BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠ ỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ …
Transcript of BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠ ỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ …
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------
NGUYỄN NGỌC THỂ
TỔNG HỢP VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ MANG THUỐC VÀ TIÊU
DIỆT TẾ BÀO UNG THƯ CỦA MỘT SỐ HỆ NANOGEL TRÊN
CƠ SỞ POLYSACCHARIDE SULFATE (HEPARIN, FUCOIDAN)
GHÉP CÁC COPOLYMER TƯƠNG HỢP SINH HỌC
LUẬN ÁN TIẾN SỸ HÓA HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH – 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------
NGUYỄN NGỌC THỂ
Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
Mã số: 9 44 01 14
LUẬN ÁN TIẾN SỸ HÓA HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH – 2021
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS TRẦN NGỌC QUYỂN
2. TS. NGUYỄN THỊ THANH THỦY
TỔNG HỢP VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ MANG THUỐC VÀ TIÊU
DIỆT TẾ BÀO UNG THƯ CỦA MỘT SỐ HỆ NANOGEL TRÊN
CƠ SỞ POLYSACCHARIDE SULFATE (HEPARIN, FUCOIDAN)
GHÉP CÁC COPOLYMER TƯƠNG HỢP SINH HỌC
LỜI CAM ĐOAN
Công trình được thực hiện tại phòng Hóa dược - Viện Khoa học Vật liệu Ứng
dụng - Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi và được sự hướng dẫn
khoa học của PGS.TS Trần Ngọc Quyển và TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy. Các nội
dung nghiên cứu, kết quả trong luận án này là trung thực, được hoàn thành dựa trên
các kết quả nghiên cứu của tôi và các kết quả này chưa được dùng cho bất kỳ luận án
cùng cấp nào.
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Ngọc Thể
LỜI CÁM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Trần Ngọc Quyển và TS. Nguyễn Thị
Thanh Thủy đã định hướng khoa học, giúp đỡ tận tình trong suốt quá trình thực hiện
luận án. Xin gởi đến Thầy và Cô những lời biết ơn chân thành nhất.
Tôi xin cảm ơn sự hỗ trợ của các anh chị và các em trong Viện Khoa học Vật
liệu Ứng dụng – Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của Học viện Khoa học
Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam trong suốt thời gian tôi
thực hiện luận án.
Sau cùng, tôi xin gởi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên, giúp đỡ cho tôi hoàn thành luận án này.
i
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CÁM ƠN
MỤC LỤC................................................................................................................ ..i
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT................................................vi
DANH MỤC CÁC BẢNG..................................................................................... viii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ.................................................................................. ix
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ....................................................................................... 3
1.1. GIỚI THIỆU VỀ MICELLE VÀ NANOGEL .................................................... 3
1.1.1. Giới thiệu micelle............................................................................................3
1.1.1.1. Cơ chế hình thành micelle ....................................................................... 3
1.1.1.2. Ưu điểm và nhược điểm của micelle ....................................................... 4
1.1.1.3. Sự đóng gói thuốc vào trong micelle ....................................................... 5
1.1.2. Giới thiệu nanogel...........................................................................................6
1.1.2.1. Sự hình thành nanogel ............................................................................. 6
1.1.2.2. Ưu điểm và nhược điểm của nanogel .................................................... 10
1.1.2.3. Sự đóng gói thuốc vào trong nanogel .................................................... 12
1.1.2.4. Phương cách phân phối thuốc của chất mang nano và nangel .............. 14
1.1.2.5. Sự giải phóng thuốc của nanogel ........................................................... 16
1.2. POLYSACCHARIDE SULFATE .................................................................... 19
1.2.1. Heparin..........................................................................................................19
1.2.2. Fucoidan.........................................................................................................20
1.3. PLURONIC ...................................................................................................... 22
1.3.1. Cấu tạo...........................................................................................................22
1.3.2. Tính chất........................................................................................................23
1.3.3. Ứng dụng.......................................................................................................23
1.4. UNG THƯ VÀ THUỐC CHỐNG UNG THƯCISPLATIN ............................. 24
1.4.1. Tổng quan về bệnh ung thư...........................................................................24
1.4.2. Cisplatin.........................................................................................................25
ii
1.5. CURCUMIN ..................................................................................................... 26
1.6. NHỮNG NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY .......................................................... 27
1.6.1. Nghiên cứu kết hợp thuốc chống ung thư cisplatin và chất mang nano.......29
1.6.2. Nghiên cứu kết hợp curcumin với thuốc chống ung thư cisplatin................32
CHƯƠNG 2. NGHIÊN CỨU ................................................................................... 33
2.1. HÓA CHẤT ...................................................................................................... 33
2.2. DỤNG CỤ VÀ THIẾT BỊ ................................................................................. 34
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................................... 35
2.3.1. Phương pháp tổng hợp các copolymer ghép trên cơ sở polysacchride sulfate
(heparin, fucoidan) liên hợp pluronic........................................................................35
2.3.2. Phương pháp đánh giá cấu trúc, hình thái các copolymer ghép....................35
2.3.3. Phương pháp tổng hợp hệ nanogel mang thuốc cisplatin và cisplatin hydrate36
2.3.4. Phương pháp khảo sát khả năng nhả thuốc của các hệ nanogel mang thuốc36
2.3.5. Phương pháp đánh giá độc tính tế bào (dòng tế bào MCF-7 và tế bào thường)37
2.3.6. Thí nghiệm trên động vật..............................................................................38
2.3.6.1. Phương pháp ghép tế bào MCF-7 tạo mô hình chuột mang khối u ....... 38
2.3.6.2. Phương pháp tính thể tích khối u ........................................................... 39
2.3.6.3. Phương pháp nhuộm hóa mô miễn dịch bằng kháng thể SOD2 ............ 39
2.3.6.4. Phương pháp nhuộm Hemaoxylin - Eosin (H&E) ................................ 40
2.4. THỰC NGHIỆM .............................................................................................. 40
2.4.1. Tổng hợp và khảo sát nanogel Hep-P123......................................................40
2.4.1.1. Tổng hợp Hep-P123 ............................................................................... 40
2.4.1.2. Tổng hợp nanogel Hep-P123 mang thuốc cisplatin và cisplatin hydrate
............................................................................................................................... 43
2.4.1.3. Khảo sát khả năng nhả thuốc cisplatin hydrate của Hep-P123.............. 46
2.4.1.4. Đánh giá độc tính tế bào (dòng tế bào MCF-7 và tế bào thường .......... 46
2.4.2. Tổng hợp và khảo sát nanogel Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68.................46
2.4.2.1. Tổng hợp Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 .......................................... 46
2.4.2.2. Tổng hợp nanogel Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 mang thuốc cisplatin
và cisplatin hydrate ............................................................................................... 47
2.4.3. Tổng hợp và khảo sát nanogel Fud-P123 .....................................................47
iii
2.4.3.1. Tổng hợp Fud-P123 ............................................................................... 47
2.4.3.2. Tổng hợp nanogel Fud-P123 mang thuốc cisplatin và cisplatin hydrate
............................................................................................................................... 49
2.4.3.3. Khảo sát khả năng nhả thuốc cisplatin hydrate của Fud-P123 .............. 50
2.4.3.4. Đánh giá độc tính tế bào (dòng tế bào MCF-7 và tế bào thường) ......... 50
2.4.4. Ứng dụng tổng hợp và đánh giá nanogel Hep-F127 mang thuốc cisplatin
hydrate kết hợp nanocurcumin (Hep-F127-CisOH-Cur) lên chuột mang khối u......50
2.4.4.1. Tổng hợp Hep-F127-CisOH-Cur ........................................................... 50
2.4.4.2. Đánh giá cấu trúc, hình thái Hep-F127-CisOH-Cur .............................. 52
2.4.4.3. Đánh giá độc tính dòng tế bào MCF-7 .................................................. 52
2.4.4.4. Khảo sát khả năng nhả thuốc của Hep-F127-CisOH-Cur ..................... 52
2.4.4.5. Quy trình tạo mô hình chuột suy giảm miễn dịch và ghép khối u dị loài
............................................................................................................................... 52
2.4.4.6. Quy trình thử nghiệm thuốc ................................................................... 53
2.4.4.7. Quy trình đánh giá hiệu quả của thuốc .................................................. 55
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN .............................................................. 56
3.1. KẾT QUẢ TỔNG HỢP VÀ KHẢO SÁT NANOGEL HEP-P123 ................... 56
3.1.1. Kết quả xác định thành phần, cấu trúc các copolymer Hep-P123.................56
3.1.1.1. Kết quả phân tích phổ FT-IR và 1H-NMR của sản phẩm trung gian NPC-
P123-NPC và NPC-P123-Ami ............................................................................. 56
3.1.1.2. Kết quả phân tích phổ FT-IR và 1H-NMR của sản phẩm trung gian Hep-
DAB ...................................................................................................................... 60
3.1.1.3. Kết quả phân tích phổ FT-IR và 1H-NMR của sản phẩm Hep-P123 .... 62
3.1.1.4. Kết quả phân tích TGA của Hep-P123 .................................................. 65
3.1.1.5. Kết quả phân tích giá trị CMC của Hep-P123 ....................................... 66
3.1.1.6. Kết quả phân tích TEM và DLS của Hep-P123 .................................... 68
3.1.2. Kết quả tổng hợp nanogel Hep-P123 mang thuốc cisplatin và cisplatin
hydrate.......................................................................................................................70
3.1.2.1. Kết quả phân tích phổ FT-IR của Hep-P123-Cis và Hep-P123-CisOH 70
3.1.2.2. Kết quả phân tích ICP-OES của Hep-P123-Cis và Hep-P123-CisOH .. 73
3.1.3. Kết quả đánh giá khả năng nhả thuốc của Hep-P123....................................74
iv
3.1.4. Kết quả độc tính tế bào (trên dòng tế bào MCF-7 và nguyên bào sợi) .........77
3.2. KẾT QUẢ TỔNG HỢP VÀ KHẢO SÁT NANOGEL HEP-F127, HEP-F87 VÀ
HEP-F68 .................................................................................................................... 78
3.2.1. Kết quả xác định thành phần, cấu trúc các copolymer Hep-F127, Hep-F87 và
Hep-F68....................................................................................................................78
3.2.1.1. Kết quả phân tích phổ FT-IR và 1H-NMR của sản phẩm trung gian NPC-
F127-NPC, NPC-F127-Ami, NPC-F87-NPC, NPC-F87-Ami, NPC-F68-NPC,
NPC-F68-Ami ....................................................................................................... 78
3.2.1.2. Kết quả phân tích phổ FT-IR và 1H-NMR của Hep-F127, Hep-F87 và
Hep-F68 ................................................................................................................ 80
3.2.1.3. Kết quả phân tích TGA của Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 .............. 81
3.2.1.4. Kết quả phân tích giá trị CMC của Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 .. 82
3.2.1.5. Kết quả phân tích TEM của Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 ............. 84
3.2.2. Kết quả tổng hợp nanogel Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 mang thuốc
cisplatin và cisplatin hydrate......................................................................................86
3.2.2.1. Kết quả phân tích phổ FT-IR của Hep-F127-Cis, Hep-F127-CisOH, Hep-
F87-Cis, Hep-F87-CisOH và Hep-F68-Cis, Hep-F68-CisOH ............................. 86
3.2.2.2. Kết quả phân tích ICP-OES của Hep-F127-Cis, Hep-F127-CisOH, Hep-
F87-Cis, Hep-F87-CisOH và Hep-F68-Cis, Hep-F68-CisOH ............................. 87
3.3. SO SÁNH KẾT QUẢ PHÂN TÍCH CÁC NANOGEL HEP-P123, HEP-F127,
HEP-F87 VÀ HEP-F68 MANG CISPLATIN VÀ CISPLATIN HYDRATE ........... 89
3.4. KẾT QUẢ TỔNG HỢP VÀ KHẢO SÁT NANOGEL FUD-P123 .................. 91
3.4.1. Kết quả xác định thành phần, cấu trúc copolymer Fud-P123.......................92
3.4.1.1. Kết quả phân tích phổ FT-IR và 1H-NMR của sản phẩm trung gian Fud-
DAB ...................................................................................................................... 92
3.4.1.2. Kết quả phân tích phổ FT-IR và 1H-NMR của Fud-P123 ..................... 94
3.4.1.3. Kết quả phân tích TGA của Fud-P123 .................................................. 97
3.4.1.4. Kết quả phân tích giá trị CMC của Fud-P123 ....................................... 98
3.4.1.5. Kết quả phân tích TEM và DLS của Fud-P123 ..................................... 99
3.4.2. Kết quả tổng hợp nanogel Fud-P123 mang thuốc cisplatin và cisplatin
hydrate.....................................................................................................................100
v
3.4.2.1. Kết quả phân tích phổ FT-IR của Fud-P123-Cis và Fud-P123-CisOH
............................................................................................................................. 100
3.4.2.2. Kết quả phân tích ICP-OES của Fud-P123-Cis và Fud-P123-CisOH . 102
3.4.3. Kết quả quả đánh giá khả năng nhả thuốc của Fud-P123............................102
3.4.4. Kết quả độc tính tế bào (trên dòng tế bào MCF-7 và nguyên bào sợi) .......103
3.5. SO SÁNH KẾT QUẢ PHÂN TÍCH CỦA NANOGEL HEP-P123 VÀ FUD-
P123 MANG CISPLATIN VÀ CISPLATIN HYDRATE ...................................... 104
3.6. KẾT QUẢ TỔNG HỢP VÀ ĐÁNH GIÁ NANOGEL HEP-F127 HEP-F127
MANG THUỐC CISPLATIN HYDRATE KẾT HỢP NANOCURCUMIN (HEP-
F127-CISOH-CUR) LÊN CHUỘT MANG KHỐI U ............................................. 106
3.6.1. Kết quả phân tích phổ FT-IR của Hep-F127-CisOH-Cur...........................107
3.6.2. Kết quả phân tích TEM của Hep-F127-CisOH-Cur....................................108
3.6.3. Kết quả phân tích ICP-OES và UV-Vis của Hep-F127-CisOH-Cur...........109
3.6.4. Kết quả khảo sát khả năng nhả thuốc của Hep-F127-CisOH-Cur..............109
3.6.5. Kết quả độc tế bào trên dòng tế bào MCF-7 của Hep-F127 và Hep-F127-
CisOH-Cur bằng phương pháp nhuộm SRB............................................................110
3.6.6. Kết quả thử nghiệm nanogel Hep-F127-CisOH-Cur lên mô hình chuột mang
khối u ......................................................................................................................112
3.6.6.1. Kết quả tạo mô hình chuột mang khối u .............................................. 112
3.6.6.2. Kết quả đánh giá kích thước khối u chuột trong thời gian điều trị ...... 113
3.6.6.3. Kết quả nhuộm mô khối u đánh giá hiệu quả điều trị .......................... 116
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 119
KIẾN NGHỊ ............................................................................................................ 121
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ............................................... 122
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 123
PHỤ LỤC ................................................................................................................ 140
vi
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Ý nghĩa
Hep Heparin
Plu Pluronic
Fud Fucoidan
Cur Curcumin
Plu Pluronic
Cis Cisplatin
CisOH Cisplatin dạng hydrate
NPC p-nitrophenyl chloroformate
EDC 1-ethyl-3-3-dimethylaminopropyl carbodiimide
NHS N-hydroxysuccinimide
DAB 1,4-diaminobutane
Ami 3-amino-1-propanol
Da Dalton
DLS Dynamic Light Scattering: máy đo phân tán động học laser
TEM Transmission Electron Microscopy: Kính hiển vi điện tử truyền
qua
1H-NMR Nuclear Magnetic Resonance Spectroscopy: Phổ cộng
hưởng từ hạt nhân
TGA Thermogravimetric Analyzer: Phân tích nhiệt trọng lượng
ICP-OES Inductively coupled plasma - optical emission spectrometry:
quang phổ plasma phát xạ nguyên tử
FT-IR Fourier Transform Infrared spectroscopy
IU international unit
LMWH Low Molecular Weight Heparin: Heparin khối lượng phân tử
thấp
EPR Enhanced Permeability and Retention Effect
PEO-PPO-PEO poly(ethylene oxide)-poly(propylene oxide)-poly(ethylene
oxide)
vii
PEG Polyethylene glycol
CMC Critical Micelle Concentration
HLB Hydrophilic-lipophilic balance: Cân bằng ưa nước - ưa béo
FDA Food and Drug Administration
SRB Sulforhodamine B colorimetric assay
PBS Phosphate buffered saline
DI Deionized
MCF-7 Michigan Cancer Foundation-7
MWCO Molecular weight cut-off
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Thành phần của fucoidan ở các loài rong nâu .......................................... 21
Bảng 1.2. Thông số đặc trưng của một số pluronic .................................................. 24
Bảng 2.1. Danh mục hóa chất ................................................................................... 33
Bảng 2.2. Số liệu tổng hợp Hep-DAB theo 4 tỉ lệ mol khác nhau ............................ 42
Bảng 2.3. Số liệu tổng hợp Hep-P123 theo 4 tỉ lệ mol khác nhau ............................ 43
Bảng 2.4. Số liệu Cis, AgNO3 dùng để tổng hợp Hep-P123 mang thuốc ................. 45
Bảng 2.5. Số liệu tổng hợp NPC-F127-NPC, NPC-F87-NPC, NPC-F68-NPC ....... 47
Bảng 3.1. Kết quả phổ FT-IR của P123, NPC-P123-NPC, NPC-P123-Ami............ 57
Bảng 3.2. Kết quả phổ 1H-NMR của NPC-P123-NPC và NPC-P123-Ami ............. 59
Bảng 3.3. Kết quả phổ FT-IR của NPC-P123-Ami, Hep-DAB và Hep-P123 .......... 63
Bảng 3.4. Kết quả phổ 1H-NMR của NPC-P123-Ami, Hep-DAB và Hep-P123 ..... 65
Bảng 3.5. Kích thước của nanogel Hep-P123 bởi TEM và DLS .............................. 68
Bảng 3.6. Kết quả FT-IR của heparin, Hep-P123, Hep-P123-Cis, Hep-P123-
CisOH ........................................................................................................................ 72
Bảng 3.7. Phần Phần trăm gây độc tế bào trên nguyên bào sợi (%) ......................... 77
Bảng 3.8. Kết quả phổ 1H-NMR của NPC-F127-Ami, Hep-DAB và Hep-F127. .... 80
Bảng 3.9. Phần trăm khối lượng pluronic được ghép vào heparin ........................... 82
Bảng 3.10. Kích thước của các nanogel Hep-F127, Hep-F87, Hep-F68 .................. 85
Bảng 3.11. Kết quả phân tích các hệ nanogel mang thuốc trên cơ sở heparin liên hợp
pluronic P123, F127, F87 và F68 .............................................................................. 89
Bảng 3.12. Kết quả phổ FT-IR của NPC-P123-Ami, Fud-DAB, Fud-DAB ............ 95
Bảng 3.13. Kết quả phân tích 1H-NMR của NPC-P123-Ami, Fud-DAB, Fud-
P123 ........................................................................................................................... 97
Bảng 3.14. Kết quả phổ FT-IR của Fud-P123; Fud-P123-Cis; Fud-P123-CisOH . 101
Bảng 3.15. Hiệu quả mang thuốc Cis và CisOH của hệ nano Fud-P123 ................ 102
Bảng 3.16. Phần trăm gây độc tế bào trên nguyên bào sợi (%) .............................. 103
Bảng 3.17. Kết quả phân tích hệ nanogel Hep-P123 và Fud-P123 mang thuốc ..... 105
Bảng 3.18. Phần trăm ức chế MCF-7 của nanogel Hep-F127 ................................ 111
ix
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1.1. Cấu trúc micelle ......................................................................................... 3
Hình 1.2. Các cấu trúc micelle polymer ...................................................................... 4
Hình 1.3. Sự kém ổn định của micelle do tương tác với protein huyết thanh. A.
Phóng thích thuốc; B. Hấp phụ protein; C. Thâm nhập protein ................................. 4
Hình 1.4. Các phương pháp tổng hợp nanogel ........................................................... 7
Hình 1.5. Tương tác kỵ nước ...................................................................................... 8
Hình 1.6. Tương tác ion .............................................................................................. 8
Hình 1.7. Sự hình thành nanogel từ polymer lưỡng tính ............................................ 9
Hình 1.8. Sự hình thành nanogel từ các polymer qua tương tác tĩnh điện .................. 9
Hình 1.9. Sự giải phóng thuốc từ nanogel ................................................................ 11
Hình 1.10. Các tương tác liên phân tử thúc đẩy tiến trình tự lắp ráp gồm tương tác
tĩnh điện và tương tác kỵ nước .................................................................................. 14
Hình 1.11. Sự hướng đích thụ động theo cơ chế EPR .............................................. 15
Hình 1.12. Quá trình giải phóng thuốc do sự thủy phân liên kết cholesteryl vinyl ete
ở pH 4,0 của nanogel acL-CHP ................................................................................ 17
Hình 1.13. Mô hình giải phóng thuốc của nanogel Gal-CS-g-PNIPAm .................. 17
Hình 1.14. Sự thay đổi cấu dạng của polymer PNIPAM theo LCST (32oC) trong
nước (nhiệt độ dưới 32oC polymer ở dạng trương nở, khi nhiệt độ lớn hơn 32oC
polymer NIPAM trở nên kỵ nước và co lại) ............................................................. 18
Hình 1.15. Cấu tạo heparin ....................................................................................... 19
Hình 1.16. Cấu trúc pluronic ..................................................................................... 22
Hình 1.17. Các chất phức hợp chứa platin: (A)-cisplatin; (B)-carboplatin; (C)-
oxaliplatin; (D)-ormaplatin; (E)-enloplatin ............................................................... 25
Hình 1.18. Cấu trúc curcumin ................................................................................... 27
Hình 1.19. Phức giữa cisplatin hydrate và carboxylate PAMAM G3.5 ................... 29
Hình 2.1. Tiêm tế bào MCF-7 trên lưng chuột đã suy giảm miễn dịch .................... 38
Hình 2.2. Hoạt hóa pluronic bằng NPC .................................................................... 41
Hình 2.3. Khóa một đầu sản phẩm hoạt hóa pluronic với Ami ................................ 41
Hình 2.4. Biến tính heparin với DAB ....................................................................... 42
x
Hình 2.5. Tổng hợp copolymer ghép Heparin-Pluronic ........................................... 43
Hình 2.6. Sơ đồ quy trình đưa CisOH vào Hep-P123 ............................................... 44
Hình 2.7. Tổng hợp Fud-DAB .................................................................................. 48
Hình 2.8. Tổng hợp copolymer ghép Fud-P123 ....................................................... 49
Hình 2.9. Nanogel Hep-F127 mang cisplatin hydrate kết hợp curcumin ................. 51
Hình 2.10. Mô hình thử thuốc trên chuột .................................................................. 54
Hình 2.11. Khối u được thu nhận sau khi kết thúc thí nghiệm ................................. 55
Hình 3.1. Phổ FT-IR của P123, NPC-P123-NPC và NPC-P123-Ami ...................... 56
Hình 3.2. Phổ 1H-NMR của NPC-P123-NPC ........................................................... 58
Hình 3.3. Phổ 1H-NMR của NPC-P123-Ami ........................................................... 59
Hình 3.4. Phổ FT-IR của heparin và Hep-DAB ........................................................ 60
Hình 3.5. Phổ 1H-NMR của Hep-DAB ..................................................................... 61
Hình 3.6. Phổ FT-IR của Hep-DAB, NPC-P123-Ami và Hep-P123 ........................ 62
Hình 3.7. Phổ 1H-NMR của Hep-P123 ..................................................................... 64
Hình 3.8. Kết quả TGA của P123, heparin và các copolymer ghép Hep-P123 ........ 65
Hình 3.9. Kết quả đo CMC của các copolymer ghép Hep-P123 .............................. 67
Hình 3.10. Kết quả TEM của pluronic P123 ............................................................. 69
Hình 3.11. Kết quả TEM và DLS của (a): P123; (b): Hep-P123 (1:3); (c): Hep-P123
(1:7); (d): Hep-P123 (1:10); (e): Hep-P123 (1:14) ................................................... 70
Hình 3.12. Sự hình thành phức Hep-P123-CisOH và nanogel của nó...................... 71
Hình 3.13. Phổ FT-IR của Hep-P123-Cis và Hep-P123-CisOH .............................. 72
Hình 3.14. Hiệu quả mang thuốc của hệ chất mang Hep-P123 ................................ 73
Hình 3.15. Sự giải phóng CisOH từ nanogel platinum ở pH 5,5 và 7,4 ................... 75
Hình 3.16. Độc tính tế bào MCF-7 của Hep-P123-Cis và Hep-P123-CisOH .......... 77
Hình 3.17. Kết quả TGA của F127, F87, F68, heparin và copolymer ghép ............. 81
Hình 3.18. Kết quả đo CMC của các pluronic F127, F87 và F68 ............................ 83
Hình 3.19. Kết quả CMC các copolymer Hep-F127, Hep-F87, Hep-F68 ................ 84
Hình 3.20. Hình thái và kích thước của các nanogel bởi TEM ................................. 85
Hình 3.21. Phổ FT-IR của Hep-F127, Hep-F127-Cis, Hep-F127-CisOH ................ 87
Hình 3.22. Hiệu quả mang Cis và CisOH của các hệ chất mang Hep-Plu ............... 88
Hình 3.23. Phổ FT-IR của fucoidan và Fud-DAB .................................................... 92
xi
Hình 3.24. Phổ 1H-NMR của Fud-DAB ................................................................... 93
Hình 3.25. Phổ FT-IR của Fud-DAB, NPC-P123-Ami và Fud-P123 ...................... 94
Hình 3.26. Phổ 1H-NMR của Fud-P123 ................................................................... 96
Hình 3.27. Kết quả TGA của P123, fucoidan và Fud-P123 ..................................... 97
Hình 3.28. Kết quả CMC của Fud-P123 ................................................................... 98
Hình 3.29. Kết quả TEM và DLS của Fud-P123 ...................................................... 99
Hình 3.30. Phổ FT-IR của Fud-P123, Fud-P123-Cis và Fud-P123-CisOH............ 100
Hình 3.31. Sự giải phóng CisOH từ nanogel Fud-P123 ở pH 5,5 và 7,4................ 102
Hình 3.32. Độc tính tế bào MCF-7 của Fud-P123-Cis và Fud-P123-CisOH ......... 104
Hình 3.33. Phổ FT-IR của Hep-F127, Hep-F127-CisOH, Hep-F127-CisOH-Cur . 107
Hình 3.34. Kết quả đo TEM của Hep-F127 (a) và Hep-F127-CisOH-Cur (b) ....... 108
Hình 3.35. Kết quả nhả thuốc CisOH và Cur của Hep-F127-CisOH-Cur .............. 110
Hình 3.36. Hoạt tính ức chế tế bào ung thư của Hep-F127-CisOH, Hep-F127-Cur và
Hep-F127-CisOH-Cur ............................................................................................. 111
Hình 3.37. Chuột mang khối u ................................................................................ 112
Hình 3.38. Hình thái tế bào trong mô khối u cắt lát được nhuộm hóa mô miễn dịch
bằng kháng thể SOD2 ............................................................................................. 113
Hình 3.39. Khối lượng chuột theo quá trình thử nghiệm ........................................ 114
Hình 3.40. Sự thay đổi thể tích khối u theo thời gian ............................................. 115
Hình 3.41. Kết quả phân tích mô học H&E mô các khối u sau thời gian điều trị:
Hep-F127 (a), NaCl (b), nanogel Hep-F127-CisOH (c) và Hep-F127-CisOH-Cur
(d) ............................................................................................................................ 117
1
MỞ ĐẦU
Cisplatin (cis-diamminedichloroplatinum (II)) là hợp chất bạch kim đầu tiên
được FDA phê chuẩn đưa vào điều trị ung thư tinh hoàn và ung thư buồng trứng vào
năm 1978 [1-2]. Đây là một trong những thuốc chống ung thư chủ lực được sử dụng
rộng rãi và hiệu quả để điều trị nhiều loại khối u rắn. Tuy nhiên, nghiên cứu tác dụng
lâm sàng của cisplatin về sau bị hạn chế bởi tính chọn lọc kém của thuốc giữa mô
bình thường và mô khối u. Đồng thời, độc tính của thuốc cũng đã gây ra nhiều tác
dụng phụ trên thận, suy tủy, nhiễm độc thần kinh mãn tính,… từ đó dẫn đến tình trạng
kháng thuốc và hạn chế liều lượng trong quá trình điều trị [2-4]. Vì vậy, để khắc phục
những hạn chế trên, các chất mang thuốc dạng hạt nano đã được các nhà khoa học
trong và ngoài nước phát triển mạnh mẽ, trên cơ sở làm tăng sự tích tụ thuốc tại tế
bào ung thư và từ đó giảm được các tác dụng phụ bất lợi của thuốc.
Nanogel là hệ chất mang nanopolymer đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà
khoa học trên thế giới. Nanogel có nhiều đặc điểm nổi bật hơn so với các hệ chất
mang nano khác như: có hình dạng và kích thước nano linh hoạt, có khả năng đáp
ứng đồng thời với nhiều kích thích từ môi trường ngoài như nhiệt độ, pH, cường độ
ion, góp phần tăng cường hiệu quả trong việc giải phóng thuốc có kiểm soát [5-7].
Một số nanogel từ poly(lactide-co-glycolide)-polyethylene glycol, alginate, heparin-
polyethyleneimine đã được phát triển cho vận chuyển cisplatin. Các chất mang
nanogel này đã cho thấy khả năng mang thuốc tốt và có hiệu quả cao trong tiêu diệt
nhiều dòng tế bào ung thư [8-10].
Do đó, hướng nghiên cứu điều chế các chất mang nanogel nhằm tạo ra sự
tương thích sinh học cao của chất mang, giảm độc tính của thuốc, góp phần nâng cao
hiệu quả mang thuốc và điều trị sẽ có nhiều ý nghĩa khoa học và ứng dụng. Ngoài ra,
việc sử dụng cisplatin dạng hydrate tạo phức với chất mang cũng có thể làm tăng khả
năng mang thuốc và tiêu diệt hiệu quả tế bào ung thư.
Chính vì những lý do trên, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài “Tổng hợp
và đánh giá hiệu quả mang thuốc và tiêu diệt tế bào ung thư của một số hệ nanogel
trên cơ sở polysaccharide sulfate (heparin, fucoidan) ghép các copolymer tương hợp
sinh học”.
2
Mục tiêu của luận án:
Tổng hợp và đánh giá các đặc tính của chất mang nanogel trên cơ sở
polysaccharide sulfate (heparin, fucoidan) ghép với các pluronic khác nhau với mục
tiêu khảo sát hiệu quả mang thuốc chống ung thư cisplatin và cisplatin hydrate. Từ
đó, ứng dụng điều chế hệ nanogel trong dẫn truyền thuốc kết hợp cisplatin hydrate và
nanocurcumin nhằm mục đích giảm thể tích khối u ung thư vú trên mô hình chuột
(Mus musculus var. Albino) mang khối u ghép dị loài từ người.
Để đạt được những mục tiêu trên, luận án đã thực hiện các nội dung sau:
1. Tổng hợp và đánh giá cấu trúc, hình thái các nanogel trên cơ sở heparin liên
hợp pluronic P123, F127, F68 và F87 với các tỉ lệ ghép khác nhau.
2. Tổng hợp và khảo sát hiệu quả mang thuốc cisplatin và cisplatin dạng hydrat
của các nanogel tổng hợp được.
3. Khảo sát khả năng nhả thuốc cũng như hiệu quả tiêu diệt dòng tế bào ung
thư vú MCF-7 của hệ nanogel Hep-P123 mang thuốc.
4. Tổng hợp và đánh giá cấu trúc, hình thái của nanogel trên cơ sở
polysaccharide sulfate fucoidan liên hợp pluronic P123.
5. Khảo sát khả năng nhả thuốc cũng như hiệu quả tiêu diệt dòng tế bào ung
thư vú MCF-7 của hệ nanogel Fud-P123 mang thuốc.
6. Tổng hợp và khảo sát khả năng nhả thuốc cũng như hiệu quả tiêu diệt dòng
tế bào ung thư vú MCF-7 của hệ nanogel Hep-F127 mang thuốc kết hợp cisplatin
hydrate và nanocurcumin.
7. Đánh giá hiệu quả tiêu giảm thể tích khối u ung thư vú trên mô hình chuột
mang khối u ghép dị loài từ người của hệ nanogel mang thuốc kết hợp.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
Đề tài có giá trị trong việc nghiên cứu các hệ chất mang nano mới mang thuốc
chống ung thư kém tan trong nước. Và cho đến nay chưa có công bố nào dùng nanogel
từ heparin để mang cisplatin dạng hydrate kết hợp với nanocurcumin và cũng chưa
có bất kỳ công bố nào về nanogel từ fucoidan.
Kết quả của đề tài đã được ứng dụng thử nghiệm trên mô hình chuột mang
khối u ghép dị loài sẽ làm nền tảng ứng dụng cho các nghiên cứu sâu hơn trong lâm
sàng.
3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Giới thiệu về micelle và nanogel
1.1.1. Giới thiệu micelle
1.1.1.1. Cơ chế hình thành micelle
Micelle được hình thành từ sự tự lắp ráp của các đơn vị lưỡng tính, bằng cách
kết hợp các phần kỵ nước hình thành lõi trung tâm và định vị các đầu cực ưa nước
của chúng với môi trường nước xung quanh tạo thành phần vỏ. Lớp vỏ ngoài của
micelle có thể giúp tăng độ hòa tan và khả năng tương thích sinh học cho hệ thống,
trong khi lõi bên trong có thể được sử dụng để chứa các thuốc kỵ nước [11-12].
Hình 1.1. Cấu trúc micelle [12]
Sự tương tác giữa các nhóm ưa nước và môi trường nước xung quanh, dẫn đến
sự tách biệt giữa phần ưa nước và kỵ nước, điều này làm cho các micelle có cấu trúc
xốp hơn. Vì thế các micelle được sử dụng như là mô hình cho các ứng dụng sinh học
và hệ phân phối thuốc.
Kích thước các micelle dao động từ 5-100 nm, tùy thuộc vào loại nhóm ưa
nước và chiều dài chuỗi kỵ nước tự lắp ráp thánh cấu trúc với nhiều hình thái khác
nhau như: hình cầu, hình tấm, hình trụ, hình túi đơn lớp, …
Gần đây, micelle được nghiên cứu rộng rãi bằng cách sử dụng các copolymer
lưỡng tính di-block (hydrophilic-hydrophobic), tri-block (hydrophilic-hydrophobic-
hydrophilic) hoặc các copolymer ghép để hình thành các micelle polymer tự lắp ráp
giúp phân phối thuốc tốt hơn. Các copolymer ghép lưỡng tính tự lắp ráp thành các
micelle với cấu trúc vỏ - lõi hình cầu, có đường kính khoảng 10 - 80 nm, bao gồm
một lõi kỵ nước để nạp thuốc và phần vỏ ưa nước hoạt động như một rào cản vật lý
ngăn chặn gắn kết với protein, và sự oposin hóa trong quá trình tiêm tĩnh mạch [12].
4
Hình 1.2. Các cấu trúc micelle polymer [12]
1.1.1.2. Ưu điểm và nhược điểm của micelle
a. Ưu điểm của micelle
Micelle có cấu trúc lõi - vỏ, có thể giữ được các thuốc kỵ nước trong phần lõi
kỵ nước, giúp tăng độ hòa tan của thuốc lên gấp 10 - 500 lần và kéo dài thời gian lưu
thông của thuốc trong máu.
Hầu hết các micelle ít độc hại và dễ dàng được đào thải qua thận.
b. Nhược điểm của micelle
Hiệu quả mang thuốc của micelle khá thấp, do phần lớn các micelle thông
thường dựa trên tương tác kỵ nước để mang các thuốc kém tan. Để tối ưu hóa hàm
lượng thuốc trong micelle, ngoài tương tác kỵ nước cần nghiên cứu phát triển tổng
hợp các micelle dựa trên cơ sở tương tác giữa polymer và thuốc như liên kết hydro,
tương tác tĩnh điện, …. [13].
Hình 1.3. Sự kém ổn định của micelle do tương tác với protein huyết thanh. A.
