài nguyên và
Bộ Tài
nguyên
và Môi
Bộ Nội
vụ, và
một số Bộ
2020-2030
54
TT Nội dung/Công việc Sản phẩm cuối cùng
Phân công Thời gian
thực hiện
Đơn vị
chủ trì
Đơn vị
phối hợp
nguyên và môi
trường từ Trung
ương đến địa phương
về số lượng và chất
lượng; thực trạng đáp
ứng yêu cầu công
việc theo vị trí việc
làm và tiêu chuẩn
chức danh cán bộ
quản lý tài nguyên và
môi trường từ Trung
ương đến địa
phương.
môi trường từ Trung
ương đến địa phương
về số lượng và chất
lượng; thực trạng đáp
ứng yêu cầu công việc
theo vị trí việc làm và
tiêu chuẩn chức danh
cán bộ quản lý tài
nguyên và môi trường
từ Trung ương đến địa
phương.
trường,
Ủy ban
nhân dân
các tỉnh
ngành có
liên quan
3.2 Phân tích, dự báo
nhu cầu nhân lực, cơ
cấu công chức, viên
chức, người lao động
trong các đơn vị
quản lý nhà nước và
đơn vị sự nghiệp
ngành tài nguyên và
môi trường.
Báo cáo phân tích, dự
báo nhu cầu nhân lực,
cơ cấu công chức,
viên chức, người lao
động trong các đơn vị
quản lý nhà nước và
đơn vị sự nghiệp
ngành tài nguyên và
môi trường.
Bộ Tài
nguyên
và Môi
trường
Bộ Nội
vụ, và
một số Bộ
ngành có
liên quan,
UBND
các tỉnh,
thành phố
trực thuộc
Trung
ương
2021-2025
3.3 Sắp xếp, bố trí, bổ
sung công chức, viên
chức trong các cơ
quan quản lý môi
trường từ Trung
ương đến địa phương
đảm bảo phù hợp với
nhiệm vụ được giao.
Sắp xếp, bố trí, bổ
sung công chức, viên
chức trong các cơ
quan quản lý môi
trường từ Trung ương
đến địa phương đảm
bảo phù hợp với
nhiệm vụ được giao.
Bộ Tài
nguyên
và Môi
trường,
Ủy ban
nhân dân
các tỉnh
Bộ Nội
vụ, và
một số Bộ
ngành có
liên quan,
UBND
các tỉnh,
thành phố
trực thuộc
Trung
ương
2020-2030
IV Rà soát, đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn
nhân lực ngành tài nguyên và môi trường; đánh giá nhu cầu đào tạo, bồi
dưỡng; đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách về đào tạo, phát triển và sử
55
TT Nội dung/Công việc Sản phẩm cuối cùng
Phân công Thời gian
thực hiện
Đơn vị
chủ trì
Đơn vị
phối hợp
dụng nhân lực trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường; xây dựng, thực hiện
kế hoạch/chương trình đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ và các
yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng khác cho cán bộ quản lý tài nguyên môi trường từ
Trung ương đến địa phương
4.1 Rà soát, đánh giá
thực trạng công tác
đào tạo, bồi dưỡng,
phát triển nguồn
nhân lực ngành tài
nguyên và môi
trường về năng lực
đào tạo, bồi dưỡng;
đội ngũ giảng viên;
nội dung/chương
trình đào tạo; nội
dung/phương pháp
giảng dạy…
Báo cáo rà soát, đánh
giá thực trạng công tác
đào tạo, bồi dưỡng,
phát triển nguồn nhân
lực ngành tài nguyên
và môi trường về năng
lực đào tạo, bồi
dưỡng; đội ngũ giảng
viên; nội dung/chương
trình đào tạo; nội
dung/phương pháp
giảng dạy…
Bộ Tài
nguyên
và Môi
trường,
Ủy ban
nhân dân
các tỉnh
Các cơ sở
đào tạo,
bồi dưỡng
liên quan
2020-2030
4.2 Điều tra, đánh giá,
xác định đối tượng
và nhu cầu đào tạo,
bồi dưỡng về chuyên
môn, nghiệp vụ quản
lý, các kỹ năng cơ
bản và xác định các
đối tượng, khu vực
trọng tâm, nội dung
trọng tâm, trọng
điểm cần tăng cường
năng lực quản lý tài
nguyên và môi
trường.
- Báo cáo đánh giá,
xác định đối tượng và
nhu cầu đào tạo, bồi
dưỡng về chuyên
môn, nghiệp vụ quản
lý, các kỹ năng cơ bản
và xác định các đối
tượng, khu vực trọng
tâm, nội dung trọng
tâm, trọng điểm cần
tăng cường năng lực
quản lý tài nguyên và
môi trường.
- Kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng công chức,
viên chức giai đoạn
2021 - 2025.
Bộ Tài
nguyên
và Môi
trường,
Ủy ban
nhân dân
các tỉnh.
Các cơ sở
đào tạo,
bồi dưỡng
liên quan
2021-2025
4.4 Xây dựng cơ chế,
chính sách khuyến
khích cán bộ, công
chức, viên chức
Bộ Tài
nguyên
và Môi
trường,
Bộ Nội vụ 2021-2025
56
TT Nội dung/Công việc Sản phẩm cuối cùng
Phân công Thời gian
thực hiện
Đơn vị
chủ trì
Đơn vị
phối hợp
ngành tài nguyên và
môi trường tự học
tập, nâng cao kiến
thức quản lý và
chuyên môn nghiệp
vụ, tham gia nghiên
cứu, giảng dạy ở các
nước có trình độ tiên
tiến về tài nguyên và
môi trường.