Phóng thích thuốc; B. Hấp phụ protein; C. Thâm nhập protein [13]
5
Micelle kém ổn định trong môi trường sinh học, phần lớn các micelle được
hình thành từ sự lắp ráp vật lý các polymer. Nồng độ của micelle bị giảm bởi sự pha
loãng trong dòng máu, các micelle dễ phân rã thành các unimer, dẫn đến sự giải phóng
thuốc không kiểm soát và giảm thời gian bán thải của thuốc. Savic cùng cộng sự cho
thấy micelle của poly(caprolactone)-b-poly(ethylene oxide) không ổn định trong môi
trường nuôi cấy chứa huyết thanh có hoặc không có tế bào [14]. Hơn nữa, các micelle
polymer thông thường dễ tương tác với các thành phần có trong máu như protein, tế
bào, ... sự hình thành phức giữa PEG và protein có thể gây ra sự kết tụ micelle hoặc
phân rã micelle thành các unimer, từ đó ảnh hưởng đáng kể đến sự ổn định của micelle
trong in vivo [15]. Do đó, việc cải thiện sự ổn định của micelle trong máu là mục tiêu
hàng đầu để tăng hiệu quả điều trị.
Sự tương tác giữa micelle và tế bào vẫn chưa được làm rõ, một số nghiên cứu
cho thấy cả tương tác tĩnh điện và kỵ nước đóng vai trò quan trọng trong việc vận
chuyển thuốc qua trung gian micelle vào các tế bào. Việc gắn thêm các phần tử hướng
đích trên bề mặt micelle như: biotin, folate, antibodies, growth factors,… hoặc kết
hợp với các yếu tố nhạy cảm kích thích là một trong những giải pháp có thể làm tăng
sự hấp thu tế bào của micelle [16].
1.1.1.3. Sự đóng gói thuốc vào trong micelle
Thuốc có thể được đóng gói vào trong micelle trên cơ sở các tương tác vật lý
hoặc liên kết hóa học. Thuốc được đóng gói bởi sự liên hợp hóa học sẽ được giải
phóng khỏi micelle bởi sự suy thoái phần lớn khối lượng của polymer, trong khi thuốc
được đóng gói bằng tương tác vật lý sẽ được giải phóng bằng cách khuếch tán [12].
Một số phương pháp được sử dụng rộng rãi để đóng gói thuốc vào bên trong
các micelle gồm: kỹ thuật nhũ tương dầu trong nước (O/W); kỹ thuật nhũ tương nước
trong dầu (W/O/W); thẩm tách; bay hơi đồng dung môi; và đông khô. Trong số các
phương pháp nêu trên, kỹ thuật nhũ tương dầu trong nước (O/W), thẩm tách và bay
hơi đồng dung môi phù hợp cho việc đóng gói các thuốc kỵ nước, trong khi kỹ thuật
nhũ tương nước trong dầu (W/O/W) thường được ưu tiên cho việc đóng gói các hợp
chất ưa nước.
Nhờ vào tính chất đặc trưng của micelle là có kích thước nhỏ, giúp chúng dễ
xâm nhập vào mạch máu của khối u một cách hiệu quả, do đó chúng được sử dụng
6
như hệ chất mang thuốc trong hóa trị ung thư. Doxorubicin và paclitaxel gần đây đã
được phê duyệt cho các thử nghiệm lâm sàng và là ví dụ điển hình của các micelle
được sử dụng làm hệ chất mang các thuốc hóa trị liệu. Paclitaxel được đóng gói vào
trong các micelle polymer cho thấy hiệu quả điều trị tốt ở những bệnh nhân có khối
u ác tính tiến triển, ung thư vú di căn và ung thư phổi tế bào không nhỏ [17-19].
Nishiyama và cộng sự đã báo cáo các micelle trên cơ sở PEG-b-poly(amino acid)
mang cisplatin để nhắm mục tiêu thuốc thụ động vào khối u. So với thuốc tự do, các
micelle đã mang được lượng lớn cisplatin đến vị trí các khối u rắn nhưng thuốc đồng
thời cũng được đưa vào gan và lá lách [20].
1.1.2. Giới thiệu nanogel
Thuật ngữ “nanogel” được định nghĩa là những hạt có kích thước nano được
tạo thành bởi các liên kết ngang có tính chất vật lý hoặc hóa học của các mạng lưới
polymer. Kích thước của các nanogel thường trong khoảng từ 20-200 nm, do đó giảm
được sự thanh thải của thận và kéo dài thời gian bán thải trong huyết thanh [21-22].
Các nanogel này có thể bẫy các phân tử kỵ nước (các thuốc chống ung thư),
các protein (enzyme, insulin, protein kháng nguyên), và các acid nucleic (plasmid
ADN), vì thế chúng được sử dụng như các nano polymer trong lĩnh vực điều trị ung
thư, phân phối protein và các vaccine nhân tạo [23].
1.1.2.1. Sự hình thành nanogel
Nanogel có khả năng hấp thụ một lượng nước lớn hoặc chất lỏng sinh học mà
không làm biến đổi cấu trúc của chúng, điều này được cho là trong cấu trúc có sự
hiện diện của các nhóm chức ưa nước như: -OH, -CONH-, -CONH2, -SO3H. Trong
môi trường nước nanogel có khả năng trương mà không tan, nhờ vào tính chất đặc
biệt này làm cho nanogel trở thành hệ chất mang tiềm năng cho rất nhiều ứng dụng.
Nhiều nghiên cứu cho thấy nanogel có khả năng vận chuyển thuốc cao, độ ổn định
tốt, và có khả năng đáp ứng với nhiều sự kích thích môi trường (cường độ ion, pH và
nhiệt độ) [24].
Khả năng trương trong nước là một trong những đặc tính quan trọng nhất của
nanogel, điều này có được là nhờ vào sự hình thành các liên kết ngang hóa học hoặc
vật lý giữa các polymer. Nói cách khác, bản chất của việc hình thành các nanogel là
7
sự hình thành các liên kết ngang thích hợp giữa các polymer, có 2 phương pháp để
tổng hợp nanogel:
- Nanogel được tổng hợp từ các tiền chất là polymer: tiền chất polymer có thể
là các copolymer lưỡng tính hoặc triblock copolymer, các copolymer này có thể tự
lắp ráp để hình thành nanogel hoặc trong cấu trúc các polymer có các vị trí phản ứng
có thể được sử dụng trực tiếp để hình thành liên kết ngang hóa học.
- Nanogel được tổng hợp thông qua quá trình trùng hợp không đồng nhất các
monomer gồm 2 bước: sự trùng hợp các monomer và sự hình thành nanogel.
Hình 1.4. Các phương pháp tổng hợp nanogel [24]
a. Sự hình thành liên kết ngang vật lý
Liên kết ngang vật lý trong chuỗi polymer có thể được hình thành từ các yếu
tố môi trường như: pH, nhiệt độ, lực ion, … hoặc các tương tác hóa lý khác gồm lực
Van der Waals (liên kết hydro, tương tác kỵ nước) và tương tác tĩnh điện [24].
● Tương tác kỵ nước: các phân tử polymer có chứa một đầu ưa nước và một
đầu kỵ nước có thể được tạo thành bằng phản ứng trùng hợp hoặc bằng cách trực tiếp
tạo ra một khối copolymer. Các phân tử polymer này có thể hòa tan trong nước ở
nhiệt độ thấp, nhưng khi nhiệt độ tăng các liên kết hydro bị cắt đứt, phần kỵ nước có
xu hướng xoay vào trong để giảm thiểu diện tích bề mặt tiếp xúc trực tiếp với nước.
Nhiệt độ mà tại đó xảy ra hiện tượng gel hóa phụ thuộc vào nồng độ của các polymer,
độ dài đầu kỵ nước và cấu trúc hóa học của polymer.
8
Hình 1.5. Tương tác kỵ nước [38]
● Tương tác ion: tương tác ion (tương tác tĩnh điện) đã được nghiên cứu rộng
rãi để hình thành liên kết ngang trong quá trình gel hóa. Một lợi thế của phương pháp
này là sự phân hủy sinh học có thể xảy ra như: sự phân ly ion trong ngoại bào, phá
vỡ mạng lưới liên kết ngang. Tương tác ion có thể xảy ra giữa một phân tử polymer
và một phân tử nhỏ hoặc giữa hai phân tử polymer trái dấu để tạo liên kết ngang trong
gel hạt nano, nhằm tạo ra chuỗi phân tử ba chiều thích hợp cho mang, nhả thuốc.
Hình 1.6. Tương tác ion [38]
Nanogel được hình thành bởi các liên kết ngang vật lý giữa các chuỗi polymer
sẽ cung cấp nhiều lợi ích cho sự vận chuyển các hợp chất có hoạt tính sinh học, đặc
biệt là các thuốc kỵ nước và thuốc sinh học. Các nanogel được hình thành bởi liên
kết ngang vật lý thường xảy ra trong môi trường nước và các điều kiện êm dịu. Các
thông số môi trường như: giá trị pH, lực ion và nhiệt độ nên được kiểm soát, vì có
ảnh hưởng lớn đến kích thước hạt.
Các polymer lưỡng tính thường có khung ngoài ưa nước và được ghép với một
số nhóm kỵ nước, sự liên kết của các nhóm kỵ nước giúp hình thành các điểm liên
kết ngang để tạo thành các nanogel ổn định. Lớp vỏ ngoài ưa nước không chỉ đóng
vai trò là hàng rào chống lại sự tương tác với các protein và các mô trong cơ thể mà
còn bảo vệ nanogel khỏi sự nhận biết và oposin hóa bởi hệ thống thực bào đơn nhân
9
giúp kéo dài thời gian lưu thông trong máu. Đồng thời, phần lõi kỵ nước có thể mang
và vận chuyển thuốc hiệu quả thông qua tương tác kỵ nước và tương tác tĩnh điện.
Hình 1.7. Sự hình thành nanogel từ polymer lưỡng tính [24]
Các polysaccharide liên hợp cholesterol đã được quan tâm sử dụng để tạo các
nanogel ổn định với kích thước dưới 100 nm. Pullulan khi được liên hợp với các
nhóm cholesterol có thể tạo nanogel tự lắp ráp với đường kính khoảng 50 nm thông
qua tương tác kỵ nước giữa các nhóm cholesterol [25]. Wei và cộng sự cũng đã tổng
hợp hệ chất mang nano CHA-thuốc (Cholesterol-modified hyaluronic acid), hệ liên
hợp này có thể tạo nanogel có đường kính trong khoảng từ 20 - 40 nm bằng cách siêu
âm trong môi trường nước thông qua các liên kết ngang vật lý [26].
Các dung dịch của cation dextran và anion dextran đã được Takeo và cộng sự
thực hiện điều chế và phối trộn với nhau theo tỷ lệ thích hợp để hình thành nanogel
phức polyion (PIC-NG). Các nanogel PIC-NG được hình thành nhờ vào cầu muối
liên kết ngang vật lý giữa các nhóm cation và anion [27].
Hình 1.8. Sự hình thành nanogel từ các polymer qua tương tác tĩnh điện [24]
b. Sự hình thành liên kết ngang hóa học
Nanogel hình thành bởi liên kết ngang hóa học bền hơn so với nanogel hình
thành bởi liên kết ngang vật lý. Các liên kết ngang hóa học thường có bản chất là liên
kết cộng hóa trị được hình thành trong điều kiện pha loãng của các polymer tan trong
nước, dẫn đến hình thành mạng lưới polymer không hòa tan [24].
10
Nanogel được tổng hợp bằng phương pháp trùng hợp các monomer trong đó
các liên kết ngang hóa học đóng vai trò quan trọng trong tiến trình này. Zhou cùng
cộng sự đã tổng hợp thành công nanogel dextran-PAAPBA bằng phương pháp trùng
hợp các monomer sử dụng dextran, 3-acrylamidophenylboronic acid (AAPBA) và
N,N′-methylene bisacrylamide (MBA). Trong đó, ceric ammonium nitrate (CAN)
đóng vai trò là chất khơi màu và N,N’-methylene bisacrylamide (MBA) là các liên
kết ngang. Các nhóm carboxyl của AAPBA và các nhóm proton-accepting của
dextran đã dẫn đến sự tự lắp ráp thông qua liên kết hydro [28].
Liên kết disunfide cũng có thể được sử dụng để tạo liên kết ngang các polymer
để hình thành nanogel. Nanogel trên cơ sở các dẫn xuất dextran–lipoic acid đã được
Li và cộng sự tổng hợp thành công. Các nanogel này dễ dàng hình thành liên kết
ngang bởi việc sử dụng một lượng xúc tác dithiothreitol (DTT) [29].
1.1.2.2. Ưu điểm và nhược điểm của nanogel
a. Ưu điểm của nanogel
Nanogel gây chú ý với khả năng vận chuyển thuốc và các hoạt chất sinh học,
trở thành hệ mang, nhả thuốc vượt trội với các ưu điểm sau:
- Khả năng mang thuốc của nanogel tương đối cao khi so sánh với các vật liệu
nano và các hệ thống phân phối thuốc khác. Khả năng mang thuốc cao và có thể
không nhất thiết có bất kỳ phản ứng hóa học nào, do đó có thể giúp giữ được nguyên
các hoạt tính của thuốc. Điều này là do ảnh hưởng của các nhóm chức hiện diện trên
mạng lưới polymer, các nhóm chức này có ảnh hưởng lớn đến đặc tính mang và nhả
thuốc của nanogel, trong đó một số nhóm chức có thể liên hợp với thuốc/kháng thể
cho tiềm năng điều trị hướng đích. Theo báo cáo của TSoni và Yadav (2016) đã chỉ
ra rằng so với các hạt nano như micelle, hạt nano phân hủy sinh học, liposome hoặc
nanocapsules, nanogel có khả năng mang thuốc cao và sự giải phóng thuốc có kiểm
soát được điều chế bằng cách thay đổi mật độ liên kết ngang của các polymer (đạt
hiệu quả mang thuốc lên đến 50%) [30].
- Các nanogel ổn định tương đối tốt trong điều kiện sinh học so với các micelle
chất hoạt động bề mặt và các micelle polymer thông thường. Các nanogel được tổng
hợp bằng cách thay đổi điện tích bề mặt, dẫn đến lực đẩy lớn hơn giữa các hạt, giúp
tránh sự kết tụ của nanogel trong máu.
11
- Các nanogel được tổng hợp với cấu trúc lớp nước xung quanh chuỗi polymer,
giúp giảm thiểu sự liên kết không đặc hiệu với các protein trong huyết thanh và tồn
tại lâu hơn trong dòng máu. Các polymer ưa nước này có thể hoạt động như một lá
chắn cản trở giúp nanogel tránh sự loại bỏ nhanh chóng bởi hệ thống thực bào đơn
nhân thông qua quá trình oposin hóa. Pluronic liên hợp với heparin thông qua liên kết
ngang disulfide, có khả năng giúp tăng cường hiệu quả đóng gói thuốc sinh học, tăng
tính ổn định của chất mang và tránh sự hấp thu protein trong dòng máu [31]. Nanogel
zwitterionic poly(aspartamide) mang thuốc doxorubicin đã được báo cáo bởi Caicai
Lu và cộng sự cho thấy các tính năng tương thích sinh học, giảm sự hấp thu protein
trong máu và đáp ứng pH [32].
- Nanogel có kích thước hạt nhỏ và các đặc tính bề mặt giúp làm tăng khả năng
vận chuyển cũng như sinh khả dụng của thuốc. Nhờ vào thể tích nhỏ các nanogel có
khả năng tiếp cận được đến các mao mạch nhỏ nhất, từ đó giúp tránh sự đào thải qua
thận, kéo dài thời gian bán thải trong huyết thanh, dễ dàng thâm nhập vào các mô
cũng như xuyên qua giữa các tế bào nội mô ở các vị trí bệnh lý như: khối u rắn, mô
viêm và vùng bị nhiễm trùng. Các mô khối u có tính thấm mao mạch cao, các hạt
nano thấm vào mô khối u và tích lũy ở đó, làm tăng lượng thuốc và sự chọn lọc của
hệ chất mang thuốc.
- Nanogel có thể phân phối thuốc hướng đích cả thụ động và chủ động do có
khả năng đáp ứng ứng nhanh với những thay đổi của môi trường như pH và nhiệt độ,
từ đó giúp kiểm soát được khả năng nhả thuốc và tích lũy tại tế bào ung thư.
Hình 1.9. Sự giải phóng thuốc từ nanogel [21]
- Nanogel có thể phân phối thuốc nhắm mục tiêu do sự hiện diện của các nhóm
chức liên hợp với kháng thể/thuốc. Từ đó, dẫn đến tính chọn lọc cao và ngăn ngừa sự
12
tích tụ của thuốc trong các mô không hướng đích như mô cơ và mô mỡ, giúp cải thiện
hiệu quả điều trị và giảm các tác dụng phụ không mong muốn của thuốc,….
- Nanogel được hình thành từ các polymer tự nhiên hoặc tổng hợp có độ tương
hợp sinh học cao và có thể bị phân hủy sinh học, do đó tránh được sự tích lũy ở các
cơ quan trong cơ thể. Chitosan, ethyl cellulose, methyl cellulose và các polymer trên
cơ sở polysaccharide như heparin, dextran, pullulan và dextrin có thể được dùng để
tổng hợp nanogel.
- Nanogel có ái lực cao với dung dịch nước, dẫn đến khả năng trương nở hoặc
thấm nước khi ở trong môi trường nước. Đây là đặc tính có lợi nhất của nanogel, nó
làm cho chúng trở thành vật liệu lý tưởng cho sự hấp thu và mang protein, peptide,
đại phân tử sinh học cũng như các thuốc cồng kềnh.
- Việc đưa thuốc vào nanogel là dễ dàng, tự phát, và đôi khi không nhất thiết
có bất kỳ phản ứng hóa học nào, điều này làm cho tiến trình chuẩn bị nanogel hiệu
quả.
- Các đại phân tử sinh học cũng như các hợp chất nhạy cảm có thể được đóng
gói hiệu quả trong các nanogel cho mục đích kéo dài hoạt động của các phân tử này
trong môi trường sinh học.
b. Nhược điểm của nanogel
Hạn chế duy nhất của nanogel là tốn kém trong việc loại bỏ các chất hoạt động
bề mặt và dung môi trong quá trình điều chế. Các tác dụng phụ có thể xảy ra nếu còn
tồn động dung môi, polymer và chất hoạt động bề mặt có hại trong cơ thể.
1.1.2.3. Sự đóng gói thuốc vào trong nanogel
Vật liệu nano và nanogel có khả năng tương tác với nhiều thành phần vô cơ
và hữu cơ, sự tương tác giữa các thành phần này chủ yếu thông qua liên kết hydro,
liên kết cộng hóa trị, lực tĩnh điện và lực Van Der Waals. Những tương tác này xác
định hiệu quả đóng gói thuốc của nanogel, sự đóng gói thuốc vào nanogel được thực
hiện thông qua 3 cơ chế sau đây:
a. Bẫy vật lý
Việc đóng gói thuốc vào trong nanogel có thể đạt được thông qua các tương
tác không cộng hóa trị như: liên kết ion, tương tác kỵ nước và liên kết hydro. Trong
hầu hết các trường hợp, thuốc được đóng gói vào trong nanogel bằng bẫy vật lý nhờ
13
vào tương tác kỵ nước giữa các phân tử thuốc với nanogel dẫn đến hiệu quả mang
thuốc thấp.
Một ví dụ về sự tự lắp ráp của cholesteryl-6-aminohexylcarbamate kết hợp với
acid hyaluronic hình thành nanogel mang protein. Gel này kết hợp với hormone tăng
trưởng người tái tổ hợp (rhGH) được tiêm vào chuột, cũng cho thấy sự giải phóng
thuốc bền vững trong hơn một tuần [33]. Chitin được sử dụng nhiều trong tổng hợp
nanogel vì nó có khả năng phân hủy sinh học cao, tương thích sinh học, không gây
kích ứng da, dễ dàng sử dụng, ít tốn chi phí. Nó có thể hình thành phức hợp
polyelectrolyte do có số lượng lớn các nhóm phản ứng -OH và -NHCOCH3. Sabitha
Mangalathillam và cộng sự đã báo cáo hệ nanogel chitin mang curcumin có độ ổn
định và phân tán tốt trong nước, được hình thành thông qua liên kết hydro giữa
curcumin và nanogel chitin. Hệ nanogel này được ứng dụng trong điều trị ung thư da
nhờ vào điện tích cation của chitin và bản chất ưa béo của cả chitin và curcumin tạo
điều kiện cho sự thấm vào da [34].
b. Sự liên hợp cộng hóa trị
Sự liên hợp cộng hóa trị của thuốc với nanogel có thể giúp ổn định thêm sự
đóng gói thuốc vào nanogel. Các nanogel phân hủy sinh học được hình thành trên cơ
sở polysaccharide chứa các nhóm hydroxyl dễ dàng tương tác với nhóm carboxyl
trong thuốc bằng cách hình thành các liên kết ester. Trong những trường hợp như
vậy, việc giải phóng thuốc là do sự phân cắt các liên kết nhóm chức bởi các enzyme
như esterase [35-36].
c. Sự tự lắp ráp kiểm soát
Sự tự lắp ráp về cơ bản chứa các liên kết không cộng hóa trị với thuốc, các
phân tử tự lắp ráp được đặc trưng bởi sự khuếch tán, theo sau là sự liên kết giữa các
phân tử thông qua các tương tác như liên kết tĩnh điện hoặc tương tác kỵ nước. Các
nanogel trên cơ sở polyelectrolyte có xu hướng tự lắp ráp với sự có mặt của các chất
tan tích điện trái dấu như: chất hoạt động bề mặt, polynucleotide, protein và polyion
tổng hợp [37]. Sự liên hợp thuốc có tiềm năng được thực hiện bởi các liên kết disulfide
giúp thuốc tương tác với các hạt nano, đôi khi được kích thích để giải phóng thuốc,
trong đó các nanogel liên kết ngang disulfide có khả năng mang thuốc doxorubicin
và paclitaxel cao thì nhạy cảm với pH và nhiệt độ.
14
Hình 1.10. Các tương tác liên phân tử thúc đẩy tiến trình tự lắp ráp gồm tương tác
tĩnh điện và tương tác kỵ nước [21]
Tương tác giữa các polysaccharide trung tính thường yếu hoặc không tồn tại,
một sự biến tính hóa học là cần thiết để kích hoạt sự tự lắp ráp. Polysaccharide được
liên kết với phần kỵ nước, trong môi trường nước các polymer ghép lưỡng tính hình
thành các hạt nano tự lắp ráp thông qua các liên kết nội phân tử hoặc liên phân tử
giữa các phần kỵ nước. Các phân tử này có thể tự định hướng vùng ưa nước tiếp xúc
với môi trường phân cực (thường là nước), các phần kỵ nước sẽ tập hợp tại bên trong
tạo lõi kỵ nước mang thuốc [21].
Một số yếu tố khác cũng góp phần vào hiệu quả mang thuốc như: thành phần,
trọng lượng phân tử, tương tác giữa thuốc và polymer hoặc các nhóm chức khác nhau
trong cấu trúc polymer.ol of Pharmacy andPharmaceutical
1.1.2.4. Phương cách phân phối thuốc của chất mang nano và nangel
Nhằm nâng cao hiệu quả vận chuyển thuốc, đặc biệt là việc đưa thuốc đến
đúng vị trí khối u trong cơ thể, các phân tử sinh học như gene, protein, peptide đã
được ứng dụng. Tuy nhiên, các phân tử sinh học này không bền, thời gian phân hủy
nhanh dẫn đến chúng bị phân hủy trước khi đến khối u và ảnh hưởng nghiêm trọng
đến môi trường ngoại bào ở những nơi chúng đi qua. Do vậy, hệ chất mang nanogel
được lựa chọn thay thế vì chúng có kích thước nano, có thể mang được lượng thuốc
lớn, thời gian lưu thông trong dòng máu lâu, tích lũy nhiều trong khối u ung thư, giảm
thiểu các độc tính có hại cho môi trường nội bào và các tế bào bình thường. Có 2 cách
mà chất mang nano có thể phân phối thuốc đến các mô ung thư:
a. Phân phối thuốc tới đích thụ động
Sự định hướng thụ động xuất phát từ hiện tượng tăng tính thấm và tăng hiệu
quả lưu giữ (Enhanced Permeability and Retention Effect - hiệu ứng EPR) đặc trưng
15
ở các mô ung thư. Tại hầu hết các mô khỏe mạnh, kích thước các khe hở lớp nội mô
thành mạch máu thường nhỏ hơn 2 nm. Với khe hẹp giữa các lớp nội mô thành mạch
máu, các phân tử thuốc có khối lượng phân tử nhỏ cũng có thể lọt qua, gây độc cho
tế bào lành. Tuy nhiên các khe hở này quá nhỏ so với kích thước của chất mang
nanogel. Còn tại mô ung thư, do sự phát triển của tế bào ung thư đòi hỏi sự tăng sinh
mạch máu, các vi mạch máu mới được hình thành tại các mô ung thư và có kích
thước từ 100 – 800 nm. Do đó các hạt nanogel mang thuốc tồn tại trong hệ tuần hoàn
máu với kích thước 10 – 100 nm có thể vượt qua dễ dàng và đi vào mô ung thư. Các
phức hợp chất mang - thuốc sau khi đã đi vào các khe hở tế bào này sẽ bị kẹt giữ lại
khi các tế bào ung thư phát triển. Thêm vào đó, do không có hệ bạch huyết cần thiết,
tốc độ đào thải các phức hợp này ra khỏi tế bào ung thư là rất hạn chế. Vì thế trong
chữa trị bệnh ung thư, thuốc được mang trên chất mang biến tính có nhiều lợi thế hơn
thuốc không có chất mang [38].
Hình 1.11. Sự hướng đích thụ động theo cơ chế EPR [38]
b. Phân phối thuốc tới đích chủ động
Chất mang thuốc được gọi là lý tưởng nếu như nó là chất mang thuốc “thông
minh” tức là mang và phân phối thuốc hoặc các hoạt chất đến đúng nơi cần chữa trị
mà không tới các tế bào bình thường. Phân phối thuốc tới đích chủ động được thực
hiện bằng cách trên bề mặt của chất mang được gắn thêm các phần tử định hướng.
Các phần tử định hướng có thể là các kháng thể, các peptide hoặc là các ligand
carbohydrate đặc hiệu với các kháng nguyên và thụ thể trên bề mặt tế bào ung thư.
Phương cách này được chứng minh là giúp khắc phục tình trạng đa kháng thuốc của
các tế bào ung thư [38].
16
1.1.2.5. Sự giải phóng thuốc của nanogel
Sự giải phóng thuốc của nanogel dựa trên cơ sở các đặc tính của polymer có
thể đáp ứng cao với sự thay đổi của môi trường. Nhờ cấu trúc mạng lưới 3D, nanogel
dễ dàng thay đổi trạng thái để vận chuyển và kiểm soát việc giải phóng thuốc trong
các môi trường khác nhau, đặc biệt của môi trường vi khối u, chủ yếu bao gồm: độ
pH và nhiệt độ.
a. Cơ chế nhạy pH
Nanogel trên cơ sở polymer nhạy pH có thể đáp ứng với sự thay đổi giá trị pH
của môi trường trong cả in vitro và in vivo. Các nanogel này cho thấy hiệu quả giải
phóng thuốc chậm trong hệ tuần hoàn máu và phóng thích thuốc nhanh ở vị trí đích.
Trong điều kiện pH acid sự thay đổi trạng thái ion hóa của nanogel dẫn đến sự trương
nở của chúng, kết quả này giúp cho nanogel có thể mang cũng như nhả các phân tử
sinh học [39].
Nhiều nghiên cứu đã báo cáo rằng pH ngoại bào của các biểu mô ung thư (pH
6,5 - 7,2) thấp hơn so với biểu mô tế bào thường và các dịch sinh học khác (pH 7,4),
nó giảm mạnh trong tế bào khối u (hạt nội chất pH 5,0 - 6,5 và trong lysosome pH
4,5 - 5,0) [5, 40]. Nhờ khoảng pH rộng trong hệ thống sinh lý, các nanogel nhạy pH
đã được ứng dụng để vận chuyển và kiểm soát sự giải phóng thuốc đến các mô ung
thư bằng cách điều chỉnh sao cho bị phá vỡ cấu trúc và phóng thích thuốc tại giá trị
pH thấp trong vùng lân cận của các mô ung thư.
Các nanogel nhạy pH được cấu thành từ các polysaccharide tự nhiên có tính
tương hợp sinh học với sự biến đổi trạng thái co lại hoặc giãn nở đã được thiết kế để
giải phóng thuốc kiểm soát. Nanogel trên cơ sở polymer pullulan ghép vinyl ether-
cholesterol được thực hiện bởi Nobuyuki Morimoto và nhóm cộng sự [41]. Họ đã
tổng hợp ra nanogel acid-labile cholesterol-bearing pullulan (acL-CHP) trên cơ sở tự
lắp ráp ở pH trung tính để hình thành cấu trúc mạng lưới ổn định mang cholesterol.
Ở pH 4,0 và trong điều kiện xúc tác acid xảy ra quá trình thủy phân các liên kết
cholesteryl vinyl ete, dẫn đến sự trương nở của các nanogel acL-CHP và cuối cùng là
sự phân rã của các nanogel để giải phóng thuốc.
17
Hình 1.12. Quá trình giải phóng thuốc do sự thủy phân liên kết cholesteryl vinyl ete
ở pH 4,0 của nanogel acL-CHP [41]
Y. Li và cộng sự đã báo cáo hệ nanogel nhạy pH trên cơ sở polypeptid mang
thuốc kỵ nước doxorubicin (DOX). Nanogel này được tổng hợp từ methoxy
poly(ethylene glycol)-b-poly[N-[N-(2-aminoethyl)-2-aminoethyl]-L-glutamate]
(MPEG-b-PNLG) ưa nước và terephthalaldehyde (TPA) kỵ nước có vai trò như các
liên kết ngang. Nanogel được tổng hợp ở điều kiện pH 7,4 có độ ổn định cao. Trong
điều kiện pH acid ở mô khối u (pH 6,4) liên kết benzoic imine bị phân cắt dẫn đến sự
phân hủy cấu trúc nanogel và giải phóng thuốc DOX [42].
Cunxian Duan và cộng sự đã báo cáo hệ nanogel nhạy pH được tổng hợp từ
polymer chitosan-graft-poly (N-isopropylacrylamide) được galactosyl hóa (Gal-CS-
g-PNIPAm) làm chất mang oridonin (ORI) để nhắm mục tiêu khối u. Các nanogel
duy trì cấu trúc ổn định ở pH 7,4 trong suốt quá trình vận chuyển thuốc trong máu. Ở
điều kiện pH có tính acid của tế bào ung thư (trong hạt nội chất pH 5,0 - 6,5 và trong
lysosome pH 4,5 - 5,0), nanogel trở nên xốp hơn, do lực đẩy tĩnh điện tăng lên giữa
các nhóm amin được proton hóa trên nanogel, dẫn đến sự phóng thích thuốc [43].
Hình 1.13. Mô hình giải phóng thuốc của nanogel Gal-CS-g-PNIPAm [43]
18
b. Cơ chế nhạy nhiệt
Nanogel nhạy nhiệt là nanogel có biểu hiện chuyển trạng thái co rút - trương
nở do thay đổi của nhiệt độ môi trường. Sự thay đổi nhiệt độ có thể tạo ra sự thay đổi
bên trong mạng lưới nanogel, từ đó giúp kiểm soát được tốc độ giải phóng thuốc bên
trong nanogel.
Poly(N-isopropylacrylamide) (PNIPAM) là một trong những polymer nhạy
nhiệt tiêu biểu được ứng dụng rộng rãi trong y sinh. Nhờ có nhiệt độ dung dịch tới
hạn thấp (LSCT-the lower critical solution temperature) trong khoảng nhiệt độ cơ thể
và nhiệt độ phòng. Cấu trúc của polymer này đặc trưng bởi sự cân bằng tinh vi giữa
các phần ái nước và ái dầu, do đó chỉ cần có sự thay đổi rất nhỏ của nhiệt độ cũng có
thể dẫn đến sự biến đổi lớn trong lớp hydrat. Ở nhiệt độ dưới 32oC (LSCT của
PNIPAM là 32oC) PNIPAM thì ưa nước, polymer ở dạng trương nở. Ở nhiệt độ lớn
hơn 32oC PNIPAM trở nên kỵ nước làm co mạch polymer lại và xảy ra hiện tượng
tách pha [44-45].
Hình 1.14. Sự thay đổi cấu dạng của polymer PNIPAM theo LCST (32oC) trong
nước (nhiệt độ dưới 32oC polymer ở dạng trương nở, khi nhiệt độ lớn hơn 32oC
polymer NIPAM trở nên kỵ nước và co lại) [44]
Các nanogel nhạy nhiệt được phát triển trên cơ sở PNIPAM với các đặc tính
nhạy cảm với nhiệt độ đã được nghiên cứu tổng hợp. Shin và cộng sự đã báo cáo ở
nhiệt độ trên LSCT của PNIPAM, dẫn đến sự co lại đột ngột của gel và giải phóng
indomethacin [46]. Chunyan Wang và cộng sự đã phát triển nanogel nhạy nhiệt trên
cơ sở poly(N-isopropylacrylamide) (NIPAM) mang doxorubicin (DOX-CGN) được
19
chuẩn bị từ chitosan biến đổi hóa học với graphene oxit (CRGO). Graphene được sử
dụng làm vật liệu quang nhiệt để phản ứng với tia hồng ngoại gần NIR (near infrared).
Hệ phân phối thuốc nanogel graphene được kích hoạt bắt đầu giải phóng doxorubicin
ở 42°C bằng NIR sau khi polymer NIPAM co lại [47].
1.2. Polysaccharide sulfate
1.2.1. Heparin
Heparin là một polysaccharide sulfate có cấu trúc là sự lặp lại của các
disaccharide gồm các đơn vị uronic acid và glucosamine xen kẽ với nhau và liên kết
với nhau bằng liên kết 1,4-glycoside [48].
Hình 1.15. Cấu tạo heparin [48]
Heparin được tìm thấy trong các hạt của các dưỡng bào (mast cells) và các tế
bào bạch cầu đa nhân ái kiềm của động vật có vú. Heparin được trích ly từ mô gan
của chó thí nghiệm, do đó nó đã được Howell đặt tên là heparin (hepar tiếng Hy Lạp
có nghĩa là gan).
Từ năm 1935 heparin được sử dụng trong lâm sàng như một chất chống đông
máu, heparin có hoạt tính chống đông tức thời, mạnh, không chỉ phụ thuộc vào nồng
độ heparin mà còn phụ thuộc vào nồng độ antithrombin và các yếu tố đông máu.
Heparin có thời gian bán thải khá ngắn nên cần phải tiêm nhiều lần trong ngày.
Heparin quá liều hoặc quá mẫn cảm có thể dẫn đến chảy máu quá mức, do vậy heparin
được sử dụng kết hợp với thuốc để hỗ trợ việc điều trị ung thư, bên cạnh đó heparin
cũng có tác dụng ức chế một số loại tế bào ung thư [49].
Nhiều nghiên cứu cho thấy heparin là polymer sinh học có tính ổn định, không
độc, ưa nước, phân hủy sinh học và có nhiều chức năng quan trọng khác như: chống
đông máu, chống oxy hóa, chống ung thư, chống viêm và chống tăng sinh mạch máu
góp phần như một yếu tố giúp giảm việc tăng sinh của khối u [50]. Tuy nhiên, thời
gian bán thải của heparin trong cơ thể quá ngắn cho nhiều ứng dụng tiềm năng, vì
vậy heparin thường được kết hợp với nhiều chất hỗ trợ để giảm tỷ lệ biến tính của nó.
20
Trên cơ sở đó, các hệ dẫn truyền thuốc trên nền heparin đã được phát triển trong các
thử nghiệm mang thuốc kháng khối u và sự di căn của khối u đạt được nhiều kết quả
khả quan trong in vitro [51-53].
a. Heparin chưa phân đoạn
Heparin chưa phân đoạn (heparin tiêu chuẩn, heparin tự nhiên, unfractionated
heparin) là một hỗn hợp không đồng nhất những chuỗi mucopolysaccharide có chiều
dài khác nhau (trọng lượng phân tử lớn từ 3000 Da đến 30000 Da, trung bình 15000
Da). Heparin chưa phân đoạn dùng trong y khoa được trích ly từ màng nhày ruột heo
hoặc bò [48].
b. Heparin khối lượng phân tử thấp
Heparin khối lượng phân tử thấp (Low Molecular Weight Heparin=LMWH)
thu được bằng cách khử polymer hóa heparin chưa phân đoạn (bằng tác nhân hóa học
hoặc enzyme). Kết quả của quá trình khử polymer là các chuỗi mucopolysaccharide
ngắn, có trọng lượng phân tử trong khoảng từ 2000 Da đến 9000 Da (trung bình 4000
– 5000 Da). So với các chuỗi dài của heparin chưa phân đoạn, các chuỗi ngắn này có
ái lực thấp hơn với nhiều protein và tế bào. Heparin khối lượng phân tử thấp có thành
phần hóa học tốt hơn có hoạt tính chống nhân tố Xa cao hơn so với hoạt tính chống
thrombin, thời gian bán thải dài hơn và giảm tác dụng phụ.
1.2.2. Fucoidan
Fucoidan là một polysaccharide sulfate tự nhiên nằm trong thành tế bào của
nhiều loài rong biển nâu. Các loại rong biển màu nâu có chứa fucoidan được sử dụng
rộng rãi như là một phần của chế độ ăn uống bình thường ở các nước Đông Á, đặc
biệt là Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. Ngoài ra, fucoidan còn được tìm thấy ở
một số loài động vật không xương sống khác như nhím biển và hải sâm [54].
Thành phần và cấu trúc của fucoidan cực kỳ phức tạp và thay đổi ở các loài
rong nâu khác nhau. Fucoidan ngoài 2 thành phần chính là L-fucose và nhóm sulfate,
còn chứa các thành phần khác như D-xylose, D-mannose, D-galactose, L-rhamnose,
arabinose, glucose, D-glucuronic acid và các nhóm acetyl khác nhau [55-56].
21
Bảng 1.1. Thành phần của fucoidan ở các loài rong nâu [56]
Rong nâu Thành phần hóa học (tỉ lệ mol)
F. vesiculosus fucose, sulfate
F. evanescens C.Ag. fucose/sulfate/acetate (1/1.23/0.36)
F. distichus fucose/sulfate/acetate (1/1.21/0.08)
F. serratus L. fucose/sulfate/acetate (1/1/0.1)
Lessonia vadosa fucose/sulfate (1/1.12)
Macrocytis pyrifera fucose/galactose (18/1), sulfate
Pelvetia wrightii fucose/galactose (10/1), sulfate
Undaria pinnatifida
(Mekabu)
fucose/galactose (1/1.1), sulfate
Ascophyllum nodosum Fucose (49%), xylose (10%), GlcA (11%), sulfate
Himanthalia lorea and
Bifurcaria bifurcate
fucose, xylose, GlcA, sulfate
Padina pavonia fucose, xylose, mannose, glucose, galactose, sulfate
Laminaria angustata fucose/galactose/sulfate (9/1/9)
Ecklonia kurome fucose, galactose, mannose, xylose, GlcA, sulfate
Sargassum stenophyllum fucose, galactose, mannose, GlcA, glucose, xylose,
sulfate
Adenocytis utricularis fucose, galactose, mannose, sulfate
Hizikia fusiforme fucose, galactose, mannose, xylose, GlcA, sulfate
Dictyota menstrualis fucose/xylose/uronic acid/galactose/sulfate
(1/0.8/0.7/0.8/0.4) và (1/0.3/0.4/1.5/1.3)
Spatoglossum schroederi fucose/xylose/galactose/sulfate (1/0.5/2/2)
Fucoidan thể hiện nhiều hoạt tính sinh học như: chống ung thư, chống viêm,
chống đông máu, chống virus, chống oxy hóa, giảm lipid máu, ... Một số nghiên cứu
cho thấy rằng fucoidan gây ra sự tự chết theo chu trình của tế bào để loại bỏ các tế
bào ung thư. Đặc tính chống ung thư của fucoidan đã được đánh giá in vitro và in
vivo ở nhiều loại tế bào ung thư khác nhau [57]. Tuy nhiên, các ứng dụng y sinh trên
cơ sở sử dụng fucoidan làm hệ chất mang thuốc vẫn còn ở giai đoạn đầu phát triển.
22
Năm 2010, Jung Han Yoon Park và cộng sự nghiên cứu cho thấy ở một liều
rất thấp của fucoidan từ F. vesiculus (20 µg/mL) đã ức chế tăng trưởng và gây ra sự
tự chết theo chu trình của tế bào dòng tế bào ung thư đại tràng người HT-29 thông
qua sự kích hoạt các caspase [58]. Năm 2014, Zhongyuan Zhang và cộng sự đã đánh
giá thử nghiệm các dòng tế bào ung thư vú MDA-MB231với 820 µg/ml fucoidan
trọng lượng phân tử thấp, kết quả làm giảm đáng kể các protein chống apoptotic Bcl-
2, Bcl-xl và Mcl-1 [59].
Fucoidan được phát hiện có khả năng ức chế sự tăng sinh và gây chết tế bào
trong dòng tế bào u lympho HS-Sultan của người [60]. Fucoidan từ các loài rong L.
saccharina, L. digitate, F. serratus, F. distichus và F. vesiculosus có tác dụng khóa
chặt tế bào ung thư vú MDA-MB-231 ngăn kết dính với các tiểu cầu, điều này có ý
nghĩa quan trọng trong quá trình di căn khối u [61-63].
Khả năng phục hồi các chức năng miễn dịch của fucoidan cũng đã được nghiên
cứu và thử nghiệm in vitro và in vivo. Fucoidan giúp tăng hoạt động và số lượng tế
bào giết tự nhiên (NK, natural killer) trong in vivo [64-65]. Fucoidan trọng lượng
phân tử cao (200 - 300 kDa) được điều chế từ Cladosiphon okamuranus thúc đẩy sự
gia tăng tỷ lệ gây độc tế bào T ở chuột [66].
1.3. Pluronic
1.3.1. Cấu tạo
Pluronic là polymer nhạy nhiệt và có tính tương hợp sinh học cao, được FDA
chứng nhận và cho phép sử dụng rộng rãi. Pluronic còn được gọi là poly(ethylene
oxide) - poly(propylene oxide) - poly(ethylene oxide) được sắp xếp theo dạng khối
ba A–B–A: PEO - PPO - PEO có cấu trúc đặc biệt với hai nhóm ưa nước ở ngoài,
còn ở giữa là nhóm kỵ nước đây cũng là thành phần nhạy nhiệt của pluronic [67].
Hình 1.16. Cấu trúc pluronic [67]
23
1.3.2. Tính chất
Tất cả các pluronic đều có cấu tạo hóa học giống nhau, chỉ khác nhau ở số
lượng tương đối của poly(ethylene oxide) - poly(propylene oxide) nên trọng lượng
phân tử cũng như đặc tính hoạt động bề mặt của mỗi loại là khác nhau. Hầu hết các
pluronic là các chất rắn có khả năng tan trong nước và chúng hòa tan trong nước lạnh
nhiều hơn trong nước nóng, đó là kết quả của việc gia tăng sự solvat hóa và liên kết
hydro ở nhiệt độ thấp. Điều này được giải thích bởi ở nhiệt độ thấp sẽ tồn tại một lớp
hydrat hóa bao quanh các phân tử pluronic trong dung dịch nước, làm phân tán chúng
và kết quả là các pluronic được hòa tan vào trong nước. Khi nhiệt độ nâng lên các
chuỗi ưa nước của pluronic không solvat hóa nữa do sự đứt gãy các liên kết hydro đã
được thiết lập giữa dung môi và các chuỗi này, do đó mà pluronic không tan tốt trong
nước có nhiệt độ cao (> 20oC).
Các poloxamer thường có tính chất đặc trưng là phản ứng lại với nhiệt độ và
được dùng rộng rãi trong các hệ thống gel nhiệt. Khi ở nhiệt độ thấp (0oC - 4oC), dung
dịch pluronic với một nồng độ thích hợp sẽ tồn tại ở trạng thái lỏng, nhưng khi tăng
nhiệt độ lên nhiệt độ phòng (20oC ~ 25oC) thì lại chuyển sang dạng gel rắn. Tuy nhiên,
dạng gel này sẽ bị thoái biến và chuyển về dạng lỏng ban đầu nếu hạ nhiệt độ xuống.
Nguyên nhân của sự biến đổi thể chất này là do sự hình thành các micelle khi
tăng nồng độ dung dịch pluronic và nhiệt độ môi trường xung quanh. Trong môi
trường nước ở nồng độ thấp (dưới 12% - 15%) chúng tạo thành các micelle đơn phân
tử gồm các phân tử pluronic đơn lẻ, nhưng khi ở nồng độ cao hơn thì nhiều phân tử
tập hợp lại thành các micell hình cầu gồm một lõi trung tâm kỵ nước ở giữa chứa các
chuỗi PPO.
1.3.3. Ứng dụng
Một số pluronic là copolymer không độc, ưa nước, được sử dụng rộng rãi như
một tá dược để làm tăng tính ổn định và độ hòa tan của thuốc. Sự kết hợp của các loại
thuốc kém tan vào trong các hạt micelle pluronic có thể cải thiện được dược tính của
thuốc và tăng sự phân tán sinh học [50].
Pluronic còn có tiềm năng lớn trong việc mang các thuốc khó tan trong nước,
đặc biệt là thuốc trị ung thư và nó dễ dàng kết hợp với một chất khác để tạo ra hệ
nano mang thuốc hiệu quả hơn (do có nhóm -OH đầu mạch).
24
Một số pluronic còn được sử dụng rộng rãi trong đời sống, dùng làm dầu bôi
trơn, mỹ phẩm, ứng dụng làm chất ổn định của màng tế bào, công nghiệp tẩy rửa.
Bảng 1.2. Thông số đặc trưng của một số pluronic
Pluronic Trạng
thái
Tổng số
nhóm PEO
Tổng số
nhóm PPO
Giá trị
HLB
Khối lượng
phân tử (Da)
CMC
L121 Lỏng 10,00 68,28 1 4400 1.0x10−6
L61 Lỏng 4.55 31.03 3 1950 1.1x10−4
P123 Hồ keo 39,20 69,40 8 5750 4.4x10−6
P105 Hồ keo 73.86 56.03 15 6500 6.2x10−6
F127 Rắn 200,45 65,17 22 12600 2.8x10−6
F87 Rắn 122.50 39.83 24 7700 9.1x10−5
F68 Rắn 152.73 28.97 29 8400 4.8x10−4
1.4. Ung thư và thuốc chống ung thư cisplatin
1.4.1. Tổng quan về bệnh ung thư
Theo số liệu thống kê của tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tháng 9/2018, bệnh
ung thư là nguyên nhân hàng đầu gây nên cái chết của 9,6 triệu người trên toàn thế
giới. Trong số các loại ung thư có 6 loại phổ biến, gây tử vong hàng đầu gồm: (1) ung
thư phổi - 1,76 triệu ca tử vong, (2) ung thư ruột kết tràng - 862 ngàn ca tử vong, (3)
ung thư dạ dày – 783 triệu ca tử vong, (4) ung thư gan - 782 ngàn ca tử vong, (5) ung
thư vú - 627 ngàn ca tử vong và các loại bệnh ung thư nói chung, được dự đoán sẽ
tăng lên 70% trong 2 thập niên tới.
Ung thư xảy ra do sự đột biến trong ADN, dẫn đến tế bào tăng sinh vô hạn độ,
vô tổ chức, không tuân theo các cơ chế kiểm soát về phát triển cơ thể. Vấn đề quan
trọng nhất trong bệnh lý ung thư là sự phân biệt giữa các khối u lành tính và ác tính.
Nếu là khối u ác tính, chúng có khả năng xâm nhập quanh các mô bình thường và lan
truyền khắp cơ thể thông qua hệ thống tuần hoàn. Thông qua các nghiên cứu trong
thời gian gần đây, ung thư được chứng minh có liên quan đến yếu tố di truyền, nghĩa
là do sự biến đổi trong các gene dẫn đến những thay đổi trong chức năng và sự phân
chia tế bào. Những thay đổi này là kết quả của sự tương tác giữa các yếu tố di truyền
và các tác nhân bên ngoài, bao gồm: các tác nhân vật lý như tia cực tím, bức xạ ion
25
hóa; các tác nhân hóa học như arsenic, aflatoxin và đặc biệt là khói thuốc lá, các tác
nhân sinh học như nhiễm trùng bởi virus, vi khuẩn, ký sinh trùng [68].
1.4.2. Cisplatin
Cisplatin hay còn được gọi là cis-diamminedichloroplatinum (II), là một hợp
chất phức hợp của kim loại platin với các nhóm clo (-Cl) và amoniac (-NH3). Cisplatin
ít hòa tan trong nước và hòa tan tốt trong dimethylprimanide và N,N-
dimethylformamide.
Cisplatin lần đầu tiên được tổng hợp bởi M. Peyrone vào năm 1844 và cấu trúc
hóa học lần đầu tiên được Alfred Werner làm sáng tỏ vào năm 1893. Tuy nhiên, hợp
chất này không nhận được nhiều chú ý cho đến những năm 1960, khi những quan sát
ban đầu của Rosenberg và cộng sự (1965) tại Đại học bang Michigan chỉ ra rằng một
số sản phẩm điện phân của lưới điện cực platin có khả năng ức chế phân chia tế bào
Escherichia coli, kết quả đó tạo ra nhiều sự quan tâm trong việc ứng dụng các sản
phẩm này trong hóa trị ung thư. Và kể từ khi xác định được cisplatin là nhân tố đóng
vai trò trong khả năng ức chế phân chia tế bào thì các chất phức hợp của platin, và
các kim loại quý khác đã được ứng dụng trong điều trị ung thư [2].
Hình 1.17. Các chất phức hợp chứa platin: (A)-cisplatin; (B)-carboplatin; (C)-
oxaliplatin; (D)-ormaplatin; (E)-enloplatin [2]
Cisplatin đã được sử dụng sớm trong lâm sàng để điều trị nhiều bệnh ung thư
như: ung thư tinh hoàn, ung thư buồng trứng, bàng quang, ung thư vú, u não, u não
ác tính, ung thư tiểu bào phổi (SCLC), u lympho và myelomas [69]. Tuy nhiên, bên
26
cạnh tác dụng điều trị tốt cisplatin cũng gây ra nhiều tác dụng phụ đáng kể như: gây
độc thận, gây độc thần kinh, gây ù tài, nghe kém ở tần số cao, suy tủy, … Đồng thời
khả năng kém tan của cisplatin và sự kháng thuốc của các tế bào ung thư cũng là
những hạn chế lớn làm cho việc sử dụng cisplatin trong điều trị ung thư bị hạn chế.
Do đó, nhiều phức platinum (II) cũng đã được tổng hợp và thử nghiệm, tất cả đều có
cấu trúc tương tự với cisplatin gồm carboplatin, oxaliplatin, ormaplatin và enloplatin.
Sau khi đưa vào cơ thể, cisplatin đi theo dòng máu đến khối u và được đưa
vào tế bào thông qua ba cơ chế: sự khuếch tán thụ động, các protein vận chuyển đồng
(Cu), và các chất vận chuyển cation hữu cơ. Khi cisplatin vào bên trong tế bào, chúng
liên kết với guanine ở vị trí N7, làm ADN bị biến tính dẫn đến mất khả năng phiên
mã, dịch mã và dẫn đến hiện tượng tế bào tự chết. Cisplatin cũng liên kết và làm biến
tính ARN, ngăn chặn ARN tham gia vào các hoạt động tế bào, giúp tăng hiệu quả tác
động của cisplatin nhằm tiêu diệt các tế bào ung thư. Bên cạnh các tác động tích cực,
cisplatin cũng có những hạn chế vì gây độc tế bào, không chỉ ảnh hưởng đến tế bào
ung thư mà còn ảnh hưởng đến tế bào bình thường, gây nhiều tác dụng phụ [69].
Đến nay, cisplatin được chứng minh là một trong những thuốc hóa trị liệu
chống ung thư hiệu quả nhưng cần kết hợp với các thuốc khác trong quá trình điều trị
và cần nhiều nghiên cứu thêm để cải thiện các phương pháp điều trị nhằm cắt giảm
tác dụng phụ của thuốc. Trong đó, hướng nghiên cứu chất mang vận chuyển nhả chậm
thuốc với kích thước nano được xem là một trong những giải pháp hiệu quả nhất
nhằm giải quyết những hạn chế do các tác dụng phụ và sự kháng thuốc của cisplatin.
1.5. Curcumin
Vào năm 1815, Vogel và Pelletier đã phân lập được hoạt chất có trong củ nghệ
và đặt tên là curcumin, (chiếm 2 - 5%). Đến năm 1910, Milobedzka và cộng sự đã
xác định được curcumin là một polyphenol kỵ nước có cấu trúc diferuloylmethan, là
thành phần có hoạt tính sinh học chính, làm nên màu vàng của nghệ. Curcumin không
tan trong nước nhưng tan trong ethanol, kiềm, cetone, acid acetic và chloroform.
Curcumin gồm có 3 hoạt chất chính: curcumin I (curcumin) chiếm chủ yếu,
curcumin II (demethoxycurcumin), curcumin III (bis - demethoxycurcumin).
27
Hình 1.18. Cấu trúc curcumin
Curcumin có nhiều hoạt tính sinh học như: chống tăng đường huyết, chống
viêm, chống oxy hóa mạnh, kháng khuẩn, tác dụng bảo vệ thận, tác dụng chống viêm
loét dạ dày, ... Trong những nghiên cứu gần đây, curcumin đã được chứng minh có
hoạt tính ngăn ngừa ung thư mạnh mẽ, ngay từ giai đoạn khối u khởi phát, phát triển,
di căn, và tăng sinh tạo mạch máu, chống lại sự lan rộng của khối u. Curcumin có tác
dụng bất hoạt phân tử NF-κB và các con đường truyền tín hiệu liên quan đến phân tử
này. NF-κB đóng vai trò quan trọng đối với sự sinh tồn, tăng trưởng, phân chia và di
căn của rất nhiều loại tế bào ung thư. Vì vậy khi phân tử NF-κB bị ức chế, tế bào ung
thư sẽ tự chết, giảm hoặc mất khả năng tăng trưởng và di căn [70].
Năm 2016, nghiên cứu của Sunhui Chen và cộng sự đã cho thấy khi kết hợp
curcumin với 4 loại thuốc chống ung thư docetacel, erlotinib, sunitinib và sorafenib
có thể tạo sự cộng hợp làm tăng hiệu quả của mô hình điều trị, khả năng ức chế sự
tăng trưởng của khối u cao hơn khi sử dụng thuốc riêng lẻ [71]. Tuy nhiên curcumin
có hạn chế do độ hòa tan kém dẫn đến khả năng hấp thụ kém, do đó, hướng nghiên
cứu tạo nanocurcumin để tăng cường sinh khả dụng cũng đang được quan tâm.
1.6. Những nghiên cứu trước đây
Các hướng nghiên cứu vận chuyển, nhả chậm thuốc đã được nghiên cứu và
phát triển mạnh trong những năm gần đây, trong đó sử dụng chất mang nano là một
trong những giải pháp hiệu quả nhất. Nhiều kết quả thử nghiệm chỉ ra rằng, thuốc khi
được mang trong các hệ chất mang nano giúp kéo dài thời gian tuần hoàn trong máu
và tích lũy nhiều trong khối u ung thư thông qua hiệu ứng tăng cường thẩm thấu và
lưu trữ (EPR effect) đặc trưng ở các mô ung thư [38].
Với các ưu điểm trên, nhiều loại chất mang nano đã được nghiên cứu ứng dụng
trong điều trị ung thư, trong đó hướng nghiên cứu về nanogel đang được nhiều nhà
khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu, tuy nhiên các công bố khoa học cũng
28
còn rất ít [72-74]. Gần đây, việc điều chỉnh các dạng oxy hoạt động (ROS) bằng quá
trình oxy hóa sinh học tại vùng khối u là một hướng nghiên cứu mới nổi để điều chỉnh
quá trình oxy hóa khử của tế bào trong điều trị ung thư. Nanogel siêu phân tử MNP-
CPO lấy cảm hứng từ bạch cầu trung tính đã được Q. Zhang và cộng sự báo cáo năm
2020, nanogel này có thể hoạt động và được lập trình giống như một bạch cầu trung
tính nhân tạo cho liệu pháp điều trị ung thư bằng cách tự lắp ráp các peptid qua hệ
thống enzym thủy phân (Fmoc-Tyr (H2PO3)-OH) với các hạt nano từ tính (MNP) và
mang chloroperoxidase (CPO). Các MNP trong nanogel có thể nâng cao mức độ H2O2
trong các tế bào ung thư dưới từ trường xoay chiều được lập trình (AMF) tương tự
như một bạch cầu trung tính và CPO được bảo vệ trong lớp nano peptide liên tục
chuyển đổi H2O2 thành oxy singlet (1O2) để điều trị khối u [75].
Một số nanogel đã được nghiên cứu cho ứng dụng để vận chuyển thuốc chống
ung cisplatin như các hạt nanogel từ glycol chitosan, poly(lactide-co-glycolide)-
polyethylene glycol và nanocapsules từ liposome. Các chất mang này đã cho thấy khả
năng mang tốt cisplatin và có hiệu quả cao trong tiêu diệt nhiều dòng tế bào ung thư
[76-77]. Tuy nhiên các hệ chất mang trên có kích thước tương đối lớn khoảng 100 -
600 nm và nhả cisplatin nhanh vì tương tác giữa hệ chất mang nano và cisplatin yếu,
điều này có thể không đưa đến hiệu quả cao trong các thử nghiệm trên động vật. Một
chiều hướng mới gần đây được phát triển để khắc phục hạn chế trên là sử dụng dạng
phức hydrate của cisplatin và chất mang polymer có các nhóm carboxylate như
dendrimer-carboxylate [78-79]. Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy dendrimer-
carboxylate có thể mang một lượng lớn thuốc và nhả chậm cisplatin dạng hydrate từ
chất mang.
Ở Việt Nam, đã có một vài nhóm nghiên cứu đối với chất mang nano để vận
chuyển thuốc cisplatin hoặc phức platin (II).
Năm 2013, nhóm nghiên cứu của Lê Mai Phương và Hà Phương Thư đã công
bố một hệ thuốc nano gồm phức bis(menthone thiosemicarbazonato) Platinum (II)
được bao bọc trong block copolymer polylactide-tocopheryl polyethylene glycol
1000 succinate (PLA-TPGS). Kết quả là các hạt core-shell với kích thước 50 nm có
khả năng ức chế một số vi khuẩn gram âm và gram dương, đặc biệt có độc tính với tế
bào Hep-G2 [80].
29
Năm 2013-2014, nhóm nghiên cứu của Nguyễn Cửu Khoa và Trần Ngọc
Quyển cũng đã có một vài công bố trên các tạp chí ISI về các hạt nano dendrimer
mang thuốc chống ung thư 5-fluouroacil và cisplatin. Trong đó chất mang pegylated
dendrimer đã vận chuyển và nhả chậm hiệu quả thuốc 5- fluouroacil tiêu diệt tế bào
ung thư vú và khối u trên chuột [81]. Đối với vận chuyển và nhả chậm cisplatin, nhóm
nghiên cứu đã sử dụng phương pháp cải tiến trong đó dạng hydrate cisplatin được tạo
phức với dendrimer. Kết quả hiệu suất mang cisplatin tăng lên 10% so với các nghiên
cứu đã được công bố trước đó, đồng thời hệ chất mang nano dendrimer-cisplatin có
hoạt tính cao trong tiêu diệt tế bào ung thư phổi [82-83].
Hình 1.19. Phức giữa cisplatin hydrate và carboxylate PAMAM G3.5 [83]
Đối với chất mang nanogel heparin, Trần Ngọc Quyển, Nguyễn Đại Hải và
nhóm nghiên cứu ở Hàn Quốc đã tổng hợp thành công chất mang nanogel âm điện –
nhạy nhiệt trên cơ sở heparin mang nhả chậm các protein dương điện tích hoặc các
tác nhân kích thích phát triển sinh học (growth factors) nhằm ứng dụng trong y sinh
[84-85].
Đối với chất mang nanogel fucoidan, mặc dù có nhiều chất mang nanogel ứng
dụng trong y sinh trên cơ sở một số các polysaccharide như chitosan, alginate được
công bố trong vài năm gần đây [86-88], nhưng hiện nay chưa có bất kỳ công bố nào
về điều chế và ứng dụng nanogel từ fucoidan.
1.6.1. Nghiên cứu kết hợp thuốc chống ung thư cisplatin và chất mang nano
Nhiều nghiên cứu cho thấy heparin và fucoidan là 2 polymer sinh học có nhiều
hoạt tính sinh học có lợi như: kháng khối u ung thư, chống tăng sinh mạch máu (góp
phần giảm sự phát triển khối u), kháng viêm, chống đông máu và tính kháng oxy hóa
[89-90].
30
- Năm 2011, Xiang-Hong Peng và cộng sự đã tạo hệ phân phối thuốc cisplatin
trên nền heparin có gắn tác nhân hướng đích ScFvEGFR được đánh giá qua kết quả
kháng ung thư phổi cho thấy tiềm năng điều trị trúng đích hiệu quả [91].
- Năm 2012, Liu và cộng sự đã công bố copolymer heparin-polyethyleneimine
mang Hsulf-1 gene tăng cường hoạt tính kháng ung thư cổ tử cung khi điều trị kết
hợp với cisplatin [92].
- Năm 2013, Yoon Ki Joung và cộng sự kết hợp hệ nanogel gồm heparin và
pluronic để tạo hệ mang đa thuốc đem lại kết quả khả quan, từ đó cho thấy tiềm năng
hứa hẹn cho hóa trị liệu kết hợp để tăng cường hiệu quả điều trị khối u [93].
- Năm 2014, Lili Liu và cộng sự đã kết hợp plasmid tái tổ hợp mang shRNA với
cisplatin liều thấp, và hai thành phần này được đưa vào hệ nanogel Heparin–
polyethyleneimine (HPEI). Claudin-3 (CLDN3) được biết đến là một gene giúp tăng
cường biểu hiện của tế bào ung thư buồng trứng; shRNA là ARN dạng kẹp tóc có khả
năng nhắm mục tiêu gene CLDN3. Sau đó hệ nanogel này thử nghiệm trên mô hình
chuột mang khối u ung thư buồng trứng và kết quả cho thấy thể tích khối u giảm, hệ
nanogel mang thuốc có hiệu quả trong việc tiêu giảm thể tích khối u [94] .
Một loạt các nghiên cứu tổng hợp các hệ chất mang nano khác mang thuốc
chống ung thư cisplatin nhằm mục đích giảm độc tính tế bào, tăng hiệu quả điều trị
khối u cũng đã được công bố [95-98]. Năm 2018, nhóm nghiên cứu của Yi Zhang và
cộng sự đã tổng hợp nanogel trên cơ sở acid hyaluronic (HA) liên kết ngang với
cisplatin (CDDP) vận chuyển doxorubicin (DOX) để điều trị bệnh xương khớp.
Cisplatin hoạt động như một chất liên kết ngang và chất chống ung thư phụ trợ để
ngăn chặn sự giải phóng sớm của DOX và đạt được hiệu quả điều trị hiệp đồng so
với các thuốc tự do [99]. Năm 2019, Seyed Ebrahim Alavi và cộng sự tổng hợp hệ
nano polybutylcyanoacrylate (PBCA) chứa cisplatin để điều trị ung thư phổi, sự giải
phóng thuốc chậm (10% trong 48 giờ) từ hệ nano góp phần làm tăng hiệu quả điều
trị của thuốc [100].
- Năm 2013, báo cáo từ các nhà khoa học Nhật Bản cho thấy dịch trích fucoidan
tăng cường hoạt tính chống khối u với tế bào ung thư vú MCF-7 khi kết hợp với tác
chất hóa trị (cisplatin, tamoxifen hoặc paclitaxel) [101].
31
- Năm 2017, Pai-An Hwang và cùng cộng sự đã điều chế hạt nano Fucoidan-
cisplatin (FCNP) bằng cách phối trộn dung dịch fucoidan với cisplatin. Trong đó
Fu100Cis20 (10 mg fucoidan trộn với 2 mg cisplatin) cho hiệu quả mang thuốc cao
nhất với 18,9 ± 2,7% cisplatin. Thử nghiệm bảo vệ miễn dịch cho thấy Fu100Cis20
được điều trị trên dòng tế bào RAW264.7 được bảo vệ khỏi độc tính của cisplatin.
Hơn nữa, thử nghiệm đánh giá hoạt động chống ung thư của Fu100Cis20 trên dòng
tế bào HCT-8 cho thấy độc tính tế bào mạnh hơn so với các tế bào được điều trị bằng
cisplatin tự do. Những kết quả này cho thấy các hạt nano trên cơ sở fucoidan có hiệu
quả mang thuốc cao, và Fu100Cis20 có ứng dụng tiềm năng trong cả liệu pháp miễn
dịch và hóa trị [102].
- Năm 2018, nhóm nghiên cứu của Merve Tutuncu và cộng sự đã nghiên cứu tác
dụng bảo vệ của fucoidan trên mô tinh hoàn chuột và đánh giá hiệu quả làm giảm tổn
thương tinh hoàn do cisplatin gây ra. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng fucoidan làm
giảm đáng kể tổn thương tinh hoàn và đáp ứng với điều trị bằng cisplatin. Theo những
phát hiện này, điều trị bằng fucoidan sau khi dùng cisplatin có thể được coi là một
lựa chọn điều trị chống lại vô sinh thứ phát do cisplatin gây ra [103].
Trong vài năm gần đây nhiều nghiên cứu khác về điều chế hệ chất mang nano
có sử dụng kết hợp fucoidan nhằm mục đích giảm độc tính và tăng hiệu quả điều trị
của thuốc cũng đã được báo cáo [104-107].
Những thông tin trên góp phần khẳng định việc đề ra hướng nghiên cứu tổng
hợp chất mang nanogel từ các polysaccharide sulfate để vận chuyển và nhả chậm
cisplatin sẽ có nhiều ý nghĩa khoa học và ứng dụng.
So sánh với các hệ chất mang nano vận chuyển thuốc cisplatin đã nghiên cứu
trước đây, trong đề tài này chúng tôi tiến hành tổng hợp các hệ chất mang nanogel từ
heparin cũng như fucoidan để vận chuyển - nhả chậm cisplatin và cisplatin dạng
hydrate. Trong đó, nanogel trên cơ sở heparin cũng như fucoidan và sử dụng dạng
hydrate cisplatin mang trong chất mang nano có nhóm carboxylate là 2 khái niệm
mới được công bố. Fucoidan được cô lập từ rong nâu ở Việt Nam có nhiều hoạt tính
sinh học quý có thể dùng như là vật liệu điều chế nanogel trong nội dung nghiên cứu
của đề tài, nên sự thành công của nghiên cứu có thể mở đường cho việc sử dụng
fucoidan từ Việt Nam trong nhiều lĩnh vực y dược khác.
32
1.6.2. Nghiên cứu kết hợp curcumin với thuốc chống ung thư cisplatin
Nhiều nghiên cứu trên động vật cho thấy curcumin có tác dụng giúp ngăn ngừa
ung thư da, ung thư dạ dày, ung thư ruột ở chuột. Mặc dù có nhiều hoạt tính sinh
học và dược động học tốt nhưng curcumin vẫn không gây độc đối với động vật có
kích thước nhỏ và lớn, ngay cả khi được thử nghiệm với nồng độ curcumin cao. Qua
đó cho thấy, curcumin là nhân tố tiềm năng dùng kết hợp với các thuốc chống ung
thư khác nhằm ngăn ngừa và tiêu diệt khối u ung thư ở người.
- Năm 2013, Mendonça và cộng sự đã nghiên cứu đánh giá sự ảnh hưởng của
curcumin lên dược động học của cisplatin thông qua phân tích sự biểu hiện gen p53
và làm giảm độc tính của cisplatin trên tế bào khối u HepG2. Qua đó, nhóm nghiên
cứu chỉ ra rằng curcumin cũng góp phần làm giảm độc tính của cisplatin trong in vitro
và cần tiếp tục nghiên cứu thêm ở cấp độ lâm sàng [108].
- Năm 2016, Baharuddin và cộng sự đã kết hợp curcumin (10 – 40 μM) với
lượng nhỏ cisplatin (3 μM) và thử nghiệm khả năng tiêu diệt các dòng tế bào ung
thư phổi (NSCLC). Kết quả cho thấy, curcumin đã góp phần nâng cao dược động
học của cisplatin trong việc làm giảm sự di cư của dòng tế bào A549, H2170 [109].
- Năm 2017, Parveen Kumar cùng cộng sự đã kết hợp curcumin với cisplatin để
làm giảm độc tính đối với thận và góp phân nâng dược động học của cisplatin. Qua
nghiên cứu, curcumin làm giảm các dấu hiệu viêm do cisplatin gây ra và góp phần
điều trị khối u qua việc tăng biểu hiện PPAR-γ, giảm biểu hiện BDNF [110].
Nhìn chung trong những năm gần đây, nhiều nhóm nghiên cứu trên thế giới
đã sử dụng curcumin kết hợp với các chất hóa trị liệu với mục tiêu giảm tác dụng phụ
của thuốc, góp phần tăng hiệu quả điều trị ung thư.
Khác với các công bố sử dụng cisplatin kết hợp curcumin đã nghiên cứu, trong
đề tài này chúng tôi sử dụng hệ chất mang nanogel trên cơ sở heparin - pluronic tạo
phức trực tiếp với cisplatin dạng hydrate, đồng thời kết hợp với nanocurcumin thông
qua tương tác tĩnh điện và tương tác kỵ nước giữa hạt nanocurcumin và nanogel nhằm
làm tăng hiệu quả mang thuốc và giảm khả năng gây độc tế bào của cisplatin.
33
CHƯƠNG 2. NGHIÊN CỨU
2.1. Hóa chất
Các hóa chất sử dụng cho tổng hợp và phân tích được cung cấp từ các hãng
Acros, Sigma Aldrich, Merck, Fisher, RCI Labscan, B. Braun.
Bảng 2.1. Danh mục hóa chất
Hóa chất Nguồn gốc
Heparin sodium (Mw = 12000) Acros Organics, Mỹ
Pluronic P123 (Mw = 5800) Sigma - Aldrich, Mỹ
Pluronic F127 (Mw = 12600) Sigma - Aldrich, Mỹ
Pluronic F87 (Mw = 7700) Sigma - Aldrich, Mỹ
Pluronic F68 (Mw = 8400) Sigma - Aldrich, Mỹ
Cisplatin, 99,99% (Mw = 300,05) Sigma - Aldrich, Mỹ
p-nitrophenyl chloroformate, 97% (Mw = 201,56) Acros Organics, Mỹ
3-amino-1-propanol, 99% (Mw = 75,11) Acros Organics, Mỹ
N-hydroxysuccinimide, 98+% (Mw = 115,09) Acros Organics, Mỹ
1-ethyl-3-3-dimethylaminopropyl carbodiimide, 97%
(Mw = 191,70)
Acros Organics, Mỹ
1,4-diaminobutane, 99% (Mw = 88,15) Acros Organics, Mỹ
Curcumin, 98+% (Mw = 368,38) Merck, Đức
Fucoidan (from Fucus vesiculosus) Sigma - Aldrich, Mỹ
Chloroform, 99,8+% RCI Labscan, Thái Lan
Dichloromethane, for analysis, stabilized with amylene RCI Labscan, Thái Lan
Diethyl ether, 99,5% RCI Labscan, Thái Lan
n-Hexan RCI Labscan, Thái Lan
Busulfan Sigma - Aldrich, Mỹ
Cyclophosphamide Sigma - Aldrich, Mỹ
Xylazine ≥ 99% Sigma - Aldrich, Mỹ
Ethanol, 99,8+%, for analysis, absolute Fisher Chemical, Mỹ
Dimethyl sulfoxide, 99,9+%, for analysis Fisher Chemical, Mỹ
Bạc nitrat Fisher Chemical, Mỹ
34
2.2. Dụng cụ và thiết bị
Dụng cụ
Bình cầu cổ nhám một cổ, bình cầu cổ nhám ba cổ.