Ủy ban
nhân dân
các tỉnh
4.5 Xây dựng, hoàn
thiện cơ chế, chính
sách tuyển dụng, sử
dụng và đãi ngộ, ưu
đãi đặc thù đối với
cán bộ, công chức,
viên chức ngành tài
nguyên và môi
trường, đối với
những người tham
gia đào tạo về tài
nguyên và môi
trường; hoàn thiện hệ
thống chức danh, vị
trí việc làm trong
ngành tài nguyên và
môi trường.
Hệ thống chức danh,
vị trí việc làm được
chuẩn hóa; ban hành
cơ chế, chính sách
tuyển chọn, sử dụng
cán bộ, đi đôi với
chính sách đãi ngộ,
chế độ ưu đãi đặc thù
để thu hút được cán bộ
giỏi, cán bộ có trình
độ cao vào công tác
trong ngành tài
nguyên và môi trường
Bộ Tài
nguyên
và Môi
trường,
Ủy ban
nhân dân
các tỉnh
Bộ Nội vụ 2021-2025
4.6 Rà soát, sửa đổi, bổ
sung, xây dựng mới
cơ chế, chính sách
khuyến khích học
sinh, sinh viên học
các chuyên ngành về
tài nguyên và môi
trường, ưu tiên các
chuyên ngành khí
tượng thủy văn, đo
đạc bản đồ, địa chất
Chính sách khuyến
khích học sinh, sinh
viên học các chuyên
ngành về tài nguyên
và môi trường, ưu tiên
các chuyên ngành khí
tượng thủy văn, đo
đạc bản đồ, địa chất
khoáng sản.
Bộ Tài
nguyên
và Môi
trường,
Ủy ban
nhân dân
các tỉnh
Bộ Giáo
dục và
Đào tạo
2021-2025
57
TT Nội dung/Công việc Sản phẩm cuối cùng
Phân công Thời gian
thực hiện
Đơn vị
chủ trì
Đơn vị
phối hợp
khoáng sản.
4.7 Thiết kế, đổi mới nội
dung, chương trình
đào tạo, tập huấn cho
các đối tượng, theo
các nhu cầu đã được
xác định, bao gồm:
tài liệu đào tạo, tập
huấn; đội ngũ giảng
viên; chương trình
đào tạo; kế hoạch
đào tạo; các điều
kiện bảo đảm thực
hiện các chương
trình đào tạo, tập
huấn.
Khung chương trình,
tài liệu, giảng viên, kế
hoạch đào tạo; các
điều kiện bảo đảm
thực hiện các chương
trình đào tạo.
Bộ Nội
vụ, Bộ
Tài
nguyên
và Môi
trường,
Ủy ban
nhân dân
các tỉnh
Sở Tài
nguyên và
Môi
trưởng
các tỉnh,
thành phố
2020-2030
4.8 Tổ chức thực hiện
các chương trình,
module đào tạo, tập
huấn cho các cán bộ
quản lý tài nguyên và
môi trường từ Trung
ương đến địa
phương; ưu tiên cấp
tỉnh, huyện, xã.
Các Khóa đào tạo và
tập huấn cho các cán
bộ quản lý tài nguyên
và môi trường ở Trung
ương và địa phương
Bộ Nội
vụ, Bộ
Tài
nguyên
và Môi
trường,
Ủy ban
nhân dân
các tỉnh
Sở Tài
nguyên và
Môi
trưởng
các tỉnh,
thành phố
2020-2030
V Tăng cường năng lực công tác thanh tra các lĩnh vực tài nguyên và môi trường
5.1 Rà soát, đánh giá
thực trạng chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức
thực hiện công tác
thanh tra ngành tài
nguyên và môi
trường từ Trung ương
đến địa phương.
- Báo cáo rà soát, đánh
giá thực trạng chức
năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và đề xuất cơ cấu
tổ chức thanh tra
ngành tài nguyên và
môi trường từ Trung
ương đến địa phương.
- Dự thảo Nghị định
của Chính phủ thay
thế/sửa đổi Nghị định
Bộ Tài
nguyên
và Môi
trường,
Thanh
tra Chính
phủ
UBND
các tỉnh,
thành phố
trực thuộc
Trung
ương
2020-2021
58
TT Nội dung/Công việc Sản phẩm cuối cùng
Phân công Thời gian
thực hiện
Đơn vị
chủ trì
Đơn vị
phối hợp
số 07/2012/NĐ-CP
ngày 09 tháng 02 năm
2012 của Chính phủ
quy định về cơ quan
được giao thực hiện
chức năng thanh tra
chuyên ngành và hoạt
động thanh tra chuyên
ngành theo hướng bổ
sung chức năng thanh
tra chuyên ngành cho
một số tổng cục, cục
trực thuộc Bộ Tài
nguyên và Môi trường
và Sở Tài nguyên và
Môi trường.
5.2 Rà soát, đánh giá
thực trạng nhân lực
thuộc các cơ quan
thanh tra về tài
nguyên và môi
trường từ Trung
ương đến địa
phương./.
Dự thảo Quyết định
của Thủ tướng Chính
phủ quy định biên chế
số lượng cán bộ thuộc
các cơ quan thanh tra
về tài nguyên và môi
trường
Bộ Tài
nguyên
và Môi
trường,
Thanh
tra Chính
phủ
Bộ Nội
vụ,
UBND
các tỉnh,
thành phố
trực thuộc
Trung
ương
2021-2025