Falcon, ống đong, micropipette, cá từ.
Khóa nhám cung cấp nitrogen.
Thước kẹp Mitutoyo (Nhật Bản) với độ chia nhỏ nhất 0,02 mm.
Túi thẩm tách Spectra Por Regenerated Cellulose Membrane MWCO 3500
Da, 6000 - 8000 Da, 12000 - 4000 Da và các dụng cụ khác.
Thiết bị
Cân điện tử, 4 số lẻ (A&D company-Nhật), máy khuấy từ có hiệu chỉnh nhiệt
(VELP Scientifica - Ý), máy đông khô (FDU-1200 EYELA - Nhật), máy ly tâm
(Hermle Labortechnik GmbH - Đức), máy cô quay chân không (Hahnvapor-Hàn
Quốc), tại phòng thí nghiệm Hóa dược, Viện Khoa học Vật liệu Ứng dụng, Viện Hàn
lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Máy phân tích nhiệt lượng TGA - DSC (Mettler Toledo - Thụy Sĩ), máy đo sự
phân bố kích thước hạt DLS (Horiba SZ-100 - Nhật Bản), máy quang phổ hồng ngoại
biến đổi FT-IR (PerkinElmer Frontier - Úc), máy đo quang phổ tử ngoại khả kiến
(UV-1800 UV-VIS Spectrophotometer) - Nhật Bản, tại Viện Khoa học Vật liệu Ứng
dụng, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Xác định hình thái, kích thước hạt bằng ảnh hiển vi điện tử truyền qua (TEM)
được chụp bằng máy JEOL JEM 1400 ở 140 kV - Nhật Bản, tại Trường Đại học Bách
Khoa, Thành phố Hồ Chí Minh.
Phổ 1H-NMR đo trên máy cộng hưởng từ hạt nhân NMR, Bruker Avance
500MHz, tại Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Xác định phần trăm platinum bằng máy quang phổ phát xạ plasma (ICP-OES
- Inductively Coupled Plasma - Optical Emission Spectrometry), tại Trung tâm dịch
vụ phân tích thí nghiệm, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đánh giá độc tính tế bào MCF-7 và độc tính nguyên bào sợi đo tại Đại học
Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
35
Mô hình thí nghiệm chuột mang khối u được thực hiện tại phòng thí nghiệm Bộ
môn Sinh lý học và Công nghệ Sinh học Động vật, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Đánh giá mô học mẫu khối u bằng phương pháp nhuộm Hemaoxylin – Eosin
(H&E) và hóa mô miễn dịch tại khoa Giải phẫu bệnh thuộc Bệnh viện Nhi đồng 1,
Thành phố Hồ Chí Minh.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp tổng hợp các copolymer ghép trên cơ sở polysacchride sulfate
(heparin, fucoidan) liên hợp pluronic
Quá trình tổng hợp các copolymer ghép trên cơ sở polysacchride sulfate
(heparin, fucoidan) liên hợp pluronic gồm: Hep-P123, Hep-F127, Hep-F68, Hep-F87
và Fud-P123 với các tỉ lệ ghép khác nhau, được thực hiện bằng cách sử dụng tác chất
p-nitrophenyl chloroformate (NPC) và 3-aminopropan-1-ol (Ami) để hoạt hóa
pluronic. Sau đó dùng 1,4-diaminobutane (DAB) và tác chất ghép cặp EDC/NHS để
biến tính và gắn nhóm amine vào polysacchride sulfate.
Quy trình tổng hợp các copolymer ghép trên được thực hiện qua 4 giai đoạn,
phương pháp được tham khảo theo công bố trước đây của nhóm nghiên cứu [50].
2.3.2. Phương pháp đánh giá cấu trúc, hình thái các copolymer ghép
- Cấu trúc các copolymer ghép Hep-P123, Hep-F127, Hep-F87, Hep-F68 và
Fud-P123 được xác định bằng phương pháp phổ cộng hưởng từ hạt nhân 1H-NMR và
quang phổ hồng ngoại biến đổi FT-IR.
- Sử dụng phương pháp TGA để xác định phần trăm lượng pluronic P123,
F127, F7, F68 được ghép vào heparin, fucoidan. Mẫu được sử dụng 10 mg, ở nhiệt
độ 25oC – 700 oC với tốc độ 10oC/phút, dưới điều kiện khí nitrogen
- Hình thái, kích thước các nanogel được xác định bằng ảnh hiển vi điện tử
truyền qua (TEM).
- Sử dụng iodine và phương pháp quang phổ UV-Vis để xác định giá trị CMC
của các nanogel trong nước DI, phương pháp được thực hiện theo báo cáo của Zhang
Wei, 2009 [111].
Dung dịch chuẩn KI/I2 được điều chế bằng cách hòa tan 0,25 g iodine và 0,5
g kali iodua (KI) trong 25 ml nước DI. Chuẩn bị 20 mẫu dung dịch copolymer ghép
36
có nồng độ dao động từ 0,00001% đến 0,1% với thể tích 10 ml được thêm vào 10 μl
dung dịch chuẩn KI/I2. Các mẫu sẽ được ủ trong 12 giờ trong phòng tối ở nhiệt độ
phòng trước khi đo. Giá trị độ hấp thụ tử ngoại của các dung dịch polymer ở các nồng
độ khác nhau ở số sóng 366 nm được đo bằng máy quang phổ UV-Vis. Cường độ
hấp thụ được vẽ trên logarit của nồng độ polymer. Các giá trị CMC được xác định
tương ứng với nồng độ của polymer mà tại đó độ hấp thụ tăng mạnh được quan sát
thấy.
2.3.3. Phương pháp tổng hợp hệ nanogel mang thuốc cisplatin và cisplatin hydrate
Các copolymer ghép Hep-P123, Hep-F127, Hep-F68, Hep-F87, Fud-P123 có
thể tự lắp ráp thành các nanogel có kích thước nano trong dung dịch nước nhờ vào
đặc tính lưỡng tính của polymer và giá trị CMC thấp, từ đó có thể hình thành vật liệu
nanogel mang thuốc ổn định.
Sau khi các nanogel được tổng hợp thành công chúng tôi tiến hành đánh giá
hiệu quả mang thuốc cisplatin và cisplatin hydrate của các hệ nanogel này trên cơ sở
tương tác kỵ nước và sự hình thành phức giữa hệ chất mang và thuốc, quy trình được
tham khảo theo báo cáo trước đây của nhóm nghiên cứu [50].
Cấu trúc các nanogel mang thuốc được xác định bằng phương pháp quang phổ
hồng ngoại biến đổi FT-IR.
Phần trăm lượng thuốc được mang trong nanogel sẽ được xác định bằng máy
quang phổ phát xạ plasma ICP-OES thông qua phần trăm lượng platinum có trong
mẫu theo công thức:
%cisplatin = %Pt × 300,05
195,084 (%wt/wt)
2.3.4. Phương pháp khảo sát khả năng nhả thuốc của các hệ nanogel mang thuốc
Sử dụng phương pháp đo quang phổ phát xạ plasma ICP-OES để xác định
phần trăm lượng platinum có trong mẫu. Từ đó ta có thể tính toán được tổng lượng
thuốc đã giải phóng ra theo công thức [112]:
n 1
n s t n 1
i 1
Q C V V C
Trong đó, Q là tổng lượng thuốc đã giải phóng
Cn là nồng độ đo được tại thời điểm n
Vs là thể tích PBS trong ống thủy tinh
37
Cn-1 là tổng nồng độ đo được từ mốc đầu tiên cho đến thời điểm n-1
Vt là thể tích thu nhận để đánh giá.
2.3.5. Phương pháp đánh giá độc tính tế bào (dòng tế bào MCF-7 và tế bào
thường)
Đánh giá độc tính tế bào trên dòng tế bào MCF-7 của hệ nanogel mang thuốc
và đánh giá độc tính tế bào của hệ nanogel trên nguyên bào sợi được thực hiện bằng
phương pháp nhuộm Sulforhodamine B (SRB), tại trừờng Đại học Khoa học Tự
nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là phương pháp được Viện
Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ (NCI) đưa ra năm 1985 và xác nhận là phương pháp đánh
giá chuẩn về độc tính trên tế bào của các thuốc có khả năng ức chế và tiêu diệt tế bào
ung thư [113].
● Nguyên tắc
Thử nghiệm SRB là một phương pháp so màu đơn giản và nhạy để xác định
độc tính tế bào của một chất. SRB là một thuốc nhuộm tích điện âm sẽ liên kết tĩnh
điện được với các phần tích điện dương của protein. Lượng thuốc nhuộm liên kết sẽ
phản ánh lượng protein tổng của tế bào.
Trong thử nghiệm này, tế bào được cố định, rửa và nhuộm với SRB. Sau đó
SRB liên kết với protein tế bào được hòa tan tạo dung dịch trong suốt có màu hồng.
Mật độ quang đo được của dung dịch tương quan với lượng protein tổng hay số lượng
tế bào. Sự thay đổi lượng tế bào so với mẫu chứng phản ánh độc tính tế bào của chất
nghiên cứu.
● Chuẩn bị tế bào MCF-7
Dòng tế bào ung thư vú MCF-7 do ATCC (Hoa Kỳ) cung cấp, được nuôi cấy
trong môi trường E’MEM có bổ sung L-glutamine (2 mM), HEPES (20 mM),
amphotericin B (0,025 μg/ml), penicillin G (100 UI/ml), streptomycin (100 μg/ml),
10% (v/v) huyết thanh bào thai bò FBS và ủ ở 37oC, 5% CO2.
● Quy trình khảo sát hoạt tính gây độc bằng phương pháp nhuộm SRB
Tế bào đơn được cấy trên những đĩa nuôi cấy 96 giếng với mật độ là 104 tế
bào/giếng. Sau 24 giờ nuôi cấy, quần thể tế bào được ủ với chất khảo sát ở các nồng
độ trong 48 giờ. Sau đó, protein tổng từ tế bào thử nghiệm được cố định bằng dung
dịch trichloroacetic acid (Sigma) 50% lạnh và nhuộm với dung dịch sulforhodamine
38
B 0,2% (Sigma). Kết quả được đọc bằng máy ELISA reader ở hai số sóng 492 nm và
620 nm. Các thí nghiệm được lặp lại ba lần và kết quả được trình bày dưới dạng giá
trị trung bình ± độ lệch chuẩn.
2.3.6. Thí nghiệm trên động vật
2.3.6.1. Phương pháp ghép tế bào MCF-7 tạo mô hình chuột mang khối u
Mô hình chuột mang khối u ghép dị loài bao gồm các tế bào khối u có nguồn
gốc từ người được cấy vào chuột nhắt trắng Mus musculus var. Albino. Mô hình thí
nghiệm chuột mang khối u được thực hiện theo quy trình tại phòng Công nghệ Động
vật - Khoa Sinh học, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh. Chuột sau khi đã được làm suy giảm miễn dịch để có thể tiếp nhận những
tế bào khối u từ người nên những khối u có đặc điểm tương tự khối u ở người. Trong
nghiên cứu này, dòng tế bào MCF-7 được tiêm trực tiếp vào bên dưới da, tại vị trí
lưng chuột [114].
Hình 2.1. Tiêm tế bào MCF-7 trên lưng chuột đã suy giảm miễn dịch
● Quy trình ghép tế bào tạo khối u:
MCF-7 được nuôi trong môi trường Gibco™ Dulbecco's Modified Eagle
Medium: Nutrient Mixture F-12 (DMEM/F-12) bổ sung 5% Fetal Bovine Serum
(FBS), 1% kháng sinh. Các tế bào được nuôi trong các Roux 25 cm2 ở 37°C, 5% CO2.
Thay môi trường 2 - 3 ngày mỗi lần và cấy chuyền khi tế bào phủ 70 - 80% bề
mặt nuôi cấy.
Đổ bỏ môi trường cũ, rửa lại bình nuôi tế bào MCF-7 bằng dung dịch
phosphate-buffered saline (PBS). Bổ sung 1ml Trypsin/EDTA 0,25%. Tráng đều, ủ
37oC, 5% CO2 trong 1 phút.
Tách các tế bào MCF-7 lên khỏi bề mặt nuôi cấy bằng dung dịch
trypsin/EDTA 0,25%.
Ly tâm, thu lại cặn tế bào, loại bỏ trypsin.
Rửa lại cặn bằng dung dịch PBS.
39
Huyền phù cặn tế bào vào dung dịch PBS. Xác định số lượng tế bào đạt 107 tế
bào/100 μl và pha loãng đến nồng độ ghép.
Gây mê chuột, tiêm thuốc mê vào ổ bụng với mỗi liều chích là 80μl/36g chuột,
tỉ lệ thuốc trong mỗi liều (Xylazil : Ketamil : NaCl = 2 : 3 : 3). Trước mỗi đợt tiêm,
chuột được cân khối lượng và sau đó thuốc được lấy đúng liều tương ứng với khối
lượng chuột.
Cố định chuột, làm sạch lông, sát trùng vùng da ghép bằng ethanol 70o.
Dùng ống tiêm 1 ml, hút dịch huyền phù tế bào. Xuyên kim vào bên dưới da
chuột ở một bên lưng khoảng 3 - 5 mm và tiêm 100 ul dịch tế bào.
Mô hình dị ghép có lợi thế là ít tốn kém, dễ thực hiện, khối u nhanh chóng
xuất hiện. Vì thế, mô hình này có thể đáp ứng được phần lớn các mục tiêu thử nghiệm
thuốc cận lâm sàng điều trị cho các cơ quan có tỉ lệ mắc bệnh ung thư cao ở người.
2.3.6.2. Phương pháp tính thể tích khối u
Phương pháp đo kích thước và tính thể tích khối u được thực hiện bằng thước
kẹp Mitutoyo (Nhật Bản) với độ chia nhỏ nhất 0,02 mm. Dùng thước kẹp đo khối u
nổi lên tại vị trí lưng chuột, sau đó tính thể tích khối u theo công thức [115].
23 a b
V(mm )2
Trong đó: a là đường kính lớn nhất của khối u
b là đường kính nhỏ nhất của khối u
Khi kết thúc thời gian thí nghiệm, các khối u được thu nhận và bảo quản trong
dung dịch formalin 10% qua đêm. Sau đó, các mẫu khối u được gửi đến Khoa Giải
phẫu bệnh thuộc Bệnh viện Nhi đồng 1, Thành phố Hồ Chí Minh để nhuộm
Hemaoxylin – Eosin (H&E) và hóa mô miễn dịch.
2.3.6.3. Phương pháp nhuộm hóa mô miễn dịch bằng kháng thể SOD2
Phương pháp nhuộm hóa mô miễn dịch bằng kháng thể SOD2 (Superoxide
dismutase 2) nhằm xác định khối u ung thư vú vừa gây tạo trên mô hình chuột suy
giảm miễn dịch có nguồn gốc là tế bào MCF-7 từ người, không chứa các loại tế bào
khác có nguồn gốc từ chuột với mục tiêu tạo mô hình khối u ung thư có thành phần
tế bào tương tự như khối u phát triển trên cơ thể người.
40
SOD2 là enzyme kháng oxy hóa, nằm trong ty thể, được biểu hiện rất cao trong
ung thư biểu mô cổ tử cung, ung thư vú, ung thư dạ dày, ruột kết. Nhiều nghiên cứu
cho thấy SOD2 đóng vai trò như một gene gây ung thư, SOD2 được xem như một
biomarker, là dấu hiệu để dự đoán tiến trình di căn của khối u vú, bởi vì sự biểu hiện
gen của SOD2 có sự khác biệt giữa tế bào ung thư vú và tế bào ở tuyến vú bình
thường.
Để nhận biết đặc hiệu cho tế bào ung thư vú ở người, kháng thể SOD2 được
sử dụng để quan sát sự bắt màu của nhân và chất nền tế bào, hình thái mô học của
khối u. Trong nhuộm hóa mô miễn dịch với kháng thể SOD2, tế bào chất sẽ có màu
nâu và nhân có màu tím nhạt.
2.3.6.4. Phương pháp nhuộm Hemaoxylin - Eosin (H&E)
Phương pháp này dựa trên cơ sở là khả năng bắt màu khác nhau của nhân tế
bào và tế bào chất khi nhuộm bằng cặp thuốc nhuộm hematoxylin và eosin.
Hematoxylin có màu xanh đậm và bắt màu với acid nucleic bằng một phản ứng phức
tạp, chưa hoàn chỉnh, còn Eosin có màu hồng và có khả năng kết hợp với các protein
không đặc hiệu. Phương pháp nhuộm H&E cho ta một cái nhìn tổng quát về cấu trúc
mô học, đồng thời giúp phân biệt được các cấu trúc mô bình thường, viêm hoặc có
sự bất thường hay vùng mô chứa nhiều tế bào ung thư để chẩn đoán bệnh.
2.4. Thực nghiệm
2.4.1. Tổng hợp và khảo sát nanogel Hep-P123
2.4.1.1. Tổng hợp Hep-P123
Quy trình tổng hợp các copolymer Hep-P123 với 4 tỉ lệ ghép (Hep:P123=1:3;
1:7; 1:10; 1:14 mmol/mmol) được thực hiện qua 4 bước:
● Bước 1: Tổng hợp NPC-P123-NPC
NPC-P123-NPC được tổng hợp thông qua sự hoạt hóa 2 nhóm hydroxyl -OH
ở 2 đầu trên phân tử pluronic P123 bằng chất hoạt hóa NPC để hình thành liên liên
kết ester giữa nhóm -OH trên phân tử pluronic P123 và nhóm acyl (–C=O-Cl) trên
phân tử NPC (hình 2.2).
Cân pluronic P123 (2,60 mmol) cho vào bình cầu ba cổ, khuấy 30 phút trong
môi trường chân không ở nhiệt độ 65oC nhằm giúp pluronic nóng chảy và loại bỏ
hoàn toàn hơi ẩm. Sau đó pluronic nóng chảy được cho phản ứng với NPC (5,72
41
mmol) trong 6 giờ, môi trường khí N2. Sau đó dừng phản ứng, hòa tan sản phẩm phản
ứng với 20 ml chloroform. Dung dịch thu được đem tủa 2 lần trong dung môi
hexane:diethylether (1:1) ở 0oC và cô quay đến khối lượng không đổi để thu được sản
phẩm NPC-P123-NPC có màu trắng. Cấu trúc sản phẩm NPC-P123-NPC được xác
định bằng phương pháp đo phổ 1H-NMR và FT-IR.
Hình 2.2. Hoạt hóa pluronic bằng NPC [50]
● Bước 2: Tổng hợp NPC-P123-Ami
Phương pháp tổng hợp NPC-P123-Ami dựa trên nguyên tắc tạo liên kết
urethane giữa NPC-P123-NPC và aminopropanol (Ami) (hình 2.3).
Hình 2.3. Khóa một đầu sản phẩm hoạt hóa pluronic với Ami [50]
NPC-P123-NPC (0,0021 mol) được hòa tan hoàn toàn trong 50 ml chloroform.
Sau đó 0,16 ml dung dịch Ami trong chloroform (50 ml) được nhỏ vào hỗn hợp phản
ứng và khuấy từ trong 12 giờ ở nhiệt độ phòng. Dừng phản ứng, dung dịch thu được
(20 ml) đem tủa 2 lần trong hệ dung môi hexane:diethylether (1:1) ở 0oC và cô quay
đến khối lượng không đổi để thu được sản phẩm NPC-P123-Ami màu trắng. Cấu trúc
NPC-P123-Ami được xác định bằng phương pháp đo phổ 1H-NMR và FT-IR.
Bước 3: Tổng hợp Hep-DAB (Hep:DAB = 1:3; 1:7; 1:10; 1:14 mmol/mmol)
42
4 dẫn xuất heparin amin hóa (Hep-DAB) với 4 tỉ lệ khác nhau (Hep:DAB =
1:3; 1:7; 1:10; 1:14 mmol/mmol) được tổng hợp trên cơ sở tạo liên kết amide (-
NHCO-) giữa heparin và DAB, thông qua tác nhân ghép cặp EDC/NHS (hình 2.4).
Hình 2.4. Biến tính heparin với DAB [50]
Heparin (0,08 mmol) cho vào bình cầu một cổ, khuấy tan trong 50 ml nước DI
ở nhiệt độ phòng. Tác chất ghép cặp EDC/NHS được thêm vào và khuấy 15 phút.
Dung dịch DAB được nhỏ giọt từ từ vào hỗn hợp phản ứng và khuấy từ 24 giờ ở nhiệt
độ phòng. Sản phẩm sau phản ứng được đem đi thẩm tách với nước cất qua màng
Cellulose MWCO 3500 Da trong 4 ngày và cuối cùng đông khô để thu được 4 dẫn
xuất Hep-DAB. Số liệu các tác chất được thể hiện trong bảng 2.2. Cấu trúc các sản
phẩm được xác định bằng phương pháp đo phổ 1H-NMR và FT-IR.
Bảng 2.2. Số liệu tổng hợp Hep-DAB theo 4 tỉ lệ mol khác nhau
Tỉ lệ ghép Hep-DAB
(mmol/mmol)
Heparin
(mmol)
NHS
(mmol)
EDC
(mmol)
DAB
(µl)
1:3 0,08 4,34 0,25 37,54
1:7 0,08 4,34 0,58 87,6
1:10 0,08 4,34 0,83 125,14
1:14 0,08 4,34 1,16 175,19
● Bước 4: Tổng hợp copolymer Hep-P123
4 copolymer Hep-P123 (Hep:P123=1:3; 1:7; 1:10; 1:14 mmol/mmol) được
tổng hợp dựa trên sự hình thành liên kết amide (-NHCO-) giữa NPC-P123-Ami và 4
43
dẫn xuất Hep-DAB (Hep:DAB=1:3; 1:7; 1:10; 1:14 mmol/mmol) tương ứng (hình
2.5).
Hình 2.5. Tổng hợp copolymer ghép Heparin-Pluronic [50]
Cho Hep-DAB (Hep:DAB = 1:3; 1:7; 1:10; 1:14 mmol/mmol) vào bình cầu
một cổ, thêm 50 ml nước DI, khuấy tan ở nhiệt độ phòng. Sau đó dung dịch nước
lạnh của NPC-P123-Ami tương ứng được nhỏ từ từ vào bình cầu chứa dung dịch
Hep-DAB và khuấy từ trong 24 giờ ở nhiệt độ dưới 20oC. Số liệu các tác chất phản
ứng được thể hiện trong bảng 2.3. Sản phẩm sau phản ứng được đem đi thẩm tách
trong nước cất lạnh qua màng Cellulose MWCO 12000 - 14000 Da, trong 7 ngày và
cuối cùng đông khô để thu được 4 copolymer ghép Hep-P123 dạng keo màu trắng.
Bảng 2.3. Số liệu tổng hợp Hep-P123 theo 4 tỉ lệ mol khác nhau
Tỉ lệ ghép Hep-P123
(mmol/mmol)
Hep-DAB
(mmol)
NPC-P123-Ami
(mmol)
1:3 0,0244 0,0732
1:7 0,0237 0,1708
1:10 0,0233 0,2440
1:14 0,0227 0,3416
2.4.1.2. Tổng hợp nanogel Hep-P123 mang thuốc cisplatin và cisplatin hydrate
a. Tổng hợp Hep-P123 mang thuốc cisplatin hydrate (Hep-P123-CisOH)
44
Hình 2.6. Sơ đồ quy trình đưa CisOH vào Hep-P123
Nanogel Hep-P123 mang thuốc cisplatin dạng hydrate được tổng hợp bằng
phản ứng tạo phức giữa cispaltin hydrate và các nhóm carboxylate/sulfate có trên
sườn heparin, quy trình tổng hợp được thực hiện qua 2 bước (hình 2.6).
Bước 1: hydrate cisplatin bằng AgNO3
Giai đoạn chuẩn bị 4 mẫu cisplatin hydrate (CisOH) bằng AgNO3 theo 4 tỉ lệ
tương ứng với 4 mẫu Hep-P123 (Hep:P123 = 1:3; 1:7; 1:10; 1:14 mmol/mmol) được
thực hiện theo báo cáo của Kirkpatrick [116].
Cho cisplatin vào bình cầu ba cổ (bọc giấy bạc ngoài bình cầu nhằm tránh ánh
sáng), khuấy trong 10 ml DI. Tiếp tục cho AgNO3 vào dung dịch phản ứng, khuấy
trong 48 giờ, điều kiện môi trường khí N2 (Cis:AgNO3 = 1:2 mmol/mmol). Số liệu
các tác chất phản ứng được thể hiện trong bảng 2.4. Kết tủa AgCl được loại bỏ bằng
cách ly tâm 2 lần ở 3500 vòng/phút, 10 phút. Sản phẩm thu được dưới dạng dung dịch
trong suốt, dung dịch này được sử dụng để tạo phức với 4 mẫu Hep-P123.
45
Bảng 2.4. Số liệu Cis, AgNO3 dùng để tổng hợp Hep-P123 mang thuốc
Cis (mmol) AgNO3 (mmol)
0,44 0,89
0,23 0,46
0,17 0,33
0,12 0,23
Bước 2: tạo phức giữa Hep-P123 và cisplatin hydrate
4 mẫu dung dịch cisplatin hydrate thu được ở trên được nhỏ giọt vào 4 mẫu
dung dịch Hep-P123 (100 mg Hep-P123 đã được hòa tan trong 10 ml DI) theo các tỉ
lệ tương ứng. Hỗn hợp phản ứng được khuấy 24 giờ (điều kiện phản ứng tối, sục khí
N2, nhiệt độ dưới 20oC). Sản phẩm được tiến hành thẩm tách 2 lần với màng Cellulose
MWCO 3500 Da, ở 37oC trong 20 phút. Cuối cùng tiến hành đông khô, các sản phẩm
thu được Hep-P123-CisOH tương ứng với 4 tỉ lệ 1:3; 1:7; 1:10; 1:14 có dạng keo hơi
vàng.
b. Tổng hợp hệ Hep-P123 mang thuốc cisplatin (Hep-P123-Cis)
Hệ nanogel mang thuốc cisplatin được thực hiện dựa trên tương tác kỵ nước
giữa các phân đoạn kỵ nước trên pluronic P123, khi nhiệt độ tăng các phân đoạn kỵ
nước xuất hiện tương tác kỵ nước tạo khối polymer và sẽ mang thuốc để hình thành
các hạt nanogel mang thuốc.
Quy trình tổng hợp nanogel Hep-P123 mang cisplatin được thực hiện tương
tự như trên bằng cách cho trực tiếp cisplatin vào 4 mẫu dung dịch Hep-P123
(Hep:P123 = 1:3; 1:7; 1:10; 1:14 mmol/mmol). Phản ứng được thực hiện trong 24 giờ
(điều kiện phản ứng tối, sục khí N2, nhiệt độ dưới 20oC). Sau đó được tiến hành ly
tâm và thẩm tách 2 lần với màng Cellulose MWCO 3500 Da, ở 37oC trong 20 phút.
Cuối cùng tiến hành đông khô, các sản phẩm thu được Hep-P123-Cis tương ứng với
4 tỉ lệ 1:3; 1:7; 1:10; 1:14 có dạng keo hơi vàng.
Cấu trúc các nanogel Hep-P123 mang cisplatin và cisplatin hydrate được xác
định bằng phương pháp quang phổ hồng ngoại biến đổi FT-IR.
Lượng cisplatin và cisplatin hydrate được mang vào các chất mang Hep-P123
được xác định bằng phương pháp đo phổ plasma phát xạ nguyên tử ICP-OES.
46
2.4.1.3. Khảo sát khả năng nhả thuốc cisplatin hydrate của Hep-P123
Quy trình giải phóng cisplatin hydrate (CisOH) từ hệ chất mang Hep-P123
được thực hiện bằng cách cho 2 mẫu Hep-P123-CisOH (1:3) có khối lượng bằng nhau
(12 mg), được hòa tan hoàn toàn trong 3 ml nước cất. Mỗi mẫu cho vào 3 túi thẩm
tách MWCO 3500 Da (1 ml/túi). Tiến hành thẩm tách trong đệm PBS (10 ml) ở 37oC
ở 2 điều kiện pH 5,5 và 7,4. Sau mỗi khoảng thời gian nhất định là 0,25 giờ, 0,5 giờ,
1 giờ, 3 giờ, 7 giờ, 12 giờ và 24 giờ sẽ lấy mẫu một lần, mỗi lần lấy 1 ml sau đó thêm
vào tương ứng 1 ml dung dịch đệm PBS cho đủ 10 ml như ban đầu. Hàm lượng
platinum (mg/l) có trong các mẫu theo thời gian được xác định bằng phương pháp đo
ICP-OES.
2.4.1.4. Đánh giá độc tính tế bào (dòng tế bào MCF-7 và tế bào thường
Độc tính tế bào của Hep-P123 (1:3) mang thuốc cisplatin và cisplatin hydrate
được thực hiện trên dòng tế bào ung thư vú MCF-7 bằng phương pháp nhuộm SRB.
Đồng thời Hep-P123 (1:3) cũng được thử nghiệm độc tính trên nguyên bào sợi
để đánh giá tính tương hợp sinh học.
2.4.2. Tổng hợp và khảo sát nanogel Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68
2.4.2.1. Tổng hợp Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68
Quy trình tổng hợp Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 được thực hiện qua các
bước tương tự như quy trình tổng hợp Hep-P123.
● Tổng hợp NPC-F127-NPC, NPC-F87-NPC, NPC-F68-NPC
Cân pluronic F127, F87, F68 cho vào bình cầu ba cổ, khuấy 30 phút trong môi
trường chân không ở nhiệt độ 65oC nhằm giúp pluronic nóng chảy và loại bỏ hoàn
toàn hơi ẩm. Sau đó pluronic nóng chảy được cho phản ứng với NPC trong 6 giờ, môi
trường khí N2. Số liệu các tác chất phản ứng được thể hiện trong bảng 2.5. Sau đó tắt
chân không và hòa tan sản phẩm phản ứng với 20 ml chloroform. Dung dịch thu được
đem tủa 2 lần trong dung môi diethylether ở 0oC và cô quay đến khối lượng không
đổi để thu được các sản phẩm NPC-F127-NPC, NPC-F87-NPC, NPC-F68-NPC có
màu trắng. Sử dụng phương pháp đo phổ 1H-NMR và FT-IR để xác định cấu trúc các
sản phẩm.
47
Bảng 2.5. Số liệu tổng hợp NPC-F127-NPC, NPC-F87-NPC, NPC-F68-NPC
Pluronic NPC (mmol)
Tên mmol
F127 1,19 2,62
F68 1,79 3,94
F87 1,95 4,29
● Tổng hợp NPC-F127-Ami, NPC-F87-Ami, NPC-F68-Ami
Quy trình tổng hợp NPC-F127-Ami, NPC-F87-Ami, NPC-F68-Ami được
thực hiện tương tự như NPC-P123-Ami bằng cách cho các sản phẩm NPC-F127-
NPC, NPC-F87-NPC, NPC-F68-NPC hòa tan hoàn toàn trong chloroform. Sau đó,
dung dịch Ami được nhỏ từ từ vào hỗn hợp phản ứng và khuấy từ trong 12 giờ ở nhiệt
độ phòng. Dung dịch thu được đem tủa 2 lần trong dung môi diethylether ở 0oC và
cô quay đến khối lượng không đổi để thu được các sản phẩm NPC-F127-Ami, NPC-
F87-Ami, NPC-F68-Ami màu trắng. Sử dụng phương pháp đo phổ 1H-NMR và FT-
IR để xác định cấu trúc các sản phẩm.
● Tổng hợp copolymer Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68
Từ kết quả hiệu quả mang thuốc cisplatin và cisplatin hydrate của 4
copolymer Hep-P123, chúng tôi tiến hành chọn 2 tỉ lệ ghép Hep:Pluronic=1:3 và
1:14 mmol/mmol để tổng hợp các copolymer Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 và
so sánh hiệu quả mang thuốc với hệ chất mang Hep-P123 với tỉ lệ ghép tương ứng.
Quy trình tổng hợp Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 được thực hiện tương
tự Hep-P123.
2.4.2.2. Tổng hợp nanogel Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 mang thuốc cisplatin
và cisplatin hydrate
Quy trình tổng hợp nanogel Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 mang thuốc
cisplatin và cisplatin hydrate được thực hiện tương tự quy trình Hep-P123 mang
thuốc.
Lượng thuốc mang vào các chất mang Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 được
xác định bằng phương pháp đo ICP-OES.
2.4.3. Tổng hợp và khảo sát nanogel Fud-P123
2.4.3.1. Tổng hợp Fud-P123
48
Từ kết quả hiệu quả mang thuốc cisplatin và cisplatin hydrate của các
copolymer Hep-P123, chúng tôi tiến hành tổng hợp copolymer Fud-P123 với tỉ lệ
ghép Fud:P123=1:3 mmol/mmol để so sánh hiệu quả mang thuốc tương ứng. Quy
trình tổng hợp Fud-P123 được thực hiện qua các bước tương tự quy trình tổng hợp
Hep-P123.
● Tổng hợp Fud-DAB
Fud-DAB được tổng hợp từ fucoidan và DAB (Fud:DAB=1:3 mmol/mmol)
sử dụng tác chất ghép cặp EDC/NHS theo hình 2.7.
Cân fucoidan (0,025 mmol) vào bình cầu một cổ, khuấy tan trong 50 ml nước
DI ở nhiệt độ 40oC. Sau đó tác chất ghép cặp EDC/NHS (0,075 mmol/2,170 mmol)
được thêm vào và khuấy 15 phút, nhiệt độ phòng. Dung dịch DAB (11,310 µl) được
nhỏ giọt từ từ vào hỗn hợp phản ứng và khuấy từ 24 giờ ở nhiệt độ phòng. Sản phẩm
sau phản ứng được đem đi thẩm tách với nước cất qua màng Cellulose MWCO 3500
Da, trong 4 ngày và cuối cùng đông khô để thu được dẫn xuất Fud-DAB. Sản phẩm
được đem đo phổ 1H-NMR và FT-IR để xác định cấu trúc.
Hình 2.7. Tổng hợp Fud-DAB
49
● Tổng hợp Fud-P123
Copolymer Fud-P123 (Fud:P123=1:3 mmol/mmol) được tổng hợp dựa trên sự
liên hợp giữa NPC-P123-Ami và dẫn xuất Fud-DAB (hình 2.8).
Cho Fud-DAB (0,025 mmol) vào bình cầu một cổ, thêm 50 ml nước DI, khuấy
tan ở nhiệt độ phòng. Sau đó dung dịch nước lạnh của NPC-P123-Ami (0,074 mmol)
tương ứng được nhỏ từ từ vào bình cầu chứa dung dịch Fud-DAB và khuấy từ trong
24 giờ ở nhiệt độ dưới 25oC. Sản phẩm sau phản ứng được đem đi thẩm tách trong
nước cất lạnh qua màng Cellulose MWCO 12000-14000 Da, trong 7 ngày và cuối
cùng đông khô để thu được copolymer Fud-P123.
Fud-DAB
O
OH
CH3OH
O
CH3OH
O
-O3SO
O
CH3OH
O
-O3SO
O
CH3
O
-O3SO
O O
OH
OH
OC
OH
O
n
NH
O
O
CH3
O
O
20 70 20HN
O
HOO
OO2N
CO
NH
HN
O
CH3
OO
O20 70
O
NH
O
HO 20
Fud-P123
O
OH
CH3OH
O
CH3OH
O
-O3SO
O
CH3OH
O
-O3SO
O
CH3
O
-O3SO
O O
OH
OH
OH
O
n
HN
NPC-P123-Ami
Hình 2.8. Tổng hợp copolymer ghép Fud-P123
2.4.3.2. Tổng hợp nanogel Fud-P123 mang thuốc cisplatin và cisplatin hydrate
Quy trình tổng hợp nanogel Fud-P123 mang thuốc cisplatin và cisplatin hydrate
được thực hiện theo các bước tương tự quy trình tổng hợp Hep-P123 mang thuốc.
50
Lượng thuốc mang vào chất mang Fud-P123 được xác định bằng phương pháp
đo ICP-OES.
2.4.3.3. Khảo sát khả năng nhả thuốc cisplatin hydrate của Fud-P123
Quy trình khảo sát khả năng nhả thuốc cisplatin hydrate của nanogel Fud-P123
được thực hiện tương tự quy trình nhả thuốc của Hep-P123.
Hàm lượng platinum (mg/l) có trong các mẫu theo thời gian được xác định
bằng phương pháp đo ICP-OES.
2.4.3.4. Đánh giá độc tính tế bào (dòng tế bào MCF-7 và tế bào thường)
Độc tính tế bào của Fud-P123 (1:3) mang thuốc cisplatin và cisplatin hydrate
được thực hiện trên dòng tế bào ung thư vú MCF-7 bằng phương pháp nhuộm SRB.
Đồng thời Fud-P123 (1:3) cũng được thử nghiệm độc tính trên nguyên bào sợi
để đánh giá tính tương hợp sinh học.
2.4.4. Ứng dụng tổng hợp và đánh giá nanogel Hep-F127 mang thuốc cisplatin
hydrate kết hợp nanocurcumin (Hep-F127-CisOH-Cur) lên chuột mang khối u
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hiệu quả mang thuốc của các hệ nanogel Hep-
P123, Hep-F127, Hep-F87, Hep-F68 và Fud-P123 với các tỉ lệ ghép khác nhau, chúng
tôi tiến hành chọn hệ nanogel Hep-F127 với tỉ lệ ghép 1:3 (mmol/mmol) để ứng dụng
mang thuốc cisplatin hydrate kết hợp với nanocurcumin và đánh giá hiệu quả điều trị
lên chuột mang khối u dòng tế bào MCF-7 ghép dị loài từ người.
Curcumin là một polyphenol có nguồn gốc từ nghệ và có nhiều dược tính như
chống oxy hóa, chống viêm, khử trùng và không gây độc cho cơ thể. Trong những
nghiên cứu gần đây, curcumin còn cho thấy khả năng chống ung thư, do đó việc kết
hợp curcumin vào thuốc chống ung thư cisplatin nhằm mục đích giảm độc tính của
thuốc và tăng hiệu quả điều trị.
2.4.4.1. Tổng hợp Hep-F127-CisOH-Cur
Quy trình tổng hợp Hep-F127-CisOH-Cur được thực hiện qua 2 bước:
● Bước 1: Tổng hợp Hep-F127-Cur
Cho Hep-F127 (0,004 mmol) vào lọ thủy tinh. Sau đó thêm 10 ml nước cất
lạnh, khuấy đều cho Hep-F127 tan hoàn toàn. Cho 14 mg curcumin vào lọ thủy tinh,
nhỏ từ từ 14 ml dung môi ethanol:dichloromethane (DCM) với tỉ lệ 7:3 (v/v) vào và
lắc đều cho đến khi các hạt curcumin tan hoàn toàn. Tiến hành siêu âm để tạo ra Hep-
51
F127-Cur. Vừa siêu âm dung dịch Hep-F127 vừa nhỏ từ từ dung dịch curcumin vào
bằng kim tiêm trong vòng 2 phút, tất cả dung dịch phải để ở điều kiện lạnh dưới 25oC.
Tiến hành li tâm mẫu với tốc độ 3500 vòng/phút, trong 10 phút và cô quay để loại bỏ
hết dung môi trong dung dịch sản phẩm thu được. Sau đó, đem đi đông khô thu được
sản phẩm là Hep-F127-Cur. Để giữ cấu trúc nano ổn định sản phẩm Hep-F127-Cur
được phân tán lại trong nước DI, ở 25oC, sau đó nanocurcumin tiếp tục được thẩm
tách 3 lần trong nước cất sử dụng màng Cellulose 3500 Da, trong 3 lần, ở 37oC. Cuối
cùng sản phẩm được đông khô và lưu trữ. Cấu trúc sản phẩm được xác định bằng phổ
FT-IR.
● Bước 2: Tổng hợp Hep-F127-CisOH-Cur
Hình 2.9. Nanogel Hep-F127 mang cisplatin hydrate kết hợp curcumin [50]
Sản phẩm Hep-F127-Cur sau khi được tổng hợp sẽ được sử dụng để tạo phức
với cisplatin hydrate trên cơ sở hình thành phức giữa cispaltin hydrate và các nhóm
carboxylate/sulfate có trên sườn heparin (hình 2.9).
Cân 200 mg Hep-F127-Cur cho vào lọ thủy tinh và nhỏ từ từ dung dịch
cisplatin sau khi hydrate vào tiến hành khuấy bằng máy khuấy từ ở điều kiện dưới
Hep-F127
Hep-F127-CisOH-Cur
52
20oC, môi trường khí nitrogen trong 24 giờ. Tiến hành thẩm tách 3 lần trong nước cất
ở nhiệt độ phòng, sử dụng màng Cellulose MWCO 3500 Da, mỗi lần cách nhau 20
phút, sau đó tiến hành đông khô để thu được sản phẩm Hep-F127-CisOH-Cur.
2.4.4.2. Đánh giá cấu trúc, hình thái Hep-F127-CisOH-Cur
Cấu trúc sản phẩm Hep-F127-CisOH-Cur được xác định bằng phổ FT-IR.
Phần trăm thuốc cisplatin hydrate và nanocurcumin được mang vào nanogel
Hep-F127 được xác định bằng phương pháp đo ICP-OES và UV-Vis.
Hình thái, kích thước nanogel Hep-F127-CisOH-Cur được xác định bằng kính
hiển vi điện tử truyền qua TEM.
2.4.4.3. Đánh giá độc tính dòng tế bào MCF-7
Độc tính tế bào của Hep-F127, Hep-F127-CisOH và Hep-F127-CisOH-Cur
được thực hiện trên dòng tế bào ung thư vú MCF-7 bằng phương pháp nhuộm SRB.
2.4.4.4. Khảo sát khả năng nhả thuốc của Hep-F127-CisOH-Cur
Quy trình giải phóng cisplatin hydrate và nanocurcumin được thực hiện bằng
cách cho 2 mẫu Hep-F127-CisOH-Cur (12 mg) hòa tan hoàn toàn trong 3 ml nước
cất. Mỗi mẫu cho vào 3 màng thẩm tách Cellulose MWCO 3500 Da. Tiến hành thẩm
tách trong đệm PBS (12 ml) ở 37oC trong 2 điều kiện pH khác nhau (5,5 và 7,4). Sau
mỗi khoảng thời gian nhất định là 0,5 giờ, 1 giờ, 3 giờ, 6 giờ, 24 giờ, 48 giờ và 96
giờ sẽ lấy mẫu một lần, mỗi lần lấy 1 ml, sau đó thêm vào tương ứng 1 ml dung dịch
đệm PBS cho đủ 12 ml như ban đầu. Hàm lượng cisplatin liên hợp và curcumin có
trong mẫu theo thời gian được xác định bằng phương pháp đo ICP-OES và UV-Vis.
2.4.4.5. Quy trình tạo mô hình chuột suy giảm miễn dịch và ghép khối u dị loài
Phương pháp và các bước tạo mô hình chuột suy giảm miễn dịch và mang khối
u ghép dị loài được thực hiện theo quy trình tại phòng thí nghiệm Bộ môn Sinh lí học
và Công nghệ sinh học động vật, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc
gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chuột nhắt trắng (Mus musculus Var. Albino) được mua từ viện Pasteur Thành
phố Hồ Chí Minh với số lượng 30 con (đực), khoảng 35 - 37 g/con. Chuột được phân
thành 6 chuồng (5 con/chuồng) và được nuôi ổn định 2 - 3 ngày trước khi gây suy
giảm miễm dịch.
a. Quy trình gây suy giảm miễn dịch
53
Mô hình chuột bị ức chế miễn dịch phục vụ cho việc ghép tế bào ung thư
MCF-7 được tiến hành bằng busulfan kết hợp với cyclophosphamide liều cao kéo dài
trong nhiều ngày như sau:
Ngày N1 N2 N3 N4 N5 N6 N7 N8 N9
Tiêm BU CY CY CY CY Tế bào CY*
BU: Tiêm Busulfan liều 20 mg/kg
CY: Tiêm Cyclophosphamide liều 50 mg/kg
CY*: Tiêm Cyclophosphamide liều 25 mg/kg
Thời gian xử lí thuốc trên chuột trước khi ghép tế bào ung thư là 7 ngày, từ
ngày N1 N7. Ngày N1 tiêm 1 liều busulfan 20 mg/kg. Bốn ngày tiếp theo, từ ngày
N2 N5, mỗi ngày tiêm 1 liều cyclophosphamide 50 mg/kg, tiêm tại vùng bụng.
Kiểm tra chuột ở ngày thứ 6 (đảm bảo chuột đã suy giảm miễn dịch), đánh giá
hiệu quả suy giảm miễn dịch bằng phương pháp bạch cầu tổng.
b. Ghép tế bào MCF-7 tạo khối u
Ngày ghép tế bào MCF-7 là ngày N8, tiêm tế bào MCF-7 tạo khối u trên lưng
chuột, các ngày từ N8 trở đi được xem là khoảng thời gian sau khi ghép. Từ ngày N9
trở đi, cách 3 ngày tiêm 1 liều cyclophosphamide 25 mg/kg nhằm duy trì tình trạng
ức chế miễn dịch cho chuột trong suốt thời gian thí nghiệm.
Để theo dõi sự phát triển của mô hình, khối u được tiến hành đo kích thước,
ghi nhận đường kính lớn nhất, đường kính nhỏ nhất 2 ngày một lần trong suốt thời
gian thí nghiệm.
2.4.4.6. Quy trình thử nghiệm thuốc
Sau quá trình gây suy giảm miễn dịch và tạo khối u, 14 ngày tiếp theo là quá
trình thử nghiệm thuốc như sau:
Ngày N1 N2 N3 N4 N5 N6 N7 N8
Tiêm Thuốc CY* Thuốc CY* Thuốc CY*
N9 N10 N11 N12 N13 N14
Thuốc CY* Thuốc CY*
Thuốc: Tiêm thuốc vào tĩnh mạch đuôi
CY*: Tiêm duy trì cyclophosphamide liều 25 mg/kg
54
Số lượng chuột 25 con đã gây tạo khối u thành công được lựa chọn ngẫu nhiên
chia làm 5 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức 5 con.
♦ Nghiệm thức 1: nước muối sinh lý NaCl 0,9% (100 µl/liều).
♦ Nghiệm thức 2: Hep-F127 (12 mg/kg thân trọng)
♦ Nghiệm thức 3: Cisplatin (3mg/kg thân trọng).
♦ Nghiệm thức 4: Hep-F127-CisOH (3 mg cisplatin/kg thân trọng).
♦ Nghiệm thức 5: Heparin-F127-CisOH-Cur (3 mg cisplatin/kg thân trọng).
Thuốc được tiêm qua tĩnh mạch đuôi 3 ngày/lần trong 14 ngày, và thuốc được
lấy chính xác theo khối lượng chuột sao cho trong mỗi liều tiêm luôn có lượng
cisplatin 3 mg/kg.
Thao tác tiêm: đâm kim từ vị trí xa gốc đuôi trước vào tĩnh mạch đuôi chuột
nằm ngay dưới da. Kim sau khi đâm vào tĩnh mạch phải luồn kim vào sâu trong mạch
ít nhất 2/3 cây kim để tránh dịch trào ngược ra ngoài (hình 2.10).
Hình 2.10. Mô hình thử thuốc trên chuột
Thực hiện tiêm cyclophosphamide 25 mg/kg vào các ngày kế tiếp sau tiêm
thuốc để duy trì tình trạng suy giảm miễn dịch.
Theo dõi đo khối lượng chuột và kích thước khối u hàng ngày. Ghi nhận các
thông số đường kính lớn nhất, đường kính nhỏ nhất khối u để tính thể tích khối u.
Kết thúc 14 ngày thử nghiệm thuốc, các khối u được thu nhận, bảo quản trong
dung dịch formalin 10% (hình 2.11).
55
Hình 2.11. Khối u được thu nhận sau khi kết thúc thí nghiệm
2.4.4.7. Quy trình đánh giá hiệu quả của thuốc
Quy trình đánh giá hiệu quả của thuốc dựa trên độ suy giảm thể tích của khối
u và kết quả nhuộm mô quan sát tế bào khối u.
Sau khi ghép tế bào MCF-7 lên chuột, tại vị trí ghép sẽ có sự thay đổi về hình
thái và cấu trúc mô. Sự xuất hiện chấm trắng nhỏ là dấu hiệu sự phát triển khối u đầu
tiên mà ta có thể quan sát được bằng mắt thường.
Các chỉ tiêu đánh giá gồm: kích thước khối u được đo bằng thước kẹp Mitutoyo
(Nhật Bản) với độ chia nhỏ nhất 0,02 mm và đánh giá hiệu quả điều trị của thuốc
bằng phương pháp nhuộm mô khối u, tại Khoa Giải phẫu bệnh thuộc Bệnh viện Nhi
đồng 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
56
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Kết quả tổng hợp và khảo sát nanogel Hep-P123
Cấu trúc của các copolymer Hep-P123 được xác định bằng quang phổ hồng
ngoại biến đổi FT-IR, phổ cộng hưởng từ hạt nhân 1H-NMR, TGA, TEM và CMC.
3.1.1. Kết quả xác định thành phần, cấu trúc các copolymer Hep-P123
Trong tổng hợp các copolymer Hep-P123 các thành phần cấu trúc của sản
phẩm trung gian NPC-P123-NPC, NPC-P123-Ami, Hep-DAB cũng được xác định
qua kết quả phân tích phổ FT-IR và 1H-NMR.
3.1.1.1. Kết quả phân tích phổ FT-IR và 1H-NMR của sản phẩm trung gian NPC-
P123-NPC và NPC-P123-Ami
Các sản phẩm NPC-P123-NPC và NPC-P123-Ami được tổng hợp từ P123,
NPC và Ami có dạng keo màu trắng. Đầu tiên hoạt hóa 2 nhóm -OH đầu và cuối
mạch của P123 bởi NPC tạo sản phẩm NPC-P123-NPC. Sau đó NPC-P123-NPC
được dùng làm tác chất cho phản ứng ghép với Ami. Trong phản ứng này liên kết
urethane được tạo thành từ phản ứng giữa nhóm amine trong phân tử Ami và nhóm -
-C=O của hợp chất NPC-P123-NPC tạo sản phẩm là NPC-P123-Ami.
a. Kết quả phân tích phổ FT-IR của NPC-P123-NPC và NPC-P123-Ami
Hình 3.1. Phổ FT-IR của P123, NPC-P123-NPC và NPC-P123-Ami
57
Tín hiệu peak ở 2972 cm-1 và 2887 cm-1 trên phổ FT-IR của pluronic P123
trong hình 3.1 là dao động hóa trị đặc trưng liên kết -CH của nhóm -CH2 và -CH3 trên
pluronic P123. Đồng thời, trên phổ đồ của NPC-P123-NPC, nhóm -NO2 liên kết trực
tiếp với nhân thơm trên phân tử NPC xuất hiện tại số sóng 1593 cm-1 và có sự dịch
chuyển dao động xuất hiện peak 1769 cm-1, đây là dao động hóa trị liên kết -C=O của
nhóm ester do sự hình thành liên kết ester giữa pluronic P123 với NPC tạo sản phẩm
NPC-P123-NPC.
Trong phổ đồ FT-IR của NPC-P123-Ami ở hình 3.1 xuất hiện tín hiệu mới tại
độ chuyển dịch 1642 cm-1, do sự thay thế một phần gốc p-nitrophenyl chloroformate
bằng 3-aminopropan-1-ol (Ami) thông qua nối ureathan (-NHCOO-), điều này chứng
tỏ đã tổng hợp thành công sản phẩm NPC-P123-Ami.
Dữ liệu phổ FT-IR của P123, NPC-P123-NPC và NPC-P123-Ami theo hình
3.1 được thống kê qua bảng 3.1.
Bảng 3.1. Kết quả phổ FT-IR của P123, NPC-P123-NPC, NPC-P123-Ami
Vị trí Nhóm chức Số sóng (cm-1)
P123 NPC-P123-NPC NPC-P123-Ami
a -CH (-CH2 và -
CH3) 2972-2887 2972-2887 2972-2887
b C-O-C 1108 1108 1108
c -NO2 1593 1593
d -COO-NPC 1769 1769
e -NHCOO- 1642
Qua bảng tổng kết dữ liệu phổ của các chất (bảng 3.1), cho thấy tín hiệu dao
động đặc trưng ở vị trí a, b luôn xuất hiện trong phân tử P123, NPC-P123-NPC và
NPC-P123-Ami. Tín hiệu dao động ở vị trí e chỉ xuất hiện ở sản phẩm NPC-P123-
Ami do sự hình thành liên kết urethane từ sự thay thế một đầu NPC của phân tử NPC-
P123-NPC thành Ami.
b. Kết quả phân tích 1H-NMR của NPC-P123-NPC và NPC-P123-Ami
Kết quả phân tích cấu trúc của NPC-P123-NPC được thể hiện qua phổ cộng
hưởng từ hạt nhân 1H-NMR (500 MHz, CDCl3, ppm). Phổ đồ ở hình 3.2 có tín hiệu
các proton của P123 trong NPC-P123-NPC như: ở độ dịch chuyển hóa học δH = 1,20-
58
1,26 ppm là dao động đặc trưng proton của nhóm methyl -CH3 (a) trên PPO của P123;
δH = 3,60-3,69 ppm là dao động proton methylene -OCH2-CH2O- (b) của PEO. Đặc
biệt, sự xuất hiện của tín hiệu ở δH = 4,43-4,45 ppm được coi là tín hiệu pronton
methylene -CH2-O-NPC (e) liên kết trực tiếp với nhóm carbonate trên NPC.
Đồng thời, còn có sự xuất hiện của hai tín hiệu đôi ở δH = 7,38-7,40 ppm và
δH = 8,27-8,28 ppm là hai tín hiệu đặc trưng của proton vòng thơm nhóm (-CH=CH)
của NPC. Độ hoạt hóa P123 đạt trên 90% được tính từ tỷ lệ tích phân của proton thơm
(NPC) và proton methyl (pluronic P123) theo công thức của Thi Bich Tram Nguyen
và Ngoc Quyen Tran [117]. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu trước [84]. Từ phổ
1H-NMR ở hình 3.2 cho thấy đã tổng hợp thành công NPC-P123-NPC.
Hình 3.2. Phổ 1H-NMR của NPC-P123-NPC
NPC-P123-NPC được dùng làm tác chất cho phản ứng ghép với Ami tạo sản
phẩm là NPC-P123-Ami.
Trên phổ đồ 1H-NMR của NPC-P123-Ami (500 MHz, CDCl3, ppm) ờ hình
3.3 ngoài các tín hiệu proton đặc trưng có trên pluronic P123 như: δH = 1,12-1,14
ppm là dao động đặc trưng proton của nhóm methyl -CH3 (a) trên PPO của P123; δH
= 3,61-3,63 ppm là dao động proton methylene -OCH2-CH2O- (b) của PEO. Sự xuất
59
hiện của hai tín hiệu đôi ở δH = 7,38-7,40 ppm và δH = 8,27-8,28 ppm là hai tín hiệu
đặc trưng của proton thơm trên NPC (-CH=CH-). Đặc biệt, proton methylene liên kết
trực tiếp với nhóm carbonate của NPC xuất hiện tại tín hiệu δH = 4,43 ppm (-CH2-O-
NPC) (e) dịch chuyển một phần đáng kể về vùng δH = 4,22 ppm (f), đây là tín hiệu
proton methylene liên kết trực tiếp với nhóm carbonate của Ami (-CH2-O-Ami), do
phản ứng thay thế một phần gốc NPC bằng Ami [58, 96]. Khoảng 50% gốc NPC đã
được thay thế bởi Ami, kết quả này thu được từ phép tính tỷ lệ tích phân của proton
trên NPC và proton của Ami theo công thức của Thi Bich Tram Nguyen và Ngoc
Quyen Tran [117].
Hình 3.3. Phổ 1H-NMR của NPC-P123-Ami
Dữ liệu phổ 1H-NMR của NPC-P123-NPC và NPC-P123-Ami theo hình 3.2
và hình 3.3 được thống kê qua bảng 3.2.
Bảng 3.2. Kết quả phổ 1H-NMR của NPC-P123-NPC và NPC-P123-Ami
Vị trí
H H của nhóm
Độ dịch chuyển hóa học (δ, ppm)
NPC-P123-NPC NPC-P123-Ami
a -CH3 (PPO) 1,20-1,26 1,12-1,14
60
b -OCH2-CH2O- (PEO) 3,60-3,69 3,61-3,63
c, d -CH=CH- 7,38-7,40 và 8,27-8,28 7,38-7,40
và 8,27-8,28
e -CH2-O-NPC 4,43-4,45 4,43
f -CH2-O-Ami 4,22
Qua bảng thống kê 3.2, một lần nữa cho thấy sản phẩm tổng hợp NPC-P123-
Ami ngoài sự lặp lại các tín hiệu proton từ NPC-P123-NPC ở vị trí a, b, c, d, e còn
có sự xuất hiện thêm tín hiệu mới tại vị trí f do sự thay thế một đầu NPC từ NPC-
P123-NPC thành Ami.
3.1.1.2. Kết quả phân tích phổ FT-IR và 1H-NMR của sản phẩm trung gian Hep-
DAB
Các sản phẩm Hep-DAB được tổng hợp từ heparin và 1,4-diaminbutane
(DAB), sử dụng tác chất ghép cặp EDC/NHS, có dạng bột màu trắng.
Trong đó, EDC được sử dụng để hoạt hóa nhóm cacboxylate/sulfate trên sườn
heparin. Sản phẩm O-acylisourea được sinh ra kém ổn định, dễ bị thủy phân trong
môi trường nước và bị chuyển vị thành thành N-acylurea, chất này không phản ứng
với các amine bậc 1. NHS được thêm vào nhằm tạo ra sản phẩm succinimidyl ester
ổn định hơn, ngăn cản quá trình chuyển vị của O-acylisourea thành N-acylurea, giúp
tăng hiệu suất phản ứng. Sơ đồ phản ứng được thực hiện theo phụ lục 1.
a. Kết quả phân tích phổ FT-IR của Hep-DAB
Hình 3.4. Phổ FT-IR của heparin và Hep-DAB
61
Ở hình 3.4 trên phổ đồ của heparin có các peak dao động đặc trưng như: tín
hiệu peak ở số sóng 3453 cm-1 là dao động hóa trị -OH trên heparin; 1632 cm-1 là dao
động hóa trị C=O của nhóm carboxylate; 1238 cm-1 là dao động hóa trị đối xứng
O=S=O của nhóm sulfate; 817 cm-1 là dao động của sulfonate-glucosamine C-O-S.
Khi DAB gắn lên heparin trên phổ đồ FT-IR của Hep-DAB ở hình 3.4 ta thấy
xuất hiện 2 tín hiệu mới, peak 3093 cm-1 là dao động hóa trị của liên kết –NH2 trên
phân tử DAB không liên kết với heparin. Đồng thời tín hiệu tại số sóng 1469 cm-1;
1448 cm-1 là dao động N-H của nhóm amide (-NHCO-) do DAB liên kết với nhóm
carboxylate trên heparin, điều này chứng tỏ đã tổng hợp thành công sản phẩm Hep-
DAB.
b. Kết quả phân tích 1H-NMR của Hep-DAB
Hình 3.5. Phổ 1H-NMR của Hep-DAB
Kết quả phân tích cấu trúc Hep-DAB được thể hiện qua phổ 1H-NMR (500
MHz, D2O, ppm) ở hình 3.5. Phổ đồ có xuất hiện các tín hiệu proton trên phân tử
heparin tại δH = 1,99 ppm (m) và δH = 3,22-5,32 ppm (n). Tín hiệu ở δH = 1,70-1,74
ppm (i) là dao động proton methylene -CH2-CH2- trên dây DAB. Sự kết hợp giữa
heparin và DAB dẫn đến xuất hiện tín hiệu proton methlylene -CH2-NH- tại δH =
3,11-3,22 ppm (j), đây được xem là tín hiệu tại vị trí mà nhóm amine trên DAB liên
62
kết với nhóm carboxylate trên heparin để hình thành liên kết amide. Từ kết quả phổ
1H-NMR cho thấy đã tổng hợp thành công Hep-DAB.
3.1.1.3. Kết quả phân tích phổ FT-IR và 1H-NMR của sản phẩm Hep-P123
Copolymer Hep-P123 được tổng hợp bằng phản ứng ghép giữa Hep-DAB và
NPC-P123-Ami. Trong giai đoạn phản ứng này, nhóm -NH2 trên phân tử Hep-DAB
sẽ tấn công vào liên kết -C=O của hợp chất NPC-P123-Ami tạo sản phẩm Hep-P123.
a. Kết quả phân tích FT-IR của Hep-P123
Hình 3.6. Phổ FT-IR của Hep-DAB, NPC-P123-Ami và Hep-P123
Từ kết quả phổ FT-IR của Hep-P123 ở hình 3.6 ta thấy xuất hiện đồng thời
các dao động đặc trưng của cả heparin và P123 như: tín hiệu peak 2972-2887 cm-1 là
dao động hóa trị -C-H của nhóm -CH2 và -CH3 trên pluronic P123; peak 1107 cm-1 là
dao động hóa trị đối xứng C-O-C trên pluronic P123; peak 3453 cm-1 là dao động hóa
trị -OH trên phân tử heparin; peak 1238 cm-1 là dao động hóa trị đối xứng O=S=O
của nhóm sulfate trên heparin [31, 50, 84, 85]. Đặc biệt, ở đây ta thấy có sự dịch
chuyển peak dao động của nhóm -COO từ vùng số sóng 1769 cm-1 vể vùng số sóng
1634 cm-1 là do phản ứng hình thành liên kết giữa Hep-DAB và NPC-P123-Ami.
63
Dữ liệu phổ FT-IR của sản phẩm Hep-P123 được tổng hợp từ NPC-P123-Ami
và Hep-DAB theo hình 3.6 được thống kê qua bảng 3.3.
Bảng 3.3. Kết quả phổ FT-IR của NPC-P123-Ami, Hep-DAB và Hep-P123
Vị
trí Nhóm chức
Số sóng (cm-1)
NPC-P123-Ami Hep-DAB Hep-P123
a -OH (Hep) 3453 3453
b O=S=O (Hep) 1238 1238
c -C-H (-CH2 và -CH3) 2972-2887 2972-2887
d C-O-C (P123) 1107 1107
e -NO2 (NPC) 1593
f -COO-NPC 1769
g -NHCOO- 1634
Qua bảng tổng kết dữ liệu phổ của các chất ở bảng 3.3, có sự lặp lại các tín
hiệu dao động đặc trưng trên phân tử heparin ở vị trí a, b và trên phân tử P123 ở vị trí
c, d luôn xuất hiện trong phân tử Hep-P123 sau khi tổng hợp. Sự dịch chuyển tín hiệu
dao động ở vị trí f về vị trí g cho thấy sự hình thành liên kết urethane từ phản ứng
giữa Hep-DAB và NPC-P123-Ami, và đi theo là sự biến mất của tín hiệu e.
b. Kết quả phân tích 1H-NMR của Hep-P123
Kết quả phân tích cấu trúc của Hep-P123 được thể hiện qua phổ 1H-NMR (500
MHz, D2O, ppm) ở hình 3.7. Phổ đồ xuất hiện các tín hiệu proton đặc trưng trên phân
tử P123 như: δH = 1,09 ppm là dao động đặc trưng proton của nhóm methyl -CH3 (a)
trên PPO của P123; δH = 3,67 ppm là dao động proton methylene –OCH2-CH2O- (b)
của PEO. Tín hiệu proton trên phân tử heparin tại δH = 1,99 ppm và δH = 3,22-5,32
ppm, tuy nhiên vẫn chưa quan sát rõ [31, 50, 84-85].
64
Hình 3.7. Phổ 1H-NMR của Hep-P123
Đặc biệt, ở δH = 1,74 ppm (i) là dao động của proton methylene ở vị trí –CH2-
CH2- trên DAB và ở δH = 3,11 ppm là dao động của proton methylene ở vị trí -CH2-
NH- (j), cho thấy có sự liên hợp giữa Hep-DAB và NPC-P123-Ami. Ngoài ra, trên
phổ không còn xuất hiện các tín hiệu của proton thơm của NPC (-CH=CH-) ở δH =
7,38-7,40 ppm và δH = 8,27-8,28 ppm và tín hiệu proton methylene liên kết trực tiếp
với nhóm carbonate của NPC tại δH = 4,43 ppm (-CH2-O-NPC) cũng đã biến mất,
chỉ còn tín hiệu tại δH = 4,22 ppm (f) đây là tín hiệu proton methylene tại vị trí liên
hợp với Ami (-CH2-O-Ami). Kết quả này chứng tỏ rằng 100% NPC đã bị loại bỏ
trong quá trình hình thành Hep-P123 bằng phản ứng nối giữa Hep-DAB và NPC-
P123-Ami. Từ kết quả phổ FT-IR và phổ 1H-NMR cho thấy đã tổng hợp thành công
copolymer ghép Hep-P123.
Dữ liệu phổ 1H-NMR theo hình 3.7 được thống kê qua bảng 3.4.
65
Bảng 3.4. Kết quả phổ 1H-NMR của NPC-P123-Ami, Hep-DAB và Hep-P123
Vị trí
H H của nhóm
Độ dịch chuyển hóa học (δ, ppm)
NPC-P123-Ami Hep-DAB Hep-P123
a -CH3 (PPO) 1,12-1,14 1,09
b -OCH2-CH2O- (PEO) 3,61-3,63 3,67
c, d -CH=CH- (vòng thơm) 7,38-7,40 và
8,27-8,28
e -CH2-O-NPC 4,43
f -CH2-O-Ami 4,22 4,22
g -CH3CO (Hep) 1,99 1,99
i -CH2-CH2- (DAB) 1,70-1,74 1,74
j -CH2-NH- 3,11-3,22 3,22
Qua bảng tổng kết dữ liệu phổ của sản phẩm Hep-P123 được tổng hợp từ NPC-
P123-Ami và Hep-DAB ở bảng 3.4, cho thấy có sự lặp lại các tín hiệu proton đặc
trưng trên phân tử P123 ở vị trí a, b và trên phân tử heparin ở vị trí g, i, j. Phản ứng
nối thành công giữa Hep-DAB và NPC-P123-Ami dẫn đến sự mất hoàn toàn tín hiệu
proton ở vị trí c, d, e, chỉ còn lại tín hiệu tại vị trí f.
3.1.1.4. Kết quả phân tích TGA của Hep-P123
Sự ổn định nhiệt của các copolymer ghép Hep-P123 cùng với heparin và
pluronic P123 được phân tích bằng phép đo TGA để nghiên cứu đặc tính nhiệt của
các sản phẩm. Mẫu được sử dụng trong 10 mg, ở nhiệt độ 25oC - 700oC với tốc độ
10oC/phút, dưới điều kiện khí nitrogen.
Hình 3.8. Kết quả TGA của P123, heparin và các copolymer ghép Hep-P123
66
Hình 3.8 cho thấy giản đồ TGA của heparin ổn định ở nhiệt độ trên 200oC và
có sự phân hủy nhẹ với khối lượng mất khoảng 5%. Heparin bắt đầu bị phân hủy
nhanh ở nhiệt độ 250oC đến 350oC. Ở nhiệt độ trên 400oC quá trình phân hủy diễn ra
chậm dần, và khối lượng dư còn lại là 57,18% tại nhiệt độ 420oC, sự giảm khối lượng
trên được cho là do sự mất nước và sự đốt cháy của heparin [118]. Trong khi đó,
pluronic P123 ổn định ở nhiệt độ lên đến 320oC, và bắt đầu bị phân hủy ở nhiệt độ
350oC, tổng khối lượng sẽ bị mất hoàn toàn ở nhiệt độ 420oC.
Giản đồ TGA của cả 4 copolymer ghép Hep-P123 ở 4 tỉ lệ ghép khác nhau đặc
trưng chứa cả sự phân hủy của pluronic P123 và heparin. Một lượng nhỏ khối lượng
các copolymer ghép Hep-P123 bị phân hủy ở nhiệt độ 200oC, kết quả của quá trình
khử nước của heparin. Hep-P123 bắt đầu bị phân hủy nhanh trong khoảng từ 250oC
đến 350oC và mất phần lớn khối lượng ở nhiệt độ từ 350oC đến 420oC. Tuy nhiên, từ
giản đồ cho thấy vẫn còn một lượng nhỏ còn lại chưa bị phân hủy ở nhiệt độ từ 420oC,
tại nhiệt độ mà pluronic P123 đã bị phân hủy hoàn toàn. Kết quả được cho là do có
sự hiện diện của heparin trong các copolymer ghép [118-119].
Từ kết quả giản đồ TGA cho thấy khối lượng dư còn lại của các copolymer
Hep-P123 với 4 tỉ lệ ghép 1:3; 1:7; 1:10 và 1:14 ở nhiệt độ 420oC tương ứng lần lượt
là 19,60%; 10,58%; 6,54% và 3,39%, trong đó copolymer Hep-P123 (1:3) thể hiện
sự suy giảm khối lượng nhanh chống và giữ lại khối lượng dư còn lại cao nhất. Sự
gia tăng phần trăm khối lượng dư còn lại này phù hợp với sự hiện diện tương ứng của
heparin và pluronic P123 có trong các copolymer Hep-P123 theo các tỉ lệ ghép [120].
Dựa trên tỉ lệ phần trăm khối lượng mất của heparin tinh khiết và phần trăm
khối lượng còn lại của nó trong Hep-P123 ở 420oC, ta có thể tính được phần trăm
khối lượng pluronic P123 được ghép vào heparin theo báo cáo của Hongliang Kang
[121] lần lượt là: 56,53% (Hep-P123 (1:3)); 68,84% (Hep-P123 (1:7)); 71,27% (Hep-
P123 (1:10)) và 74,10% (Hep-P123 (1:14)). Kết quả cho thấy phần trăm khối lượng
P123 tính toán được phù hợp với các tỉ lệ ghép tương ứng.
3.1.1.5. Kết quả phân tích giá trị CMC của Hep-P123
Các copolymer lưỡng tính có thể tự lắp ráp để hình thành micelle [122-124],
trong đó copolymer pluronic P123 được biết với cấu trúc khối PPO kỵ nước và khối
PEO ưa nước có thể dễ dàng hình thành micelle trong dung dịch nước [125-126].
67
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng iodine và phương pháp quang phổ
UV-Vis để xác định sự hình thành nanogel của các copolymer ghép trên cơ sở heparin
liên hợp pluronic P123 (Hep-P123) thông qua giá trị nồng độ tạo micelle tới hạn
(CMC) của các copolymer ghép Hep-P123 trong nước DI. CMC là một tham số đóng
vai trò quan trọng trong việc hình thành micelle của các copolymer lưỡng tính để
phân phối thuốc. Sự hình thành micelle nhờ vào tương tác kỵ nước có giá trị trong
việc cân bằng sự ổn định và giải phóng thuốc [127].
Hình 3.9. Kết quả đo CMC của các copolymer ghép Hep-P123
Trong thực nghiệm này, giá trị CMC được xác định bằng cách sử dụng iodine
đóng vai trò như đầu dò kỵ nước. Iodine được hòa tan trong dung dịch sẽ tham gia
vào môi trường kỵ nước của pluronic P123 gây ra sự dịch chuyển I3- thành I2 từ KI
dư có trong dung dịch. CMC được tính bằng cách vẽ cường độ hấp thụ của I2 so với
log của nồng độ polymer (% wt).
68
Ở hình 3.9 cho kết quả cường độ hấp thụ của iodine bắt đầu tăng đáng kể ở giá
trị nồng độ copolymer ghép Hep-P123 từ 0,028 - 0,041 (%wt), chỉ ra rằng các phân
tử iodine bắt đầu hòa tan trong vùng kỵ nước PPO của pluronic P123. Điều này cho
thấy, ở nồng độ này các copolymer ghép Hep-P123 đã tự lắp ráp để hình thành mạng
lưới polymer liên kết ngang dưới dạng một nanogel có thể hoạt động như chất mang
thuốc kỵ nước. Trên giá trị nồng độ này, cường độ hấp thụ của iodine sẽ tăng dần khi
tăng nồng độ polymer. Đồng thời cấu trúc tự lắp ráp của copolymer ghép Hep-P123
cũng sẽ khác hơn nhiều so với cấu trúc micelle của pluronic P123, sự hình thành
mạng lưới polymer liên kết ngang của nanogel Hep-P123 không chỉ nhờ vào tương
tác kỵ nước giữa các khối PPO, mà còn là sự tập hợp sắp xếp không đồng đều giữa
các khối kỵ nước PPO và khối ưa nước PEO được liên kết với chân heparin ưa nước
bằng liên kết hydro hoặc tương tác tĩnh điện. Cấu trúc độc đáo này có thể giúp cho
nanogel có độ ổn định cao và trở thành hệ mang thuốc lý tưởng [24, 118].
Mặt khác, giá trị CMC của các nanogel Hep-P123 còn liên quan đến tỉ lệ giữa
chiều dài chuỗi ưa nước và kỵ nước trong cấu trúc của copolymer ghép [122]. Giá trị
CMC của dung dịch P123 tinh khiết là 0,0028 (%wt) [125-126]. Trong khi đó giá trị
CMC của các copolymer ghép đo được từ 0,028 - 0,041 (%wt) lớn hơn so với giá trị
CMC của P123 tinh khiết, cho thấy sự có mặt của heparin sẽ làm tăng phần ưa nước
của copolymer ghép dẫn đến làm tăng giá trị CMC của dung dịch mẫu [119, 122,
128]. Sự khác biệt về giá trị CMC của các nanogel Hep-P123 và pluronic P123 cũng
có thể giúp tăng hiệu quả mang thuốc kỵ nước của các nanogel.
3.1.1.6. Kết quả phân tích TEM và DLS của Hep-P123
Hình thái và sự phân bố kích thước của các nanogel Hep-P123 có thể được
quan sát rõ bởi kết quả TEM và DLS. Dữ liệu kết quả TEM và DLS của các các
nanogel Hep-P123 ở hình 3.10 được thống kê qua bảng 3.5.
Bảng 3.5. Kích thước của nanogel Hep-P123 bởi TEM và DLS
Các copolymer ghép TEM (nm) DLS (nm)
Hep-P123 (1:3) 45-81 nm 94,4
Hep-P123 (1:7) 61-102 nm 107,2
Hep-P123 (1:10) 75-115 nm 113,9
Hep-P123 (1:14) 80-153 nm 182,4
69
Kết quả TEM cho thấy kích thước của micelle pluronic P123 từ 5-10 nm, và
có dạng hình cầu (hình 3.10), trong khi đó kích thước trung bình của các nanogel
Hep-P123 từ 45-153 nm theo TEM (bảng 3.5 và hình 3.11) lớn hơn so với kích thước
của micelle pluronic P123. Kết quả này chỉ ra rằng khi các chân P123 được ghép vào
heparin, ở nồng độ CMC các copolymer tự lắp ráp để hình thành nanogel với cấu trúc
mạng lưới bên trong có sự tập hợp sắp xếp không đồng đều của nhiều chuỗi polymer,
dẫn đến vùng cấu trúc không gian bên trong lớn hơn và có kích thước lớn hơn.
Hình 3.11 và bảng 3.5 còn cho thấy các hạt nanogel Hep-P123 có dạng hình
cầu (TEM), với sự phân bố kích thước hạt trung bình trong khoảng từ 94,4 nm đến
182,4 nm bằng DLS, ở 25oC và phụ thuộc vào lượng pluronic P123 được liên hợp.
Khi lượng pluronic P123 ghép vào heparin tăng làm kích thước hạt của nanogel Hep-
P123 cũng tăng theo, một phần là do pluronic P123 có sự tích điện âm nhẹ, trong cấu
trúc của nanogel Hep-P123 chứa heparin âm điện cao (-75 mV) do chứa số lượng các
nhóm sulfate và carboxylate [48], vì vậy có thể tạo ra lực tương tác đẩy giữa các
nhóm tích điện âm có trên sườn heparin và P123, dẫn đến vùng cấu trúc không gian
bên trong mạng lưới nanogel lớn, đồng thời các chân PEO (P123) và sườn heparin ưa
nước trong cấu trúc của nanogel thì dài, cồng kềnh, đều này cũng góp phần làm tăng
kích thước nanogel Hep-P123 khi tăng tỉ lệ ghép [129].
Hình 3.10. Kết quả TEM của pluronic P123
(a)
70
Hình 3.11. Kết quả TEM và DLS của (b): Hep-P123 (1:3); (c): Hep-P123 (1:7); (d):
Hep-P123 (1:10); (e): Hep-P123 (1:14)
3.1.2. Kết quả tổng hợp nanogel Hep-P123 mang thuốc cisplatin và cisplatin
hydrate
3.1.2.1. Kết quả phân tích phổ FT-IR của Hep-P123-Cis và Hep-P123-CisOH
Các copolymer Hep-P123 mang thuốc cisplatin và cisplatin hydrate thông qua
tương tác kỵ nước và sự hình thành phức giữa cisplatin hydrate và các nhóm
carboxylate/sulfate có trên sườn heparin. Trong dung dịch nước, hệ nano mang thuốc
71
tự lắp ráp nhờ vào tương tác kỵ nước để hình thành hệ nanogel mang thuốc (hình
3.12).
Hình 3.12. Sự hình thành phức Hep-P123-CisOH và nanogel của nó
Trên phổ FT-IR của Hep-P123-Cis và Hep-P123-CisOH ở hình 3.13 ta thấy
xuất hiện đồng thời các dao động đặc trưng của cả heparin và P123 như: tín hiệu peak
2972-2887 cm-1 là dao động hóa trị -C-H của nhóm -CH2 và -CH3 trên pluronic P123;
peak 1108 cm-1 là dao động hóa trị đối xứng C-O-C trên pluronic P123; peak 3453
cm-1 là dao động hóa trị -OH trên phân tử heparin [31, 50, 84-85].
Tín hiệu peak 3296 cm-1 ở vị trí A là dao động hóa trị liên kết N-H của nhóm
amine -NH2 trên phân tử cisplatin. Trong phổ đồ của Hep-P123-CisOH ta thấy xuất
hiện dao động hấp thụ mới ở 1712 cm-1 (B) chứng tỏ có sự tạo phức của CisOH và
nhóm carboxylate của heparin dẫn đến sự dịch chuyển dao động của nối -C=O trong
nhóm carboxylate lên vùng cao hơn từ 1632 cm-1 lên 1712 cm-1. Hơn nữa, 2 dãy hấp
thụ hồng ngoại mới trong phổ đồ của Hep-P123-CisOH ở 1298 cm-1 (C) và 846 cm-1
(D) là dao động của liên kết -S=O và -C-O-S- do sự hình thành phức của nhóm sulfate
và một phần nhóm sulfonate trên heparin với CisOH dẫn đến sự thay đổi tần số hập
thụ của các nhóm.
Hep-P123-CisOH
72
Hình 3.13. Phổ FT-IR của Hep-P123-Cis và Hep-P123-CisOH
Dữ liệu phổ FT-IR của heparin, Hep-P123, Hep-P123-Cis và Hep-P123-
CisOH ở hình 3.13 được thống kê qua bảng 3.6.
Bảng 3.6. Kết quả FT-IR của heparin, Hep-P123, Hep-P123-Cis, Hep-P123-CisOH
Vị
trí Nhóm chức
Số sóng (cm-1)
Heparin Hep-P123 Hep-P123-Cis Hep-P123-
CisOH
a -OH 3453 3453 3453 3453
b O=S=O (Hep) 1238 1238 1238 1238
c -C-H (–CH2 và
-CH3) (P123) 2972-2887 2972-2887 2972-2887
d C-O-C (P123) 1108 1108 1108
A -NH2 (Cis) 3296 3296
B -C=O (phức) 1712
C -S=O (phức) 1298
D -C-O-S- (phức) 846
Qua bảng tổng kết dữ liệu phổ của các chất ở bảng 3.6, một lần nữa cho thấy
sự lặp lại các tín hiệu dao động đặc trưng trên phân tử heparin ở vị trí a, b và trên
phân tử P123 ở vị trí c, d luôn xuất hiện trong phân tử Hep-P123-Cis và Hep-P123-
73
CisOH sau khi tổng hợp. Trong phổ đồ của Hep-P123-CisOH ta thấy xuất hiện các
dao động hấp thụ mới ở vị trí B, C, D chứng tỏ có sự tạo phức của CisOH và nhóm
carboxylate, sunfate trên heparin. Trong khi phổ đồ của Hep-P123-Cis chỉ xuất hiện
tín hiệu dao động tại vị trí A. Kết quả phổ đồ giúp ta xác định được sự hình thành
phức của các nhóm anion trên heparin với các mẫu CisOH. Qua phổ FT-IR ở hình
3.13 chứng minh hợp chất Hep-P123-Cis và Hep-P123-CisOH có sự xuất hiện đồng
thời của Hep-P123, cisplatin và cisplatin hydrate, chứng tỏ đã tổng hợp thành công
sản phẩm Hep-P123-Cis và Hep-P123-CisOH.
3.1.2.2. Kết quả phân tích ICP-OES của Hep-P123-Cis và Hep-P123-CisOH
Trong khảo sát thực nghiệm này, các copolymer ghép Hep-P123 được sử dụng
để mang thuốc chống ung thư cisplatin và cisplatin hydrate. Cisplatin là một trong
những thuốc chống ung thư hóa trị mạnh nhất được sử dụng rộng rãi trong suốt 4 thập
kỷ qua.
Phần trăm hàm lượng cisplatin được mang vào trong hệ chất mang Hep-P123
được tính toán gián tiếp thông qua phần trăm hàm lượng platinum (Pt) từ kết quả
phân tích ICP-OES, theo công thức:
%cisplatin = %Pt x 300,05
195,084 (% wt wt⁄ )
Cấu trúc của heparin và lượng P123 được liên hợp ảnh hưởng đến hiệu quả
mang thuốc Cis và CisOH của Hep-P123. Hiệu quả mang thuốc của 4 loại chất mang
nano Hep-P123 được thể hiện trên hình 3.14.
Hình 3.14. Hiệu quả mang thuốc của hệ chất mang Hep-P123
74
Kết quả cho thấy khi lượng pluronic P123 được ghép vào heparin càng nhiều
sẽ tạo ra tương tác kỵ nước trên phân tử Hep-P123 càng lớn làm cho kết quả mang
Cis cao hơn và sự hình thành phức CisOH thấp hơn, cụ thể: Hep-P123-Cis (1:14)
(13,29%) > Hep-P123-Cis (1:10) (11,75%) > Hep-P123-Cis (1:3) (8,92%) > Hep-
P123-Cis (1:7) (6,14%). Nhìn chung, phần trăm Cis được mang vào trong nanogel
Hep-P123 thông qua tương tác kỵ nước tăng tương ứng với sự tăng tương tác kỵ nước
trên phân tử Hep-P123. Kết quả này khớp với các nghiên cứu trước đây, trong đó
dendrimer liên hợp nhiều pluronic ưa dầu sẽ mang được nhiều thuốc chống ung thư
kỵ nước [130]. Tuy nhiên ở đây có một chút khác biệt trong kết quả mang Cis của
nanogel Hep-P123 (1:3) và Hep-P123 (1:7), điều này được giải thích có thể là do
trong tiến trình mang Cis đã có một phần nhỏ Cis bị thủy phân thành CisOH [131].
Các mẫu CisOH này sẽ kết hợp với các nhóm anion trên Hep-P123, với tỉ lệ ghép 1:3
do có số lượng các nhóm anion trên sườn heparin còn lại nhiều nhất nên sự tạo phức
với các mẫu CisOH sẽ cao hơn một chút, kết quả dẫn đến hiệu suất mang Cis của
nanogel Hep-P123 (1:3) cao hơn so với nanogel Hep-P123 (1:7).
Ngược lại, trên mạch cấu trúc của heparin có chứa các nhóm anion
(carboxylate/sulfate), các nhóm này sẽ tạo liên kết hóa học với phần platinum
hydroxide của CisOH, khi lượng P123 được liên hợp vào heparin càng nhiều, tương
ứng với số lượng các nhóm anion càng giảm, kết quả làm cho sự hình thành phức
thấp hơn, cụ thể: Hep-P123-CisOH (1:14) (8,44%) < Hep-P123-CisOH (1:10)
(15,69%) < Hep-P123-CisOH (1:7) (20,76%) < Hep-P123-CisOH (1:3) (30,3%). Kết
quả này phù hợp với các nghiên cứu trước, số lượng các nhóm anion càng lớn sẽ làm
gia tăng hiệu suất mang platinum của hệ chất mang nano [50, 83, 116]. Kết quả này
cũng chỉ ra rằng trong cấu trúc của Hep-P123 có chứa lượng lớn các nhóm anion.
3.1.3. Kết quả đánh giá khả năng nhả thuốc của Hep-P123
Từ kết quả khảo sát thực nghiệm khả năng mang thuốc của các nanogel Hep-
P123, chúng tôi tiến hành chọn hệ nano Hep-P123-CisOH (1:3) có hiệu quả mang
cisplatin hydrate cao nhất 30,3% để tiếp tục đánh giá khả năng nhả thuốc của nanogel.
Kết quả nhả thuốc cisplatin hydrate của Hep-P123 được xác định bằng phương pháp
đo ICP-OES.
75
Dược tính và cơ chế của cisplatin đã được công bố trong nhiều báo cáo trước
đây. Trong điều kiện sinh lý, cisplatin sẽ bị thủy phân thành monoaqua-
diaquacisplatin, sau đó tạo liên kết với guanine và adenine trong ADN, kết quả can
thiệp vào sự sao chép của ADN. Sự thủy phân của cisplatin hoặc phức platinum và
dược tính của nó cũng đã được công bố [83, 116, 131-132]. Trong nghiên cứu này,
sự giải phóng platinum và độc tính tế bào của cisplatin được đánh giá để làm rõ tiềm
năng mang thuốc của nanogel Hep-P123.
Hình 3.15. Sự giải phóng CisOH từ nanogel platinum ở pH 5,5 và 7,4
Kết quả ở hình 3.15 cho thấy hơn 60% (v/v) CisOH được giải phóng sau 24
giờ trong cả 2 điều kiện pH. Kết quả này là do tốc độ thủy phân nhanh của các nhóm
anion và phức CisOH cũng như mạng lưới nanogel lỏng lẻo do lượng pluronic P123
được liên hợp ít. Trong đó, thuốc giải phóng nhanh trong khoảng 0 giờ đến 3 giờ đầu,
điều này có thể là do phần thuốc tự do còn giữ lại trên mạng lưới nanogel, kết quả
một số công bố cũng cho thấy thuốc giải phóng nhanh trong khoảng 4 giờ đầu tiên
[133-134]. Ngoài ra, khi giá trị pH của dung dịch đệm tăng lên, tốc độ giải phóng
thuốc giảm. Sau 24 giờ, có 65,87 ± 4,03% CisOH được giải phóng ở pH 7,4 và 74,93
± 4,10% ở pH 5,5. Điều này chỉ ra rằng sự giải phóng CisOH thì phụ thuộc pH, thuốc
được giải phóng nhanh trong môi trường acid, kết quả này có ích cho hệ thống mang
thuốc bởi vì pH ở một số vị trí khối u thấp hơn tại vị trí mô bình thường. Kết quả này
cũng phù hợp với một số công bố trước một vài phức platinum ổn định kém trong
điều kiện acid [135-138].
Thời gian (giờ)
Ph
ần
tră
m C
isO
H g
iải
ph
ón
g (
%)
76
Ngoài ra, theo báo cáo của Jinrong Peng cho thấy rằng các liên kết liên hợp
được hình thành giữa cisplatin và các nhóm -COOH có thể bị phá vỡ bởi sự tấn công
của ion H+ và nồng độ ion Cl-. Trong cơ thể, nồng độ ion Cl- thì rất cao (95-100 mM)
và tương đối ổn định trong hệ tuần hoàn, ở môi trường acid, nồng độ ion H+ nhiều
hơn có thể đẩy nhanh tiến trình giải phóng cisplatin từ nanogel. Mặt khác, các liên
kết liên hợp tiếp xúc trực tiếp với ion Cl- làm cho cisplatin giải phóng nhanh từ các
nanogel, ngay cả trong môi trường pH 7,4, bằng cách trao đổi chậm các ligand trong
phức hệ Pt (II) với các ion chlorua, cuối cùng là khuếch tán thuốc ra khỏi phức hợp
của nó [139]. Homa Gheybi và cộng sự cũng chỉ ra rằng gần như không có cisplatin
được giải phóng trong nước cất, cho thấy sự hiện diện của ion clorua trong môi trường
sinh lý là rất cần thiết cho quá trình phóng thích thuốc [140]. Mặt khác, sự giải phóng
cisplatin còn có thể là do sự suy thoái của copolymer ghép, heparin và P123 là
polymer phân hủy sinh học có thể bị thủy phân thành các phân đoạn nhỏ hoặc đơn
phân tử ở cả 2 môi trường pH trung tính và acid [141].
Kết quả ở hình 3.15 còn cho thấy phần trăm thuốc cao nhất được giải phóng
từ các vật liệu nano Hep-P123 chỉ gần 75%, cho thấy sự giải phóng thuốc diễn ra
không hoàn toàn, chỉ ra rằng các nhóm carboxylate/sunfate trên heparin sẽ tạo thành
các phức liên kết mạnh với cisplatin, đồng thời có thể có sự liên hợp giữa CisOH với
các nhóm amine/amide trên sườn heparin ngăn cản sự giải phóng hoàn toàn thuốc ra
khỏi hệ chất mang, kết quả này cũng phù hợp với một số báo cáo trước [79, 139].
Đồng thời, ở điều kiện pH 7,4 cho thấy chỉ khoảng 65% trên tổng lượng CisOH được
mang vào Hep-P123 giải phóng ra trong 24 giờ, môi trường PBS. Kết quả này cho
thấy rằng hệ nano phức Hep-P123-CisOH có thể hữu ích như hệ chất mang giải phóng
thuốc chậm. Sự giải phóng thuốc có kiểm soát trong điều kiện trung tính là rất quan
trọng trong việc duy trì sự ổn định các liên kết trong hệ nano phức cho đến khi hệ
chất mang thuốc đến vị trí đích (khối u) và do đó giúp ngăn ngừa độc tính không
mong muốn và không đặc hiệu do sự giải phóng thuốc trong quá trình lưu thông máu.
Khi phức hợp đến mô khối u, thuốc sẽ được giải phóng nhanh chóng trong mô đáp
ứng với môi trường acid của khối u.
77
3.1.4. Kết quả độc tính tế bào (trên dòng tế bào MCF-7 và nguyên bào sợi)
Từ kết quả khảo sát thực nghiệm hiệu quả mang thuốc của các nanogel Hep-
P123, chúng tôi tiến hành chọn hệ nano Hep-P123 (1:3) để đánh giá tính tương hợp
sinh học trên nguyên bào sợi và độc tính tế bào trên dòng tế bào MCF-7 của chất
mang Hep-P123 (1:3) mang cisplatin và cisplatin hydrate.
Kết quả khảo sát tính tương hợp sinh học trên cơ sở độc tính tế bào của chất
mang Hep-P123 (1:3) bằng phương pháp nhuộm SRB trên nguyên bào sợi ở bảng 3.7
cho thấy ở nồng độ 100 µg/mL, sau 48 giờ có tỉ lệ sống của tế bào là 90%. Dựa trên
tiêu chuẩn ISO 10993-5, 1999 (vật liệu không độc đối với tế bào khi tại các nồng độ
pha loãng dung dịch chiết mẫu tỉ lệ tế bào sống đều cao hơn 70%), cho thấy chất
mang Hep-P123 (1:3) có tính tương hợp sinh học và không độc đối với tế bào.
Bảng 3.7. Phần Phần trăm gây độc tế bào trên nguyên bào sợi (%)
Mẫu Phần trăm gây độc tế bào trên nguyên bào sợi (%)
Lần 1 Lần 2 Lần 3 TB ± ĐLC
Hep-P123 (1:3) 8,02 12,20 9,92 10,04 ± 2,09
Kết quả độc tế bào trên dòng tế bào ung thư vú MCF-7 của hệ chất mang thuốc
Hep-P123-Cis và Hep-P123-CisOH được thực hiện bằng phương pháp nhuộm SRB
ở hình 3.16.
Hình 3.16. Độc tính tế bào MCF-7 của Hep-P123-Cis và Hep-P123-CisOH
78
Kết quả sau 48 giờ cho thấy nanogel Hep-P123 mang thuốc thể hiện khả năng
cao ức chế dòng tế bào ung thư vú người MCF-7, tại nồng độ 25 μg/ml hệ chất mang
Hep-P123 mang cisplatin hydrate (Hep-P123-CisOH) có phần trăm gây độc tế bào là
75,07 ± 4,25% cao hơn so với Hep-P123 mang cisplatin (Hep-P123-Cis) là 61,18 ±
2,18%. Kết quả trên chỉ ra rằng khi sử dụng cisplatin dưới dạng hydrate có thể giúp
tăng hiệu quả mang thuốc của hệ nano Hep-P123, từ đó làm tăng đáng kể khả năng
gây độc tế bào MCF-7 của hệ nanogel mang thuốc. Kết quả này phù hợp với giá trị
IC50 đo được của Hep-P123-CisOH là 8,48 ± 0,69 µg/mL thì nhỏ hơn so với Hep-
P123-Cis là 11,77 ± 0,80 µg/mL.
3.2. Kết quả tổng hợp và khảo sát nanogel Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68
Từ kết quả mang thuốc của các hệ chất mang Hep-P123 với 4 tỉ lệ ghép khác
nhau (1:3; 1:7: 1:10; 1:14 mmol/mmol), chúng tôi tiếp tục tiến hành tổng hợp các
nanogel trên cơ sở heparin liên hợp với các pluronic khác nhau gồm F127, F87 và
F68 với 2 tỉ lệ ghép 1:3 và 1:14 (mmol/mmol) để so sánh.
Cấu trúc của các copolymer ghép Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 được xác
định bằng quang phổ hồng ngoại FT-IR, phổ cộng hưởng từ hạt nhân 1H-NMR, TGA,
TEM và giá trị CMC.
3.2.1. Kết quả xác định thành phần, cấu trúc các copolymer Hep-F127, Hep-
F87 và Hep-F68
Để tổng hợp Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 cần phải hoạt hóa hai nhóm -
OH cuối của pluronic F127, F87, F68 bởi pnitrophenyl chloroformate tạo sản phẩm
trung gian NPC-F127-NPC, NPC-F87-NPC, NPC-F68-NPC.
Phản ứng tạo liên kết urethane từ nhóm –NH2 trên phân tử 3-aminopropanol
với nhóm C=O của sản phẩm trung gian NPC-F127-NPC, NPC-F87-NPC, NPC-F68-
NPC tạo sản phẩm NPC-F127-Ami, NPC-F87-Ami, NPC-F68-Ami.
Sau cùng nhóm -NH2 trên phân tử Hep-DAB sẽ tấn công vào liên kết -C=O
của hợp chất NPC-F127-Ami, NPC-F87-Ami, NPC-F68-Ami bằng phản ứng
urethane tạo sản phẩm Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68.
3.2.1.1. Kết quả phân tích phổ FT-IR và 1H-NMR của sản phẩm trung gian NPC-
F127-NPC, NPC-F127-Ami, NPC-F87-NPC, NPC-F87-Ami, NPC-F68-NPC, NPC-
F68-Ami
79
Thành phần, cấu trúc các sản phẩm trung gian NPC-F127-NPC, NPC-F127-
Ami, NPC-F87-NPC, NPC-F87-Ami, NPC-F68-NPC, NPC-F68-Ami được xác định
bằng quang phổ hồng ngoại FT-IR và phổ cộng hưởng từ hạt nhân 1H-NMR.
Kết quả phân tích phổ FT-IR của các sản phẩm NPC-F127-NPC, NPC-F127-
Ami, NPC-F87-NPC, NPC-F87-Ami, NPC-F68-NPC, NPC-F68-Ami cho kết quả
tương tự phổ FT-IR của NPC-P123-NPC và NPC-P123-Ami được thể hiện ở phụ lục
2, 3, 4.
Thành phần, cấu trúc của các sản phẩm NPC-F127-NPC, NPC-F87-NPC,
NPC-F68-NPC được xác định bằng phổ cộng hưởng từ hạt nhân cũng cho kết quả
tương tự với kết quả phổ cộng hưởng từ hạt nhân của NPC-P123-NPC được thể hiện
ở phụ lục 5, 6, 7. Trên phổ đồ có các tín hiệu của các proton có trong pluronic F127,
F87, F68 như: dao động đặc trưng proton của nhóm methyl -CH3 trên PPO của
pluronic; dao động proton methylene –OCH2-CH2O- của PEO, hai tín hiệu đặc trưng
của proton vòng thơm nhóm (-CH=CH-) của NPC [50]. Đặc biệt, sự xuất hiện của tín
hiệu ở δH = 4,43 ppm được coi là tín hiệu pronton methylene -CH2-O-NPC liên kết
trực tiếp với nhóm carbonate trên NPC. Độ hoạt hóa của các pluronic đạt trên 90%
được tính từ tỷ lệ tích phân của proton thơm (NPC) và proton methyl (Pluronic F127)
theo công thức của Thi Bich Tram Nguyen và Ngoc Quyen Tran [117]. Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu trước [84].
Kết quả phân tích phổ cộng hưởng từ hạt nhân của các sản phẩm NPC-F127-
Ami, NPC-F87-Ami, NPC-F68-Ami cũng cho kết quả tương tự với phổ đồ của NPC-
P123-Ami được thể hiện ở phụ lục 8, 9, 10. Trên phổ đồ ngoài các tín hiệu proton đặc
trưng có trong pluronic F127, F87 và F68, có sự xuất hiện của tín hiệu proton
methylene liên kết trực tiếp với nhóm carbonate của NPC tại δH = 4,43 ppm (-CH2-
O-NPC) dịch chuyển một phần đáng kể về vùng δH = 4,22 ppm, đây là tín hiệu proton
methylene liên kết trực tiếp với nhóm carbonate của Ami (-CH2-O-Ami), do phản
ứng thay thế một gốc NPC bằng Ami. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu trước
[84]. Khoảng 50% gốc NPC đã được thay thế bởi Ami, được tính từ phép tính tỷ lệ
tích phân của proton trên NPC và proton của Ami, theo báo cáo của Thi Bich Tram
Nguyen và Ngoc Quyen Tran [117].
80
3.2.1.2. Kết quả phân tích phổ FT-IR và 1H-NMR của Hep-F127, Hep-F87 và Hep-
F68
Kết quả phổ FT-IR của các sản phẩm Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 cho kết
quả tương tự với phổ FT-IR của Hep-P123 được thể hiện ở phụ lục 11, 12, 13.
Thành phần, cấu trúc của sản phẩm Hep-F127 được xác định bằng phổ cộng
hưởng từ hạt nhân 1H-NMR cũng cho kết quả tương tự với phổ đồ của Hep-P123
được thể hiện ở phụ lục 14. Phổ 1H-NMR của Hep-F127 (500 MHz, D2O, ppm) có
các tín hiệu proton đặc trưng trên phân tử pluronic F127 và heparin. Đặc biệt, ở vùng
δH = 1,66 ppm là dao động của proton methylene ở vị trí -CH2-CH2- trên DAB và ở
δH = 3,03 ppm là dao động của proton methylene ở vị trí -CH2-NH-, cho thấy có sự
liên hợp giữa Hep-DAB và NPC-F127-Ami. Ngoài ra, trên phổ không còn xuất hiện
2 tín hiệu của proton thơm của NPC (-CH=CH-) và tín hiệu proton methylene liên
kết trực tiếp với nhóm carbonate của NPC cũng đã biến mất, chỉ còn tín hiệu proton
methylene tại vị trí liên hợp với Ami (-CH2-O-Ami) ở vùng δH = 4,22 ppm, chứng tỏ
rằng 100% NPC đã bị loại bỏ trong quá trình hình thành Hep-F127 bằng phản ứng
nối giữa Hep-DAB và NPC-F127-Ami.
Dữ liệu phổ 1H-NMR theo phụ lục 14 được thống kê qua bảng 3.8.
Bảng 3.8. Kết quả phổ 1H-NMR của NPC-F127-Ami, Hep-DAB và Hep-F127
Vị trí
H H của nhóm
Độ dịch chuyển hóa học (δ, ppm)
NPC-F127-Ami Hep-DAB Hep-F127
a -CH3 (PPO) 1,12-1,13 1,08
b -OCH2-CH2O- (PEO) 3,60-3,64 3,67
c, d -CH=CH- (vòng thơm) 7,38-7,40 và
8,25-8,28
e -CH2-O-NPC 4,43
f -CH2-O-Ami 4,22 4,22
i -CH2-CH2- (DAB) 1,70-1,74 1,66
j -CH2-NH- 3,11-3,22 3,03
Qua bảng tổng kết dữ liệu phổ của sản phẩm Hep-F127 được tổng hợp từ NPC-
F127-Ami và Hep-DAB ở bảng 3.8, cho thấy có sự lặp lại các tín hiệu proton đặc
trưng trên phân tử F127 ở vị trí a, b và trên phân tử heparin ở vị trí i, j. Phản ứng nối
81
thành công giữa Hep-DAB và NPC-F127-Ami dẫn đến sự mất hoàn toàn tín hiệu
proton ở vị trí c, d, e, chỉ còn lại tín hiệu tại vị trí f.
Phổ 1H-NMR của Hep-F87 và Hep-F68 được thể hiện ở phụ lục 15, 16 cũng
cho kết quả tương tự như ở phổ 1H-NMR của Hep-F127.
3.2.1.3. Kết quả phân tích TGA của Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68
Sự ổn định nhiệt của các copolymer ghép Hep-F127, Hep-F87, Hep-F68 cùng
với heparin và các pluronic F127, F87, F68 được phân tích bằng phép đo TGA để
nghiên cứu đặc tính nhiệt của các thành phần có trong copolymer ghép. Mẫu được sử
dụng trong 10 mg mẫu, ở nhiệt độ 25oC - 700oC với tốc độ 10oC/phút, dưới điều kiện
khí nitrogen.
Hình 3.17. Kết quả TGA của F127, F87, F68, heparin và copolymer ghép
Hình 3.17 cho thấy giản đồ TGA của cả 3 pluronic F127, F87 và F68 đều ổn
định ở nhiệt độ lên đến 320oC và bắt đầu bị phân hủy ở nhiệt độ 350oC, và tổng khối
lượng sẽ bị mất hoàn toàn ở nhiệt độ trên 420oC. Heparin ổn định ở nhiệt độ trên
200oC và bị phân hủy nhanh ở nhiệt độ 250oC. Ở nhiệt độ trên 400oC quá trình phân
hủy diễn ra chậm dần [118].
82
Giản đồ TGA của của các copolymer ghép Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68
đặc trưng chứa cả sự phân hủy của pluronic F127, F87, F68 và heparin. Các
copolymer ghép Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 bị phân hủy phần lớn khối lượng
từ 250oC đến 420oC. Tuy nhiên, từ giản đồ cho thấy vẫn còn một lượng nhỏ chưa bị
phân hủy ở nhiệt độ từ 420oC, tại nhiệt độ mà pluronic đã bị phân hủy hoàn toàn. Kết
quả được cho là có sự hiện diện của heparin trong các copolymer ghép.
Từ kết quả giản đồ TGA ở hình 3.16 cho thấy khối lượng dư còn lại của các
copolymer ghép ở nhiệt độ trên 420oC lần lượt là: 8,84% (Hep-F127 (1:3)); 4,04%
(Hep-F127 (1:3)); 12,97% (Hep-F87 (1:3)); 1,41% (Hep-F87 (1:14)); 11,00% (Hep-
F68 (1:3)); 3,12% (Hep-F68 (1:14)). Trong đó các copolymer ghép Hep-F127, Hep-
F87 và Hep-F68 ở tỉ lệ ghép 1:3 có phần trăm khối lượng dư còn lại cao hơn so với
tỉ lệ ghép 1:14. Sự gia tăng phần trăm khối lượng dư còn lại này phù hợp với sự hiện
diện tương ứng của heparin và pluronic có trong các copolymer Hep-F127, Hep-F87
và Hep-F68 theo các tỉ lệ ghép.
Dựa trên tỉ lệ phần trăm khối lượng mất của heparin tinh khiết và phần trăm
khối lượng còn lại của nó trong Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 ở 420oC, ta có thể
tính được phần trăm khối lượng pluronic F127, F87 và F68 được ghép vào heparin
theo báo cáo của Hongliang Kang [121]. Kết quả được cho ở bảng 3.9.
Bảng 3.9. Phần trăm khối lượng pluronic được ghép vào heparin
Mẫu Pluronic F127
(%)
Pluronic F87
(%)
Pluronic F68
(%)
Hep-F127 (1:3) 66,12 - -
Hep-F127 (1:14) 81,25 - -
Hep-F87 (1:3) - 48,49 -
Hep-F87 (1:14 - 74,30 -
Hep-F68 (1:3) - - 41,95
Hep-F68 (1:14) - - 75,94
3.2.1.4. Kết quả phân tích giá trị CMC của Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68
Các copolymer lưỡng tính F127, F87 và F68 với cấu trúc khối PPO kỵ nước
và khối PEO ưa nước nên có thể dễ dàng hình thành micelle trong dung dịch nước.
Sử dụng iodine và phương pháp quang phổ UV-Vis để xác định sự hình thành nanogel
83
của các copolymer ghép Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 thông qua giá trị nồng độ
tạo micelle tới hạn (CMC) trong nước DI. Sự hình thành micelle nhờ vào tương tác
kỵ nước có giá trị trong việc cân bằng sự ổn định và giải phóng thuốc của nanogel.
Mối liên quan giữa giá trị CMC và hiệu quả mang thuốc kỵ nước của micelle hoặc
nanogel đã được công bố trong các báo cáo trước [142-144].
Hình 3.18. Kết quả đo CMC của các pluronic F127, F87 và F68
84
Hình 3.19. Kết quả CMC các copolymer Hep-F127, Hep-F87, Hep-F68
Ở hình 3.19 cho kết quả cường độ hấp thụ của iodine bắt đầu tăng đáng kể ở
giá trị nồng độ các copolymer ghép Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 từ 0,046 - 0,34
(%wt), chỉ ra rằng các phân tử iodine bắt đầu hòa tan trong vùng kỵ nước PPO của
các pluronic F127, F87 và F68. Điều này cho thấy, ở nồng độ này các copolymer
ghép Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 đã tự lắp ráp để hình thành mạng lưới polymer
liên kết ngang dưới dạng một nanogel có thể hoạt động như chất mang thuốc kỵ nước
tương tự như nanogel Hep-P123.
Giá trị CMC của các nanogel Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 đo được cũng
lớn hơn so với giá trị CMC của dung dịch pluronic tinh khiết F127, F87 và F68 tương
ứng (hình 3.18). Đồng thời tỉ lệ chiều dài chuỗi ưa nước và kỵ nước trong cấu trúc
của copolymer ghép cũng liên quan đến giá trị CMC, khi chiều dài chuỗi kỵ nước
càng tăng thì giá trị CMC sẽ càng giảm, trong đó chiều dài khối PPOF127 = 65 (PEO100-
PPO65-PEO100) > PPOF87 = 40 (PEO61-PPO40-PEO61) > PPOF68 = 29 (PEO76-PPO29-
PEO76), cấu trúc của copolymer Hep-F127 có chiều dài chuỗi PPO kỵ nước của
pluronic F127 lớn nhất dẫn đến làm tăng tương tác kỵ nước trong cấu trúc của
copolymer ghép, và kết quả làm cho giá trị CMC càng giảm [122, 145-147].
3.2.1.5. Kết quả phân tích TEM của Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68
Hình thái và sự phân bố kích thước của các nanogel Hep-F127, Hep-F87 và
Hep-F68 có thể được quan sát bởi kính hiển vi điện tử truyền qua TEM.
85
Hình 3.20. Hình thái và kích thước của các nanogel bởi TEM
(a): F127; (b): Hep-F127 (1:3); (c): Hep-F127 (1:14); (d): Hep-F87 (1:3);
(e): Hep-F87 (1:14); (f): Hep-F68 (1:3); (g): Hep-F68 (1:14)
Kết quả kích thước của các nanogel Hep-F127, Hep-F87, Hep-F68 ở hình 3.20
được thống kê qua bảng 3.9.
Bảng 3.10. Kích thước của các nanogel Hep-F127, Hep-F87, Hep-F68
Tỉ lệ ghép
(mmol/mmol)
Hep-F127
(nm)
Hep-F87
(nm)
Hep-F68
(nm)
1:3 130-170 110-230 100-150
1:4 110-185 219-367 124-177
Kết quả TEM ở hình 3.20 cho thấy kích thước của pluronic F127 là 15 nm (a),
trong khi đó, kích thước của các nanogel Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 từ 100 nm
-367 nm (bảng 3.10 và hình 3.20) lớn hơn so với kích thước của micelle pluronic
F127. Kết quả chỉ ra rằng khi các chân pluronic được ghép vào heparin, ở nồng độ
86
CMC các copolymer tự lắp ráp để hình thành nanogel với cấu trúc mạng lưới bên
trong có sự tập hợp sắp xếp không đồng đều của nhiều chuỗi polymer, dẫn đến vùng
cấu trúc không gian bên trong lớn hơn và có kích thước lớn hơn.
Kết quả hình 3.20 còn cho thấy các hạt nanogel Hep-F127, Hep-F87 và Hep-
F68 có dạng hình cầu, kích thước hạt của các hệ nanogel Hep-F127, Hep-F87 và Hep-
F68 cũng phụ thuộc vào lượng pluronic được liên hợp. Khi lượng pluronic ghép vào
heparin càng nhiều làm kích thước hạt của các nanogel cũng tăng theo, kết quả này
tương tự với kết quả TEM của nanogel Hep-P123. Lực đẩy tĩnh điện giữa các phần
tích điện âm trên sườn heparin và pluronic dẫn đến vùng cấu trúc không gian bên
trong mạng lưới nanogel lớn, đồng thời các chân PEO (pluronic) và sườn heparin ưa
nước trong cấu trúc của nanogel thì dài, cồng kềnh, kết quả góp phần làm tăng kích
thước các nanogel khi tăng tỉ lệ ghép [129].
3.2.2. Kết quả tổng hợp nanogel Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 mang thuốc
cisplatin và cisplatin hydrate
3.2.2.1. Kết quả phân tích phổ FT-IR của Hep-F127-Cis, Hep-F127-CisOH, Hep-
F87-Cis, Hep-F87-CisOH và Hep-F68-Cis, Hep-F68-CisOH
Các copolymer Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 mang thuốc cisplatin và
cisplatin hydrate thông qua tương tác kỵ nước và sự hình thành phức giữa cisplatin
hydrate và các nhóm carboxylate/sulfate có trên sườn heparin. Trong dung dịch nước,
hệ nano mang thuốc tự lắp ráp nhờ vào tương tác kỵ nước để hình thành hệ nanogel
mang thuốc.
87
Hình 3.21. Phổ FT-IR của Hep-F127, Hep-F127-Cis, Hep-F127-CisOH
Kết quả phân tích thành phần, cấu trúc của Hep-F127-Cis và Hep-F127-CisOH
bằng phổ FT-IR ở hình 3.21 cho thấy xuất hiện đồng thời các dao động đặc trưng của
cả heparin và F127 như: tín hiệu peak 2952 cm-1 và 2874 cm-1 là dao động hóa trị -
C-H của nhóm -CH2 và -CH3 trên pluronic F127; peak 3435 cm-1 là dao động hóa trị
-OH trên phân tử heparin [31, 50, 84-85].
Tín hiệu peak 3286 cm-1 (A) là dao động hóa trị N-H của nhóm amine –NH2
trên phân tử cisplatin. Trong phổ đồ của Hep-F127-CisOH ta thấy 2 dải hấp thụ tại
nối -COO và SO2-O- có sự dịch chuyển dao động từ vùng 1632 cm-1 về vùng 1592
cm-1 và 1241 cm-1 về vùng 1253 cm-1, do sự hình thành liên kết giữa platinum
hydroxide của CisOH với các nhóm carboxylate/sulfate của Hep-F127.
Qua phổ FT-IR ở hình 3.21 chứng minh hợp chất Hep-F127-Cis và Hep-F127-
CisOH đã tổng hợp thành công.
Phổ đồ FT-IR của Hep-F87 và Hep-F68 mang Cis và CisOH cũng cho kết quả
tương tự phổ FT-IR của Hep-F127-Cis và Hep-F127-CisOH và được được thể hiện
ở phụ lục 17, 18.
3.2.2.2. Kết quả phân tích ICP-OES của Hep-F127-Cis, Hep-F127-CisOH, Hep-
F87-Cis, Hep-F87-CisOH và Hep-F68-Cis, Hep-F68-CisOH
88
Trong khảo sát thực nghiệm này, các copolymer ghép Hep-F127, Hep-F87 và
Hep-F68 được sử dụng để mang thuốc chống ung thư cisplatin và cisplatin hydrate.
Phần trăm hàm lượng cisplatin được mang vào trong hệ chất mang Hep-F127,
Hep-F87 và Hep-F68 được tính toán gián tiếp thông qua phần trăm hàm lượng
platinum (Pt) từ kết quả phân tích ICP-OES.
Cấu trúc của heparin và lượng pluronic được liên hợp ảnh hưởng đến hiệu quả
mang thuốc Cis và CisOH của các hệ chất mang. Hiệu quả mang thuốc của 6 loại chất
mang nano Hep-P123, Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 ở 2 tỉ lệ ghép 1:3 và 1:14
được thể hiện ở hình 3.22.
Hình 3.22. Hiệu quả mang Cis và CisOH của các hệ chất mang Hep-Plu
Khi lượng pluronic được ghép vào heparin càng nhiều sẽ tạo ra tương tác kỵ
nước trên phân tử Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 càng lớn làm cho kết quả mang
cisplatin cao hơn. Theo kết quả thống kê hiệu quả mang thuốc của các chất mang
nano Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 trên hình 3.22 cho thấy phần trăm cisplatin
được mang vào trong trong Hep-F127 (1:14) cao nhất chiếm 13,21%, điều này có thể
thấy rõ trong cấu trúc của các nanogel và mức độ liên hợp của heparin với các
pluronic. Mặt khác, hiệu quả mang thuốc cisplatin của các nanogel Hep-F127, Hep-
F87 và Hep-F68 cũng bị ảnh hưởng bởi giá trị HLB khác nhau của các pluronic, HLB
càng lớn thì hiệu quả mang thuốc kỵ nước càng giảm [97], cụ thể: F127 (HLB = 22)
< F87 (HLB = 24) < F68 (HLB = 29), HLB càng nhỏ tương ứng với sự tăng tương
tác kỵ nước trên chất mang Hep-F127 > Hep-F87 > Hep-F68.
89
Ngược lại, hiệu quả mang thuốc CisOH phụ thuộc vào số lượng các nhóm
anion (carboxylate/sulfate) còn lại trên mạch cấu trúc của heparin sau khi liên hợp
với pluronic, các nhóm này sẽ tạo liên kết hóa học với phần platinum hydroxide của
CisOH. Khi lượng pluronic được liên hợp vào heparin càng nhiều, tương ứng với số
lượng các nhóm anion càng giảm, kết quả làm cho sự hình thành phức càng thấp, cụ
thể: Hep-F127-CisOH (1:14) (11,41%) < Hep-F127-CisOH (1:3) (26,92%); Hep-
F87-CisOH (1:14) (10,75%) < Hep-F87-CisOH (1:3) (26,15%) và Hep-F68-CisOH
(1:14) (8,02%) < Hep-F68-CisOH (1:3) (25,07%). Kết quả này phù hợp với các
nghiên cứu trước, số lượng các nhóm anion càng lớn sẽ làm gia tăng hiệu suất mang
platinum của hệ chất mang nano [50, 83, 116].
3.3. So sánh kết quả phân tích các nanogel Hep-P123, Hep-F127, Hep-F87, và
Hep-F68 mang cisplatin và cisplatin hydrate
Các nanogel Hep-P123, Hep-F127, Hep-F87, và Hep-F68 với các tỉ lệ ghép
khác nhau sau khi được tổng hợp và xác định thành phần, cấu trúc sẽ được dùng để
đánh giá hiệu quả mang thuốc cisplatin và cisplatin hydrate.
Kết quả so sánh đặc tính cấu trúc và hiệu quả mang thuốc của các hệ nanogel
được trình bày trong bảng 3.11.
Bảng 3.8. Kết quả phân tích các hệ nanogel mang thuốc trên cơ sở heparin liên hợp
pluronic P123, F127, F87 và F68
STT
Nanogel Kết quả TEM CMC
(%wt)
Hiệu quả mang
thuốc (%)
Tên Tỉ lệ
ghép
Hình
thái
Kích thước
(nm) Cisplatin
Cisplatin
hydrate
1 Hep-
P123
1:3 Hình
cầu 45-81 0,041 8,92 30,30
2 1:14 Hình
cầu 80-153 0,028 13,29 8,44
3 Hep-
F127
1:3 Hình
cầu 130-170 0,053 8,61 26,92
4 1:14 Hình
cầu 110-185 0,046 13,21 11,41
90
5
Hep-F87
1:3 Hình
cầu 110-230 0,12 3,63 26,15
6 1:14 Hình
cầu 219-367 0,1 4,78 10,75
7
Hep-F68
1:3 Hình
cầu 100-150 0,34 2,85 25,07
8 1:14 Hình
cầu 124-177 0,21 3,98 8,52
Kết quả phân tích hình thái, kích thước của các nanogel cho thấy các hạt
nanogel có dạng hình cầu, với kích thước hạt tăng dần khi tăng tỉ lệ ghép pluronic.
Kết quả này cho thấy các nanogel có thể đáp ứng được không gian bên trong cấu trúc
vật liệu đủ lớn để có thể tăng hiệu quả mang các thuốc kỵ nước. Với kích thước trung
bình từ 45 nm đến 367 nm các hệ nano mang thuốc có thể dể dàng thâm nhập vào các
mô tế bào ung thư bằng phương pháp phân phối thuốc thụ động thông qua hiện tượng
tăng tính thấm và tăng hiệu quả lưu giữ đặc trưng ở các mô ung thư. Tại hầu hết các
mô khỏe mạnh, kích thước các khe hở lớp nội mô thành mạch máu thường nhỏ hơn
2 nm, các khe hở này quá nhỏ so với kích thước của chất mang nanogel. Còn tại mô
ung thư, do sự phát triển của các tế bào ung thư đòi hỏi sự tăng sinh mạch máu, các
vi mạch máu mới được hình thành tại các mô ung thư và có kích thước từ 100 nm -
800 nm. Do đó các hạt nanogel mang thuốc có thể vượt qua dễ dàng và đi vào mô
ung thư [38].
Các copolymer Hep-P123, Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 có thể tự lắp ráp
để hình thành nanogel trong dung dịch nước thông qua giá trị CMC đo được. Kết quả
giá trị CMC của các nanogel cho thấy phụ thuộc vào tỉ lệ chiều dài của khối ưa nước
PEO và khối kỵ nước PPO trong cấu trúc của nanogel. Khi tỉ lệ chiều dài khối kỵ
nước tăng giá trị CMC đo được càng giảm, cụ thể: PPOP123 = 70 (PEO20-PPO70-
PEO20) > PPOF127 = 65 (PEO100-PPO65-PEO100) > PPOF87 = 40 (PEO61-PPO40-PEO61)
> PPOF68 = 29 (PEO76-PPO29-PEO76), trong đó nanogel Hep-P123 có giá trị CMC đo
được nhỏ nhất. Giá trị CMC có ý nghĩa trong việc cân bằng sự ổn định và phân phối
thuốc của nanogel. Kết quả này cũng chỉ ra rằng các hệ nanogel được hình thành có
ý nghĩa trong việc sử dụng làm hệ chất mang các thuốc kỵ nước.
91
Kết quả hiệu quả mang thuốc kỵ nước cisplatin của các nanogel Hep-P123,
Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 tăng tương ứng với tăng tỉ lệ ghép pluronic. Phần
trăm cisplatin được mang vào các nanogel bị ảnh hưởng bởi tương tác kỵ nước và chỉ
số HLB của các pluronic được liên hợp. HLB càng nhỏ tương ứng với sự tăng tương
tác kỵ nước trên chất mang Hep-P123 > Hep-F127 > Hep-F87 > Hep-F68, cụ thể:
P123 (HLB = 8) < F127 (HLB = 22) < F87 (HLB = 24) < F68 (HLB = 29), kết quả
nanogel Hep-P123-Cis (1:14) có phần trăm cisplatin được mang cao nhất (13,29%)
[97].
Ngược lại, hiệu quả mang thuốc cisplatin hydrate của các nanogel Hep-P123,
Hep-F127, Hep-F87 và Hep-F68 giảm tương ứng khi tăng tỉ lệ ghép pluronic. Phần
trăm cisplatin hydrate được mang vào các nanogel phụ thuộc vào số lượng các nhóm
anion (carboxylate/sulfate) còn lại trên mạch cấu trúc của heparin sau khi liên hợp
với pluronic, các nhóm này sẽ tạo phức với phần platinum hydroxide của CisOH. Khi
lượng pluronic được liên hợp vào heparin càng nhiều, tương ứng với số lượng các
nhóm anion càng giảm, kết quả làm cho sự hình thành phức càng thấp. Đồng thời,
hiệu quả mang thuốc CisOH của các Hep-Plu còn bị ảnh hưởng bởi chiều dài của
khối PEO trong cấu trúc của pluronic. Trong đó PEOF127 = 200 (PEO100-PPO65-
PEO100) > PEOF68 = 152 (PEO76-PPO29-PEO76) > PEOF87 = 122 (PEO61-PPO40-
PEO61) > PEOP123 = 40 (PEO20-PPO70-PEO20) làm mạch cấu trúc phân tử càng dài,
càng cồng kềnh gây cản trở không gian làm ảnh hưởng khả năng tạo phức giữa CisOH
và Hep-Plu, dẫn đến Hep-P123-CisOH (1:3) có phần trăm CisOH được mang cao
nhất (30,3%).
3.4. Kết quả tổng hợp và khảo sát nanogel Fud-P123
Trên cơ sở kết quả tổng hợp và khảo sát khả năng mang, nhả thuốc của các
copolymer ghép Hep-P123 với 4 tỉ lệ ghép 1:3, 1:7, 1:10 và 1:14 (mmol/mmol), theo
đó tỉ lệ ghép 1:3 cho hiệu quả mang thuốc CisOH cao nhất, chúng tôi tiếp tục tiến
hành tổng hợp hệ nanogel Fud-P123 với tỉ lệ ghép 1:3 (mmol/mmol) và khảo sát khả
năng mang, nhả thuốc để so sánh.
Cấu trúc của copolymer ghép Fud-P123 được xác định bằng quang phổ hồng
ngoại biến đổi FT-IR, phổ cộng hưởng từ hạt nhân 1H-NMR, TGA, TEM và giá trị
CMC.
92
3.4.1. Kết quả xác định thành phần, cấu trúc copolymer Fud-P123
Trong tổng hợp copolymer Fud-P123 thành phần, cấu trúc của sản phẩm
trung gian Fud-DAB cũng được xác định qua các kết quả phân tích phổ FT-IR và 1H-
NMR.
3.4.1.1. Kết quả phân tích phổ FT-IR và 1H-NMR của sản phẩm trung gian Fud-
DAB
Sản phẩm Fud-DAB được tổng hợp từ fucoidan và 1,4-diaminbutane (DAB),
sử dụng tác chất ghép cặp EDC/NHS có dạng bột màu nâu.
a. Kết quả phân tích phổ FT-IR của Fud-DAB
Hình 3.23. Phổ FT-IR của fucoidan và Fud-DAB
Ở hình 3.23 trên phổ đồ của fucoidan có các peak dao động đặc trưng như: tín
hiệu peak ở số sóng 3439 cm-1 là dao động hóa trị -OH trên phân tử fucoidan; dao
động hóa trị -C=O của acid carboxylic xuất hiện ở số sóng 1642 cm- chỉ ra sự có mặt
của acid glucuronic trong phân tử fucoidan; các dao động hấp thụ không đối xứng và
đối xứng ở vùng số sóng 1256 cm-1 (O=S=O) và 838 cm-1 (C-O-S) cho thấy sự hiện
diện của liên kết ester sulfate. Ngoài ra còn có dao động hóa trị của liên kết C-O-C
trên vòng saccharide của fucoidan tại vùng số sóng 1047 cm-1 [104, 107].
93
Khi DAB gắn lên fucoidan trên phổ đồ FT-IR của Fud-DAB ở hình 3.23 ta
thấy xuất hiện 2 tín hiệu mới, peak tại số sóng 3097 cm-1 (A) là dao động hóa trị liên
kết N-H của nhóm amine -NH2 trên phân tử DAB không liên kết với fucoidan. Đồng
thời, có sự xuất hiện dãi hấp thụ ở tần số thấp 1469 cm-1; 1449 cm-1 (B) là dao động
-NH do sự hình thành liên kết amide (-NH-CO) sau khi DAB liên hợp với nhóm -
COO trên fucoidan, điều này chứng tỏ đã tổng hợp thành công sản phẩm Fud-DAB.
b. Kết quả phân tích 1H-NMR của Fud-DAB
Hình 3.24. Phổ 1H-NMR của Fud-DAB
Kết quả phân tích thành phần, cấu trúc Fud-DAB được thể hiện qua phổ 1H-
NMR (500 MHz, D2O, ppm) ở hình 3.24. Phổ đồ xuất hiện các tín hiệu proton trên
phân tử fucoidan như: các tín hiệu trong vùng δH = 3,71-5,44 ppm thuộc về proton
trên phân tử fucoidan, ở δH = 1,04-1,28 ppm đặc trưng cho proton -CH3 của nhóm O-
acetyl (CH3CO), kết quả này cho thấy trong phân tử fucoidan có tồn tại gốc acetyl.
Sự kết hợp giữa fucoidan và DAB cho thấy trên phổ 1H-NMR của sản phẩm
Fud-DAB xuất hiện tín hiệu dao động đặc trưng ở vùng trường cao δH =1,67-1,75
ppm (i) đặc trưng cho proton methylene -CH2-CH2- trên dây DAB và tín hiệu proton
ở vùng từ δH = 3,04 ppm (j) thuộc về proton methylene -CH2-N, đây được xem là tín
hiệu tại vị trí mà nhóm amine trên DAB liên kết với nhóm carboxylate trên fucoidan
94
để hình thành liên kết amide. Từ kết quả phổ FT-IR và 1H-NMR cho thấy đã tổng
hợp thành công Fud-DAB.
3.4.1.2. Kết quả phân tích phổ FT-IR và 1H-NMR của Fud-P123
Copolymer Fud-P123 được tổng hợp bằng phản ứng ghép giữa Fud-DAB và
NPC-P123-Ami. Trong giai đoạn phản ứng này, nhóm -NH2 trên phân tử Fud-DAB
sẽ tấn công vào liên kết -C=O của hợp chất NPC-P123-Ami tạo sản phẩm Fud-P123.
Sản phẩm Fud-P123 có dạng hồ keo màu nâu.
a. Kết quả phân tích FT-IR của Fud-P123
Hình 3.25. Phổ FT-IR của Fud-DAB, NPC-P123-Ami và Fud-P123
Từ kết quả phổ FT-IR của Fud-P123 ở hình 3.25 ta thấy xuất hiện đồng thời
các dao động đặc trưng của cả fucoidan và P123 như: tín hiệu peak 2972 cm-1 đến
2887 cm-1 là dao động hóa trị -CH của nhóm -CH2 và -CH3 trên pluronic P123; peak
1108 cm-1 là dao động hóa trị đối xứng C-O-C trên pluronic P123; peak 3425 cm-1
là dao động hóa trị -OH trên phân tử fucoidan; peak 1255 cm-1 là dao động hóa trị đối
xứng O=S=O của nhóm sulfate trên fucoidan [104, 107].
Đặc biệt, ở đây ta thấy có sự dịch chuyển peak dao động từ vùng số sóng
1769,49 cm-1 vể vùng số sóng 1644 cm-1, đây chính là dao động của nhóm -COO, do
phản ứng hình thành liên kết urethane (-NHCOO-) bởi sự thay thế gốc NPC (p-
95
nitrophenyl chloroformate) trên NPC-P123-Ami bằng liên kết urethane với các nhóm
carboxylate trên phân tử fucoidan. Đồng thời dao động của nối -NO2 trong phân tử
NPC tại số sóng 1593 cm-1 trên phổ đồ NPC-P123-Ami cũng đã không còn xuất hiện
trong phổ đồ Fud-P123.
Dữ liệu phổ FT-IR của sản phẩm NPC-P123-Ami, Fud-DAB và Fud-P123
được thống kê qua bảng 3.12.
Bảng 3.12. Kết quả phổ FT-IR của NPC-P123-Ami, Fud-DAB, Fud-DAB
Vị trí Nhóm chức Số sóng (cm-1)
NPC-P123-Ami Fud-DAB Fud-P123
a -OH (Fud) 3425 3425
b O=S=O (Fud) 1255 1255
c -CH (-CH2 và -CH3) 2972-2887 2972-2887
d C-O-C (P123) 1108 1108
e -NO2 (NPC) 1593
f -COO-NPC 1769
g -NHCOO- 1644
Qua bảng 3.12, tổng kết dữ liệu phổ của các chất có sự lặp lại các tín hiệu dao
động đặc trưng trên phân tử fucoidan ở vị trí a, b và trên phân tử P123 ở vị trí c, d
luôn xuất hiện trong phổ đồ của phân tử Fud-P123 sau khi tổng hợp. Sự dịch chuyển
tín hiệu dao động ở vị trí f về vị trí g cho thấy sự hình thành liên kết urethane từ phản
ứng giữa Fud-DAB và NPC-P123-Ami, và đi theo là sự biến mất của tín hiệu e.
b. Kết quả phân tích 1H-NMR của Fud-P123
Kết quả phân tích cấu trúc của Fud-P123 được thể hiện qua phổ 1H-NMR (500
MHz, D2O, ppm) ở hình 3.26.
96
Hình 3.26. Phổ 1H-NMR của Fud-P123
Phổ đồ xuất hiện các tín hiệu proton đặc trưng trên phân tử P123 như: δH =
1,10 ppm là dao động đặc trưng proton của nhóm methyl -CH3 (a) trên PPO của P123;
δH = 3,63-3,67 ppm là dao động proton methylene -OCH2-CH2O- (b) của PEO. Các
tín hiệu proton tại δH = 3,71-5,44 ppm thuộc về proton trên phân tử fucoidan, tuy
nhiên vẫn chưa quan sát rõ.
Đặc biệt, ở δH = 1,74 ppm (i) là dao động của proton methylene ở vị trí -CH2-
CH2- trên DAB và ở δH = 3,04 ppm là dao động của proton methylene ở vị trí -CH2-
NH- (j), cho thấy có sự liên hợp giữa Hep-DAB và NPC-P123-Ami. Ngoài ra, trên
phổ không còn xuất hiện các tín hiệu của proton thơm của NPC (-CH=CH-) ở δH =
7,38-7,40 ppm và δH = 8,27-8,28 ppm và tín hiệu proton methylene liên kết trực tiếp
với nhóm carbonate của NPC tại δH = 4,43 ppm (-CH2-O-NPC) đã biến mất, chỉ còn
tín hiệu tại δH = 4,22 ppm (f) đây là tín hiệu proton methylene tại vị trí liên hợp với
Ami (-CH2-O-Ami), chứng tỏ rằng 100% NPC đã bị loại bỏ trong quá trình hình thành
Fud-P123 bằng phản ứng nối giữa Fud-DAB và NPC-P123-Ami.
Dữ liệu phổ 1H-NMR của NPC-P123-Ami, Fud-DAB và Fud-P123 được
thống kê qua bảng 3.13.
97
Bảng 3.13. Kết quả phân tích 1H-NMR của NPC-P123-Ami, Fud-DAB, Fud-P123
Vị trí
H
H của nhóm Độ dịch chuyển hóa học (δ, ppm)
NPC-P123-Ami Fud-DAB Fud-P123
a -CH3 (PPO) 1,12-1,14 1,10
b -OCH2-CH2O- (PEO) 3,61-3,63 3,63-3,67
c, d -CH=CH- (vòng thơm) 7,38-7,40
và 8,27-8,28
e -CH2-O-NPC 4,43
f -CH2-O-Ami 4,22 4,22
i –CH2-CH2- (DAB) 1,67-1,75 1,74
j -CH2-NH- 3,04 3,04
Qua bảng tổng kết dữ liệu phổ của sản phẩm Fud-P123 được tổng hợp từ NPC-
P123-Ami và Fud-DAB ở bảng 3.13, cho thấy có sự lặp lại các tín hiệu proton đặc
trưng trên phân tử P123 ở vị trí a, b. Phản ứng nối thành công giữa Fud-DAB và NPC-
P123-Ami dẫn đến sự mất hoàn toàn tín hiệu proton ở vị trí c, d, e, chỉ còn lại tín hiệu
tại vị trí f. Từ kết quả phổ FT-IR và phổ 1H-NMR cho thấy đã tổng hợp thành công
Fud-P123.
3.4.1.3. Kết quả phân tích TGA của Fud-P123
Sự ổn định nhiệt của copolymer ghép Fud-P123 cùng với fucoidan và pluronic
P123 được phân tích bằng phép đo TGA để phân tích đặc tính nhiệt của các sản phẩm.
Mẫu được sử dụng trong 10 mg mẫu, ở nhiệt độ 25oC - 700oC với tốc độ 10oC/phút,
dưới điều kiện khí nitrogen.
Hình 3.27. Kết quả TGA của P123, fucoidan và Fud-P123
98
Hình 3.27 cho thấy giản đồ TGA của fucoidan có sự phân hủy nhẹ với khối
lượng mất khoảng 5% ở 200oC. Fucoidan bắt đầu bị phân hủy nhanh ở nhiệt độ từ
200oC, do sự phá vỡ các liên kết glycosid. Ở nhiệt độ trên 400oC quá trình phân hủy
diễn ra chậm dần [148-149] và khối lượng dư còn lại là 38,23% tại nhiệt độ 420oC.
Trong khi đó, pluronic P123 ổn định ở nhiệt độ lên đến 320oC và bắt đầu bị phân hủy
ở nhiệt độ 350oC, tổng khối lượng sẽ bị mất hoàn toàn ở nhiệt độ trên 420oC [150-
152].
Giản đồ TGA của copolymer ghép Fud-P123 đặc trưng chứa cả sự phân hủy
của pluronic P123 và fucoidan. Một lượng khoảng 7% khối lượng copolymer ghép
Fud-P123 mất ở nhiệt độ 170oC và bị phân hủy nhanh và mất phần lớn khối lượng
trong khoảng từ 200oC đến 420oC . Tuy nhiên, từ giản đồ cho thấy vẫn còn một lượng
Fud-P123 chưa bị phân hủy ở nhiệt độ trên 420oC, tại nhiệt độ mà pluronic P123 đã
bị phân hủy hoàn toàn. Kết quả được cho là do có sự hiện diện của fucoidan trong
copolymer ghép. Từ kết quả giản đồ TGA cho thấy khối lượng dư còn lại của
copolymer Fud-P123 ở nhiệt độ 420oC là 12,96%.
Dựa trên tỉ lệ phần trăm khối lượng mất của fucoidan tinh khiết và phần trăm
khối lượng còn lại của nó trong Fud-P123 ở 420oC, ta có thể tính được phần trăm
khối lượng pluronic P123 được ghép vào fucoidan là 68,36%, theo báo cáo của
Hongliang Kang [121].
3.4.1.4. Kết quả phân tích giá trị CMC của Fud-P123
Sử dụng iodine và phương pháp quang phổ UV-Vis để xác định sự hình thành
nanogel của copolymer ghép Fud-P123 thông qua giá trị nồng độ tạo micelle tới hạn
(CMC) trong nước DI.
Hình 3.28. Kết quả CMC của Fud-P123
99
Ở hình 3.28 cho kết quả giá trị CMC của Fud-P123 là 0,025 (%wt), chỉ ra rằng
các phân tử iodine bắt đầu hòa tan trong vùng kỵ nước PPO của các pluronic P123
trong copolymer Fud-P123. Điều này cho thấy, ở nồng độ này copolymer ghép Fud-
P123 đã tự lắp ráp để hình thành mạng lưới polymer liên kết ngang dưới dạng một
nanogel có thể hoạt động như chất mang thuốc kỵ nước tương tự như nanogel Hep-
P123.
Giá trị CMC của copolymer ghép Fud-P123 đo được ở hình 3.28 cũng lớn
hơn so với giá trị CMC của P123 tinh khiết là 0,0028 %wt. Kết quả này chỉ ra rằng
fucoidan khi được ghép vào P123 sẽ làm tăng phần ưa nước của polymer dẫn đến làm
tăng giá trị CMC của dung dịch mẫu.
3.4.1.5. Kết quả phân tích TEM và DLS của Fud-P123
Hình thái và sự phân bố kích thước của nanogel Fud-P123 có thể được quan
sát thấy rõ bởi kính hiển vi điện tử truyền qua TEM và phương pháp đo phân tán động
học bằng laser DLS.
Hình 3.29. Kết quả TEM và DLS của Fud-P123
Hình thái và kích thước của mẫu nanogel được quan sát bởi TEM và DLS ở
hình 3.29 cho thấy các hạt có dạng hình cầu với đường kính sắp xếp trong khoảng
40-61 nm theo TEM và sự phân bố kích thước hạt trung bình 62,96 nm đo bằng DLS
ở 25oC. Kết quả này cho thấy kích thước hạt nanogel Fud-P123 lớn hơn so với kích
thước của micelle pluronic P123 tinh khiết (5-10 nm), chỉ ra rằng khi các chân P123
được ghép vào fucoidan, ở nồng độ CMC các copolymer tự lắp ráp để hình thành
nanogel. Ngoài ra, một phần là do pluronic P123 có sự tích điện âm nhẹ, trong cấu
100
trúc của nanogel Fud-P123 với sườn fucoidan có chứa số lượng các nhóm anion
sulfate âm điện cao (-77 mV) [55], vì vậy có thể tạo ra lực tương tác đẩy giữa các
nhóm tích điện âm, dẫn đến vùng cấu trúc không gian bên trong mạng lưới nanogel
lớn hơn, dẫn đến kích thước hạt lớn hơn so với micelle P123.
3.4.2. Kết quả tổng hợp nanogel Fud-P123 mang thuốc cisplatin và cisplatin
hydrate
3.4.2.1. Kết quả phân tích phổ FT-IR của Fud-P123-Cis và Fud-P123-CisOH
Copolymer Fud-P123 mang cisplatin và cisplatin hydrate thông qua tương tác
kỵ nước và sự hình thành phức giữa cisplatin hydrate và các nhóm carboxylate/sulfate
có trên sườn fucoidan. Trong dung dịch nước, hệ nano mang thuốc tự lắp ráp nhờ vào
tương tác kỵ nước để hình thành hệ nanogel mang thuốc.
Hình 3.30. Phổ FT-IR của Fud-P123, Fud-P123-Cis và Fud-P123-CisOH
Trên phổ FT-IR của Fud-P123-Cis và Fud-P123-CisOH ở hình 3.30 ta thấy
xuất hiện đồng thời các dao động đặc trưng của cả fucoidan và P123 như: tín hiệu
peak 2972 cm-1-2887 cm-1 là dao động hóa trị -CH của nhóm -CH2 và -CH3 trên
pluronic P123; peak 1108 cm-1 là dao động hóa trị đối xứng C-O-C trên pluronic
101
P123; peak 3425 cm-1 là dao động hóa trị -OH trên phân tử fucoidan; peak 1253 cm-
1 là dao động hóa trị đối xứng O=S=O của nhóm sulfate trên fucoidan [104, 107].
Tín hiệu peak 3288 cm-1 và 3281 cm-1 ở vị trí A là dao động hóa trị liên kết N-
H của nhóm amine –NH2 trên phân tử cisplatin. Trong phổ đồ của Fud-P123-CisOH
ở hình 3.30 ta thấy 2 dải hấp thụ tại nối –COO (B) và –SO2-O (C) có sự dịch chuyển
dao động về vùng 1637 cm-1 và 1295 cm-1, kết quả này là do có sự hình thành phức
giữa phần platinum hydroxide của CisOH với các nhóm carboxylate và sulfate của
Fud-P123. Qua phổ FT-IR ở hình 3.30 chứng minh hợp chất Fud-P123-Cis và Fud-
P123-CisOH đã tổng hợp thành công.
Dữ liệu phổ FT-IR của Fud-P123; Fud-P123-Cis và Fud-P123-CisOH được
thống kê qua bảng 3.1.4
Bảng 3.14. Kết quả phổ FT-IR của Fud-P123; Fud-P123-Cis; Fud-P123-CisOH
Vị trí Nhóm chức Số sóng (cm-1)
Fud-P123 Fud-P123-Cis Fud-P123-CisOH
a -OH 3425 3425 3425
b O=S=O (Fud) 1255 1253 1253
c -CH (-CH2 và -CH3) 2972-2887 2972-2887
d C-O-C (P123) 1108 1108
A -NH2 (Cis) 3288 3281
B -C=O (phức) 1637
C -SO2-O (phức) 1295
Qua bảng tổng kết dữ liệu phổ của các chất ở bảng 3.14, có sự lặp lại các tín
hiệu dao động đặc trưng trên phân tử fucoidan ở vị trí a, b và trên phân tử P123 ở vị
trí c, d luôn xuất hiện trong phân tử Fud-P123-Cis và Fud-P123-CisOH sau khi tổng
hợp. Trong phổ đồ của Fud-P123-CisOH xuất hiện các dao động hấp thụ mới ở vị trí
A, B, C chứng tỏ có sự tạo phức của CisOH và nhóm carboxylate, sunfate trên
fucoidan. Trong khi phổ đồ của Fud-P123-Cis chỉ xuất hiện tín hiệu dao động tại vị
trí A. Qua phổ FT-IR chứng minh hợp chất Fud-P123-Cis và Fud-P123-CisOH đã
tổng hợp thành công.
102
3.4.2.2. Kết quả phân tích ICP-OES của Fud-P123-Cis và Fud-P123-CisOH
Trong khảo sát thực nghiệm này, copolymer ghép Fud-P123 được sử dụng để
mang thuốc chống ung thư cisplatin và cisplatin hydrate. Phần trăm hàm lượng
cisplatin được mang vào trong hệ chất mang Fud-P123 được tính toán gián tiếp thông
qua phần trăm hàm lượng platinum (Pt) từ kết quả phân tích ICP-OES.
Kết quả phần trăm hàm lượng thuốc được mang vào trong các hệ chất mang
Fud-P123 được tính theo %Pt chỉ ra ở bảng 3.15.
Bảng 3.15. Hiệu quả mang thuốc Cis và CisOH của hệ nano Fud-P123
Tên Cis CisOH
% Pt (w/w) % Cis (w/w) % Pt (w/w) % Cis (w/w)
Fud-P123 (1:3) 5,63 8,66 14,30 22,00
Kết quả ở bảng 3.15 cho thấy phần trăm CisOH được mang vào nanogel Fud-
P123 cao hơn so với Cis, cụ thể: Fud-P123-Cis (8,66%) < Fud-P123-CisOH (22%).
Kết quả này cũng tương tự với kết quả mang thuốc của hệ chất mang Hep-P123. Hiệu
quả mang thuốc của hệ nanogel Fud-P123 sẽ phụ thuộc vào cấu trúc fucoidan và
lượng P123 được liên hợp.
3.4.3. Kết quả quả đánh giá khả năng nhả thuốc của Fud-P123
Từ kết quả khảo sát thực nghiệm khả năng mang thuốc của nanogel Fud-P123,
chúng tôi tiếp tục tiến hành khảo sát khả năng nhả thuốc cisplatin hydrate của Fud-
P123. Kết quả khảo sát khả năng nhả thuốc chống ung thư cisplatin hydrate của Fud-
P123 được xác định bằng phương pháp đo ICP-OES.
Hình 3.31. Sự giải phóng CisOH từ nanogel Fud-P123 ở pH 5,5 và 7,4
103
Kết quả ở hình 3.31 cho thấy dưới 50% (v/v) CisOH được giải phóng sau 24
giờ trong cả 2 điều kiện pH. Trong đó sự giải phóng CisOH ở pH 5,5 (43,27 ± 2,1%)
thì cao hơn ở pH 7,4 (35,35 ± 2,3%) sau 24 giờ. Kết quả này chỉ ra rằng khi giá trị
pH của dung dịch đệm tăng lên, tốc độ giải phóng thuốc giảm, thuốc được giải phóng
nhanh trong môi trường acid.
Kết quả ở hình 3.31 còn cho thấy phần trăm CisOH cao nhất được giải phóng
từ nanogel Fud-P123 chỉ gần 43%, cho thấy sự giải phóng thuốc diễn ra không hoàn
toàn sau 24 giờ. Điều này có thể là do các nhóm anion trên sườn fucoidan sẽ tạo thành
các phức liên kết mạnh với cisplatin, mặt khác trong cấu trúc của fucoidan có chứa
nhiều nhóm -CH3, góp phần làm tăng tương tác kỵ nước giúp cho mạng lưới hệ chất
mang chặt chẽ hơn nên giữ chặt được thuốc hơn và kết quả làm cho tốc độ nhả
platinum chậm hơn.
3.4.4. Kết quả độc tính tế bào (trên dòng tế bào MCF-7 và nguyên bào sợi)
Tính tương hợp sinh học của hệ chất mang nano Fud-P123 được đánh giá trên
cơ sở thử nghiệm hoạt tính gây độc trên nguyên bào sợi và độc tính tế bào trên dòng
tế bào MCF-7 của chất mang Fud-P123 mang cisplatin và cisplatin hydrate.
Kết quả khảo sát tính tương hợp sinh học trên cơ sở độc tính tế bào của chất
mang Fud-P123 bằng phương pháp nhuộm SRB trên nguyên bào sợi ở bảng 3.16 cho
thấy ở nồng độ 100 µg/mL, sau 48 giờ có tỉ lệ sống của tế bào trên 80%. Dựa trên
tiêu chuẩn ISO 10993-5, 1999 (vật liệu không độc đối với tế bào khi tại các nồng độ
pha loãng dung dịch chiết mẫu tỉ lệ tế bào sống đều cao hơn 70%), cho thấy chất
mang Fud-P123 có tính tương hợp sinh học và không độc đối với tế bào.
Bảng 3.16. Phần trăm gây độc tế bào trên nguyên bào sợi (%)
Mẫu Phần trăm gây độc tế bào trên nguyên bào sợi (%)
Lần 1 Lần 2 Lần 3 TB ± ĐLC
Fud-P123 17,02 17,48 17,25 17,25 ± 0,02
Kết quả độc tế bào trên dòng tế bào ung thư vú MCF-7 của hệ chất mang thuốc
Fud-P123-Cis và Fud-P123-CisOH được thực hiện bằng phương pháp nhuộm SRB ở
hình 3.32. Kết quả sau 48 giờ cho thấy nanogel Fud-P123 mang thuốc thể hiện khả
năng ức chế dòng tế bào ung thư vú người MCF-7, tại nồng độ 50 μg/ml hệ chất mang
Fud-P123 mang cisplatin hydrate (Fud-P123-CisOH) có phần trăm gây độc tế bào là
104
73,28±3,36% cao hơn so với Hep-P123 mang cisplatin (Fud-P123-Cis) là
60,86±3,01%. Kết quả trên chỉ ra rằng khi sử dụng cisplatin dưới dạng hydrate có thể
giúp tăng hiệu quả mang thuốc của hệ nano Fud-P123, từ đó làm tăng đáng kể khả
năng gây độc tế bào MCF-7 của hệ nanogel mang thuốc. Kết quả này phù hợp với giá
trị IC50 đo được của Fud-P123-Cis là 20,51 ± 1,63 µg/mL thì nhỏ hơn so với Fud-
P123-Cis là 30,28 ± 1,03 µg/mL.
Hình 3.32. Độc tính tế bào MCF-7 của Fud-P123-Cis và Fud-P123-CisOH
3.5. So sánh kết quả phân tích của nanogel Hep-P123 và Fud-P123 mang
cisplatin và cisplatin hydrate
Các nanogel Hep-P123 và Fud-P123 ở tỉ lệ ghép 1:3 sau khi được tổng hợp và
xác định thành phần, cấu trúc sẽ được dùng để đánh giá hiệu quả mang thuốc cisplatin
và cisplatin hydrate.
Kết quả so sánh đặc tính cấu trúc, độc tính tế bào, hiệu quả mang thuốc và
phần trăm thuốc được giải phóng của các hệ nanogel được trình bày trong bảng 3.17.
105
Bảng 3.17. Kết quả phân tích hệ nanogel Hep-P123 và Fud-P123 mang thuốc
Nanogel Kết quả TEM
CMC
(%wt)
Tính
tương
hợp
sinh
học
% thuốc
được mang
% CisOH giải
phóng sau 24
giờ
Tên Hình
thái
Kích
thước
(nm)
Cis CisOH pH 5,5 pH 7,4
Hep-P123
(1:3)
Hình
cầu 45-81 0,041
Tương
hợp
sinh
học
8,92 30,30 74,93 65,87
Fud-P123
(1:3)
Hình
cầu 40-61 0,025
Tương
hợp
sinh
học
8,66 22,00 43,27 35,35
Kết quả phân tích hình thái, kích thước của các nanogel Hep-P123 và Fud-
P123 ở cùng tỉ lệ ghép 1:3 cho thấy các nanogel có dạng hình cầu, với kích thước hạt
trung bình từ 40-81 nm. Điều này chỉ ra rằng các nanogel có thể đáp ứng được không
gian bên trong cấu trúc vật liệu đủ lớn để có thể mang hiệu quả các thuốc kỵ nước.
Với kích thước này các hệ nano mang thuốc có thể dể dàng thâm nhập vào các mô tế
bào ung thư bằng phương pháp phân phối thuốc thụ động thông qua hiện tượng tăng
tính thấm và tăng hiệu quả lưu giữ đặc trưng ở các mô ung thư.
Các copolymer Hep-P123 và Fud-P123 có thể tự lắp ráp để hình thành nanogel
trong dung dịch nước thông qua giá trị CMC đo được. Kết quả CMC của Fud-P123
nhỏ hơn so với Hep-P123 ở cùng tỉ lệ ghép, có thể là do trong cấu trúc của fucoidan
có chứa nhiều nhóm -CH3, góp phần làm tăng tương tác kỵ nước trong mạng lưới cấu
trúc của nanogel, dẫn đến giá trị CMC giảm.
Kết quả khảo sát tính tương hợp sinh học trên cơ sở độc tính tế bào của chất
mang Hep-P123 và Fud-P123 bằng phương pháp nhuộm SRB trên nguyên bào sợi, ở
106
nồng độ 100 µg/mL, sau 48 giờ cho thấy cả 2 hệ nanogel đều có tính tương hợp sinh
học, không gây độc cho tế bào.
Kết quả mang cisplatin của 2 hệ chất mang Hep-P123 và Fud-P123 là gần bằng
nhau, cụ thể: Fud-P123-Cis (8,66%) và Hep-P123-Cis (8,92%). Tuy nhiên, hiệu quả
mang CisOH của hệ chất mang Hep-P123 (30,3%) cao hơn nhiều so với hệ chất mang
Fud-P123 (22%). Kết quả này có thể chỉ ra rằng trong cấu trúc phân tử của fucoidan
chứa ít các nhóm anion hơn heparin, dẫn đến sự hình thành phức thấp hơn. Kết quả
này phù hợp với các nghiên cứu trước, số lượng các nhóm anion càng lớn sẽ làm gia
tăng hiệu suất mang platinum của hệ chất mang nano [50, 83, 116].
Kết quả khả năng nhả thuốc của hệ Hep-P123-CisOH và Fud-P123-CisOH
đều phụ thuộc pH, khi giá trị pH của dung dịch đệm tăng lên, tốc độ giải phóng thuốc
giảm, thuốc được giải phóng nhanh trong môi trường acid. Đồng thời, cả 2 hệ nanogel
mang thuốc còn cho thấy sự giải phóng thuốc diễn ra không hoàn toàn sau 24 giờ.
Phần trăm CisOH được giải phóng ra ở pH 5,5 từ nanogel Hep-P123 là gần 75%,
trong khi đó nanogel Fud-P123 giải phóng thuốc chậm hơn sau 24 giờ chỉ giải phóng
được khoảng 43%.
Độc tính tế bào trên dòng tế bào MCF-7 của Hep-P123-CisOH và Fud-P123-
CisOH cũng được đánh giá thông qua giá trị IC50. Kết quả IC50 của nanogel Hep-
P123-CisOH đo được là 8,48 ± 0,69 µg/mL thấp hơn nhiều so với nanogel Fud-P123-
CisOH là 20,51 ± 1,63 µg/mL. Cho thấy khả năng gây độc tế bào của Hep-P123-
CisOH cao hơn so với Fud-P123-CisOH. Kết quả này phù hợp với hiệu quả mang
thuốc CisOH và khả năng nhả thuốc của hệ Hep-P123 và Fud-P123 tính toán được.
3.6. Kết quả tổng hợp và đánh giá nanogel Hep-F127 mang thuốc cisplatin
hydrate kết hợp nanocurcumin (Hep-F127-CisOH-Cur) lên chuột mang khối u
Từ kết quả mang thuốc của các nanogel Hep-P123, Hep-F127, Hep-F87 và
Hep-F68, Fud-P123 với các tỉ lệ ghép khác nhau, cho thấy tỉ lệ ghép 1:3 mang thuốc
CisOH cao, cụ thể Hep-P123-CisOH (1:3) (30,3%) > Hep-F127-CisOH (1:3)
(26,92%) > Hep-F87-CisOH (1:3) (26,15%) > Hep-F68-CisOH (1:3) (25,07%) >
Fud-P123-CisOH (1:3) (22,00%), trong đó hệ nanogel Hep-P123-CisOH (1:3) mang
thuốc tốt nhất (30,3%). Tuy nhiên theo danh sách các poloxamer được báo báo bởi
FDA thì pluronic P123 chưa được công bố cho phép sử dụng trong lâm sàng, trong
107
khi đó pluronic F127 đã được FDA công bố mức độ an toàn khi sử dụng trong dược
phẩm, y tế và được sử dụng để kết hợp với các polymer ứng dụng làm hệ chất mang
thuốc trong nhiều báo cáo [152-157]. Theo nghiên cứu của Abhishek Sahu và cộng
sự, còn cho thấy pluronic F127 có hiệu quả đóng gói curcumin cao hơn so với pluronic
F68 [158]. Từ các cơ sở trên chúng tôi chọn hệ nanogel Hep-F127 (1:3) để mang
thuốc kết hợp cisplatin hydrate và curcumin ứng dụng điều trị trên mô hình chuột
mang khối u ghép dị loài.
Thành phần, cấu trúc, hình thái của hệ nanogel mang thuốc Hep-F127-CisOH-
Cur được khẳng định nhờ vào quang phổ hồng ngoại biến đổi FT-IR và TEM.
3.6.1. Kết quả phân tích phổ FT-IR của Hep-F127-CisOH-Cur
Trong thực nghiệm này nanocurcumin được phân tán trong copolymer Hep-
F127 thông qua các tương tác kỵ nước tại các phân đoạn PPO của F127. Sau đó hệ
nano Hep-F127-Cur sẽ được tiếp tục gắn CisOH thông qua sự tạo phức giữa CisOH
và các nhóm carboxylate/sulfate trên heparin. Kết quả tổng hợp Hep-F127-CisOH-
Cur được xác định thông qua phổ FT-IR.
Hình 3.33. Phổ FT-IR của Hep-F127, Hep-F127-CisOH, Hep-F127-CisOH-Cur
108
Trên phổ FT-IR của Hep-F127-Cis và Hep-F127-CisOH-Cur (hình 3.33) ta
thấy xuất hiện đồng thời các dao động đặc trưng của cả heparin và F127 như: tín hiệu
peak 2972 cm-1 và 2887 cm-1 là dao động hóa trị -CH của nhóm -CH2 và -CH3 trên
pluronic F127; peak 3435 cm-1 là dao động hóa trị -OH trên phân tử heparin [31, 50,
84-85]. Tín hiệu peak 3286 cm-1 là dao động hóa trị N-H của nhóm amine -NH2 trên
phân tử cisplatin.
Trên quang phổ Hep-F127-CisOH ta thấy 2 dải hấp thụ tại nối -COO và SO2-
O- có sự dịch chuyển dao động từ vùng 1632 cm-1 về vùng 1592 cm-1 và 1241 cm-1
về vùng 1253 cm-1, do sự hình thành liên kết giữa platinum hydroxide của CisOH với
các nhóm carboxylate/sulfate của Hep-F127. Mặt khác, trong quang phổ FT-IR của
Hep-F127-CisOH-Cur có thể thấy một số đỉnh hấp thụ của curcumin ban đầu ở
khoảng 1628 cm-1 (C=C vòng thơm) và 1509 cm-1 (C=O và C=C) [139], phổ đồ của
Hep-F127-CisOH-Cur chứa đầy đủ các tín hiệu dao động hấp thụ của cả Hep-F127-
CisOH và curcumin. Điều này chứng tỏ rằng curcumin đã được đóng gói và giữ lại
cấu trúc của nó trong hệ chất mang nano Hep-F127-CisOH.
3.6.2. Kết quả phân tích TEM của Hep-F127-CisOH-Cur
Hình 3.34. Kết quả đo TEM của Hep-F127 (a) và Hep-F127-CisOH-Cur (b)
Hình thái và kích thước của nanogel Hep-F127-CisOH-Cur được đánh giá
thông qua kết quả hình ảnh đo TEM ở hình 3.34, trong đó nanogel Hep-F127 có dạng
hình cầu với kích thước từ 130 - 170 nm (a). Khi curcumin được đóng gói trong phức
hợp nanogel Hep-F127-CisOH sẽ có dạng core-shell với kích thước nano thông qua
tương tác kỵ nước và tương tác tĩnh điện giữa curcumin và hệ chất mang. Một số báo
cáo trước đây cũng cho thấy việc sử dụng hệ dung môi (ethanol và dichloromethane)
109
có thể chế tạo các hạt curcumin phân tán trong dung dịch copolymer chitosan lưỡng
tính được sử dụng cho một số ứng dụng y sinh [159-160].
3.6.3. Kết quả phân tích ICP-OES và UV-Vis của Hep-F127-CisOH-Cur
Kết quả mang thuốc cisplatin hydrate và curcumin được xác định bằng phương
pháp đo ICP-OES và UV-Vis.
Kết quả hàm lượng thuốc CisOH (%wt/wt) được mang vào hệ chất mang Hep-
F127 được tính theo phần trăm khối lượng Platinum (Pt) từ kết quả phân tích ICP-
OES.
Lượng curcumin được mang trong chất mang nano được xác định bằng
phương pháp đo UV-Vis với số sóng hấp thụ lớn nhất ở 420 nm. Đường chuẩn
curcumin được xây dựng từ các dung dịch curcumin trong ethanol : DI có nồng độ
lần lượt là 0; 0,5; 1; 1,5; 3; 5 μg/mL. Đồ thị biểu diễn tỉ lệ giữa nồng độ curcumin và
độ hấp thụ sẽ cho kết quả là một phương trình đường thẳng dạng y = ax + b, trong đó
y là độ hấp thụ còn x là nồng độ.
Từ đường chuẩn xây dựng được, ta có thể tính được lượng curcumin đã được
mang vào bên trong nanogel thông qua cường độ hấp thụ đo được.
Sau đó, hàm lượng CisOH và curcumin được mang trong chất mang nano
Hep-F127 (%EE và %DL) được tính theo công thức [161]:
%EE = Khối lượng thuốc được mang vào hệ nano
Khối lượng thuốc ban đầu ×100%
%DL = Khối lượng thuốc được mang vào hệ nano
Khối lượng thuốc ban đầu + khối lượng copolymer ×100%
Ta thu được kết quả như sau:
Tên mẫu %DL %EE
CisOH Curcumin CisOH Curcumin
Hep-F127-CisOH-Cur 26,7 4,6 42,5 70
3.6.4. Kết quả khảo sát khả năng nhả thuốc của Hep-F127-CisOH-Cur
Hàm lượng thuốc CisOH và curcumin được giải phóng từ phức hợp Hep-F127-
CisOH-Cur được xác định bằng phương pháp ICP-OES và UV-Vis.
110
Hình 3.35. Kết quả nhả thuốc CisOH và Cur của Hep-F127-CisOH-Cur
Kết quả ở hình 3.35 cho thấy CisOH và Cur được giải phóng ở điều kiện pH
5,5 với tốc độ nhanh hơn so với ở điều kiện pH 7,4. Trong đó, hơn 60% CisOH và
curcumin được giải phóng ở pH 7,4 và khoảng 80% ở pH 5,5 sau 96 giờ. Ngoài ra,
sự giải phóng CisOH từ phức hợp nano Hep-F127-CisOH-Cur sau 96 giờ cao hơn 3
lần so với sự giải phóng thuốc trong 1 giờ đầu. Điều này cho thấy phức hợp giữa
CisOH và các nhóm anion trong Hep-F127 thì không bền ở pH 5,5 và sẽ bị thủy phân
nhanh hơn trong môi trường acid. Sự giải phóng platinum diễn ra không hoàn toàn
có thể là do có sự liên hợp giữa CisOH với các nhóm amine/amide trong chuỗi
polysaccharide heparin.
Hơn nữa kết quả khảo sát sự giải phóng CisOH từ mẫu dung dịch CisOH đối
chứng cũng cho thấy khoảng 90% CisOH đã được giải phóng sau 3 giờ, sự khác biệt
này rõ ràng cho thấy tầm quan trọng của CisOH và Cur khi được đóng gói vào trong
phức hợp nanogel Hep-F127 trong việc làm giảm độc tính của thuốc nhờ vào sự nhả
chậm của thuốc từ hệ chất mang nanogel.
3.6.5. Kết quả độc tế bào trên dòng tế bào MCF-7 của Hep-F127 và Hep-F127-
CisOH-Cur bằng phương pháp nhuộm SRB
Kết quả khảo sát độc tính tế bào trên dòng tế bào MCF-7 của nanogel Hep-
F127 bằng phương pháp nhuộm SRB ở bảng 3.18 cho thấy ở nồng độ 100 µg/mL
nanogel Hep-F127 không có khả năng gây độc tế bào MCF-7.
Thời gian (giờ)
Ph
ần
trăm
giả
i p
hó
ng
th
uố
c %
)
111
Bảng 3.18. Phần trăm ức chế MCF-7 của nanogel Hep-F127
Mẫu Nồng độ
(µg/mL)
Phần trăm ức chế
Lần 1 Lần 2 Lần 3 TB ± ĐLC
Hep-F127
200 -2,05 -8,69 -4,43 -5,06 ± 3,37
100 0,29 -3,71 -4,12 -2,51 ± 2,44
50 4,00 0,87 -0,80 1,36 ± 2,43
Hình 3.36 cho kết quả kiểm tra độc tính tế bào trên dòng tế bào MCF-7 của Hep-
F127-Cur, Hep-F127-CisOH và Hep-F127-CisOH-Cur bằng phương pháp nhuộm
SRB.
Hình 3.36. Hoạt tính ức chế tế bào ung thư của Hep-F127-CisOH, Hep-F127-Cur và
Hep-F127-CisOH-Cur
Kết quả ở hình 3.36 cho thấy hệ nanogel Hep-F127-Cur ở nồng độ 100 ppm
ức chế sự phát triển của tế bào ung thư MCF-7 khoảng 63,10 ± 1,91%, trong khi đó
kết quả ức chế sự phát triển tế bào đối với hệ nanogel Hep-F127-CisOH và Hep-
F127-CisOH-Cur là 88,57 ± 1,38% và 95,32 ± 2,57% lớn hơn nhiều so với Hep-F127-
Cur.
Mặt khác, khi có sự kết hợp nanocurcumin trong hệ nanogel Hep-F127-CisOH
giúp làm tăng đáng kể hoạt tính ức chế sự phát triển của tế bào ung thư vú MCF-7 ở
nồng độ trên 20 ppm, cụ thể ở 25 ppm Hep-F127-CisOH-Cur ức chế 69,37 ± 1,55%
sự phát triển của tế bào. Kết quả này chứng minh sự kết hợp thuốc kép có thể tạo ra
hiệu quả cộng hợp chống lại sự phát triển của tế bào ung thư vú MCF-7 trong hệ dẫn
112
truyền thuốc. Cisplatin là một trong những thuốc hóa trị liệu ung thư hiệu quả nhất,
cisplatin tác dụng bằng cách liên kết ngang với ADN và ức chế tổng hợp ADN, tuy
nhiên thời gian điều trị lâu dài gây ra khả năng kháng thuốc. Curcumin là một chất
chống oxy hóa có nhiều hoạt tính sinh học như chống viêm và chống khối u, tăng sức
đề kháng cho cơ thể. Một số nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra rằng sự kết hợp của
curcumin với thuốc chống ung thư có thể tăng cường hiệu quả trị liệu. Hơn nữa, chất
curcumin được chuyển hóa nhanh chóng trong điều kiện sinh lý, do đó, việc đóng gói
curcumin trong các hạt nano có thể góp phần giữ lại hoạt tính sinh học của nó.
Nhiều nghiên cứu lâm sàng đã cho thấy cisplatin có hiệu quả tiêu diệt tế bào
ung thư cao tuy nhiên nó cũng gây độc với cả tế bào lành. Kết quả thử nghiệm cho
thấy độc tính tế bào MCF-7 của cisplatin rất cao với IC50 = 0,54 ± 0,02 µg/mL, đây
là lý do dẫn đến các tác dụng phụ khi dùng thuốc hóa trị. Khi thuốc được mang trong
hệ nanogel dưới dạng tạo phức với cisplatin hydrate, quá trình thủy phân phức trong
nanogel dẫn đến nhả chậm cisplatin hydrate giúp làm giảm độc tính của thuốc và có
thể tạo sinh khả dụng kéo dài. Kết quả nghiên cứu cho thấy cisplatin và hoạt chất
curcumin có thể nhả chậm ra môi trường trong thời gian khảo sát (hình 3.35).
3.6.6. Kết quả thử nghiệm nanogel Hep-F127-CisOH-Cur lên mô hình chuột
mang khối u
3.6.6.1. Kết quả tạo mô hình chuột mang khối u
Sau quy trình gây suy giảm miễn dịch, chuột được tiến hành ghép tế bào MCF-
7 có nguồn gốc từ người bằng cách tiêm 107 tế bào/con vào vị trí dưới da, tại vùng
lưng chuột và tiếp tục theo dõi sự phát triển khối u trong 14 ngày cho đến khi kích
thước khối u đã gia tăng ổn định, kết quả được đánh giá qua hình 3.37.
Hình 3.37. Chuột mang khối u
113
Hình ảnh cho tại vị trí ghép hiện diện khối u rắn, cứng, gồ trên lưng chuột,
hình dạng to, tròn có dạng khối cầu ổn định. Sau quá trình gây tạo khối u, tiến hành
chọn những con chuột có thể tích khối u lớn hơn 50 mm3, khối u rõ, ổn định, dễ đo
kích thước và quan sát bằng mắt. Hiệu quả tạo mô hình chuột mang khối u được đánh
giá dựa trên sự xuất hiện khối u cứng, nhô lên khỏi bề mặt da lưng tại vị trí ghép tế
bào MCF-7. Xét về thể trạng, tất cả chuột có hiện tượng xù lông, sụt cân nhẹ trong 5
ngày đầu nhưng sau đó cân nặng tăng trở lại và ổn định cho đến giai đoạn tiêm thuốc.
Khối u tạo thành được đánh giá mô học để xác định khối u tạo thành từ tế bào ung
thư MCF-7.
Sự tăng sinh tế bào ung thư MCF-7 bên trong chuột được xác nhận bằng
phương pháp nhuộm hóa mô miễn dịch superoxide effutase 2 (SOD2) cho kết quả ở
hình 3.38, trong đó nhân tế bào ung thư được thể hiện bằng màu tím nhạt.
Hình 3.38. Hình thái tế bào trong mô khối u cắt lát được nhuộm hóa mô miễn dịch
bằng kháng thể SOD2
A: hình thái tổng thể khối u; B: ổ tế bào ung thư khối u; C: Ổ tế bào ung thư (từ thư
viện The Human Protein Atlas)
Ở hình 3.38 khi so sánh cấu trúc mô học của khối u thu nhận được từ mô hình
chuột mang khối u (A và B) với mẫu nhuộm của khối u gồm các tế bào ung thư vú từ
người (C) tại thư viện The Human Protein Atlas, cho thấy kết quả tương đương nhau,
trong đó tế bào chất đậm đặc (màu nâu) và các nhân tế bào có màu tím. Qua đó cho
thấy, mô hình khối u gây tạo có thành phần chiếm đa số là các tế bào ung thư có
nguồn gốc từ người.
3.6.6.2. Kết quả đánh giá kích thước khối u chuột trong thời gian điều trị
Sau kết quả tạo mô hình chuột mang khối u thành công, chuột ở 5 nghiệm thức
NaCl (0,9%), Hep-F127, cisplatin đối chứng, Hep-F127-CisOH và Hep-F127-
114
CisOH-Cur sẽ được tiêm thuốc qua đường tĩnh mạch đuôi. Chuột sẽ được theo dõi
cân nặng và sự thay đổi thể tích khối u hàng ngày.
Khối lượng của các đối tượng chuột ban đầu (trước khi có các thử nghiệm về
thuốc điều trị) được chọn lọc cùng nằm trong khoảng 30 g trên mỗi cá thể để đảm
bảo sự tương quan về khối lượng giữa các nghiệm thức thử thuốc và đối chứng. Kết
quả sự thay đổi khối lượng của chuột ở 5 nghiệm thức được thể hiện ở hình 3.39.
Hình 3.39. Khối lượng chuột theo quá trình thử nghiệm
Kết quả ở hình 3.39 cho thấy sau thời gian 14 ngày thử nghiệm, chuột ở hai
nghiệm thức đối chứng NaCl 0,9% và Hep-F127 có sự ổn định về cân nặng và có sự
tăng nhẹ về khối lượng, trong khi ở 3 nghiệm thức có chứa cisplatin còn lại chuột đều
bị giảm cân nặng còn từ 18-22 gtrên một cá thể. Đáng chú ý là ở nhóm điều trị bằng
cisplatin có sự khác biệt đáng kể về việc giảm khối lượng cơ thể chuột vào ngày thứ
10 (m = 21,94 ± 4,08 mg) và chuột ở nghiệm thức này bị chết 3/5 con. Kết quả quan
sát hình thái cho thấy chuột bị sưng viêm nặng và bắt đầu bị hoại tử ở vùng đuôi (khu
vực tiêm thuốc). Điều này có thể do thuốc cisplatin có độc tính cao gây tác động mạnh
lên hệ miễn dịch của chuột làm giảm sức đề kháng dẫn đến chuột chết.
Kết quả đánh giá sự thay đổi thể tích khối u của chuột sau 14 ngày điều trị thể
hiện ở hình 3.40.
115
Hình 3.40. Sự thay đổi thể tích khối u theo thời gian
Trong hình 3.40 có sự ức chế đáng kể sự tăng trưởng thể tích khối u chuột ở
các nghiệm thức cisplatin, Hep-F127-CisOH và Hep-F127-CisOH-Cur. Ngược lại, ở
2 nghiệm thức NaCl 0,9% và Hep-F127 có sự tăng dần thể tích khối u qua các ngày
khoảng 52,12 ± 4,27 % và 65,78 ± 3,91 %, tương ứng ở ngày thứ 14. Điều này cho
thấy chất mang Hep-F127 không có tác dụng trong việc điều trị.
- Đối với nghiệm thức sử dụng cisplatin ta thấy thể tích khối u chuột giảm
đáng kể, tuy nhiên đến ngày thử nghiệm thứ 10 có 3/5 chuột bị chết. Ở thời điểm trên,
thể tích khối u giảm được 67,64 ± 4,74%.
- Đối với nghiệm thức nanogel Hep-F127-CisOH, thể tích khối u giảm 64,09
± 4,5% sau 14 ngày điều trị. Chuột cũng bị viêm sưng đuôi ở vùng tiêm nhưng không
xuất hiện dấu hiệu hoại tử.
- Với nghiệm thức nanogel Hep-F127-CisOH-Cur, thể tích khối u chuột giảm
nhiều hơn so với 2 nhóm nghiệm thức cisplatin và Hep-F127-CisOH, đạt gần 80%
(78,51 ± 13,6%) sau 14 ngày thử nghiệm và các chuột không xuất hiện sưng viêm ở
vùng đuôi tiêm thuốc.
So sánh các kết quả ở 5 nghiệm thức thử nghiệm cho thấy, nghiệm thức Hep-
F127-CisOH-Cur cho hiệu quả giảm thể tích khối u tốt nhất. Khi kết hợp
nanocurcumin trong hệ phức Hep-F127-CisOH cho kết quả giảm thể tích khối u tốt
hơn so với chất mang Hep-F127-CisOH là 14,42%, đồng thời có thể góp phần đáng
kể vào giảm tác dụng phụ của thuốc, chuột không bị viêm tại vùng tiêm và chết sau
10 ngày tiêm so với cisplatin. Kết quả này cũng phù hợp với quá trình thay đổi khối
116
lượng chuột diễn tiến trong thời gian thử nghiệm. Khối lượng chuột suy giảm nhiều
trong mô hình thử thuốc cisplatin và hệ phức nanogel Hep-F127-CisOH so với mô
hình nanogel Hep-F127-CisOH-Cur. Nhìn chung, curcumin góp phần trong việc ức
chế sự phát triển của tế bào ung thư, việc bổ sung thêm nanocurrcumin góp phần lớn
trong nâng cao dược động học của cisplatin, tạo nên hệ mang thuốc có ưu điểm làm
giảm thể tích khối u so với chỉ sử dụng cisplatin đơn thuần hoặc chất mang Hep-F127
mang cisplatin.
So với các nghiên cứu trước đây, năm 2016 Haiyang Yu cùng cộng sự đã báo
cáo hệ mang thuốc poly(L-glutamic acid)-graft-methoxy poly(ethylene glycol) (PLG-
g-mPEG) chứa cisplatin 4mg/kg và thử nghiệm trên chuột bị ức chế miễn dịch mang
tế bào ung thư MCF-7. Kết quả thu nhận được hệ mang thuốc Cisplatin/PLG-g-mPEG
làm giảm thể tích khối u là 46,9% sau 16 ngày điều trị [162]. Năm 2014, Mingqiang
Li cùng cộng sự cũng đã báo cáo hệ mang thuốc gồm hormone LHRH (luteinizing
hormone-releasing hormone) và dextran–succinic acid (Dex–SA) kết hợp với
cisplatin 4 mg/kg. Kết quả cho thấy hệ mang thuốc Dex-SA-LHRH-Cisplatin giúp
giảm thể tích khối u sau 16 ngày điều trị khoảng 50% so với đối chứng [163]. Thông
qua các kết quả nghiên cứu trước đây cho thấy hệ chất mang Hep-F127 kết hợp với
1 thuốc cisplatin và thuốc cisplatin kết hợp nanocurcumin (cisplatin hydrate-
nanocurcumin) đều mang lại hiệu quả cao trong việc làm giảm thể tích khối u, vượt
hơn các nghiên cứu trước khoảng 28,5%.
3.6.6.3. Kết quả nhuộm mô khối u đánh giá hiệu quả điều trị
Các nguyên bào sợi bình thường nằm ở gần lớp tế bào ung thư của nhiều khối
u rắn như ung thư vú, đại tràng và u ác tính được kích thích để trở thành nguyên bào
sợi ung thư. Nguyên bào sợi ung thư là loại tế bào phổ biến nhất trong cấu trúc khối
u của nhiều loại ung thư và có vai trò quan trọng, chúng thúc đẩy sự phát triển khối
u thông qua sự kích thích trực tiếp các yếu tố tăng trưởng tế bào và các cytokine. Bên
cạnh đó, các nguyên bào sợi ung thư cũng góp phần vào sự hình thành mạch, giúp
khối u phát triển và tiếp tục xâm lấn [164]. Theo Ming-Qing Gao cùng cộng sự, vùng
trung gian trong khối u ung thư có tốc độ phát triển nhanh có vai trò quan trọng trong
việc giúp thúc đẩy sự di cư và sự tăng kích thước của của khối u [165]. Vì thế, mục
tiêu đầu tiên của các thuốc hóa trị liệu là dần làm mỏng, phá hủy và dẫn đến loại bỏ
117
hoàn toàn các lớp nguyên bào sợi trưởng thành và chưa trưởng thành, sau đó tiếp tục
nhắm đến việc tiêu diệt các tế bào ung thư. Bằng cách liên kết và làm biến tính ADN,
các phân tử thuốc ngăn chặn khả năng phiên mã, dịch mã và dẫn đến hiện tượng tự
chết (apoptosis) của các tế bào nguyên bào sợi và tế bào ung thư.
Phương pháp nhuộm H&E giúp quan sát cấu trúc các mẫu mô khối u đã thu
nhận để đánh giá hiệu quả điều trị ức chế khối u của các thuốc thử nghiệm. Kết quả
nhuộm H&E của các mẫu mô trong thử nghiệm được thể hiện ở hình 3.41.
Hình 3.41. Kết quả phân tích mô học H&E mô các khối u sau thời gian điều trị:
Hep-F127 (a), NaCl (b), nanogel Hep-F127-CisOH (c) và Hep-F127-CisOH-Cur (d)
Ở hình 3.41 kết quả phân tích mô học trong 2 mô hình đối chứng Hep-F127
(a) và NaCl (b) cho thấy mật độ tế bào ung thư rất cao sau 14 ngày thử nghiệm. Khối
u phát triển bình thường và đã hình thành đầy đủ các lớp tế bào chính như cấu trúc
mô ung thư vú điển hình gồm: vùng bình thường ở ngoài cùng có nhiều tế bào nguyên
bào sợi trưởng thành kéo dài, mật độ tế bào thấp nên có màu hồng nhạt, sáng màu.
Tiếp đến là vùng trung gian cũng gồm nhiều nguyên bào sợi đang phát triển, mật độ
tế bào dày hơn lớp ngoài, màu hồng đậm. Trong cùng là vùng tế bào bắt màu rất đậm,
có màu xanh đen của nhân tế bào đã bắt màu hematoxylin, mật độ tế bào dày đặc tạo
thành khối đậm màu. Như vậy, kết quả từ cả hai nghiệm thức cho thấy khối u tăng
trưởng và phát triển bình thường khi không có thuốc điều trị.
118
Nghiệm thức điều trị tiêm cisplatin đã dừng lại sau 10 ngày do có nhiều chuột
chết, do đó mật độ tế bào ung thư không được đánh giá mô học.
Nghiệm thức điều trị Hep-F127-CisOH (c) cho thấy mật độ tế bào ung thư
MCF-7 giảm sau 14 ngày. Đối với nghiệm thức sử dụng thuốc kết hợp Hep-F127-
CisOH-Cur (d), các đặc điểm chung của cấu trúc mô cho thấy tỷ lệ tế bào ung thư
hiện diện rất nhỏ, không còn tồn tại vùng nguyên bào sợi trưởng thành và vùng
nguyên bào sợi chưa trưởng thành, bên cạnh đó chất nền xung quanh tế bào ung thư
cũng có hiện tượng phân rã. Ngoài ra, tại các vị trí tiêm của chuột được điều trị bằng
nghiệm thức sử dụng thuốc kép đã không thấy hoại tử sau 14 ngày. Kết quả này chỉ
ra rằng sự kết hợp của nanocurcumin trong phức hợp nano Hep-F127-CisOH đã giảm
thiểu độc tính toàn thân so với cisplatin tự do và tăng cường hiệu quả tiêu diệt tế bào
ung thư MCF-7 trong các mô hình chuột mang khối u ghép dị loài từ người.
Từ việc quan sát hình thái tế bào trong các mô khối u cho thấy Hep-F127-
CisOH có hiệu quả trong việc làm giảm thể tích khối u và tiêu diệt một phần các tế
bào ung thư. Nhưng đối với nghiệm thức gồm chất mang Hep-F127 chứa CisOH có
kết hợp thêm nanocurcumin cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc làm giảm thể tích khối
u và tiêu diệt gần như hoàn toàn các tế bào ung thư so với nghiệm thức điều trị 1
thuốc. Điều này cho thấy hiệu quả cộng gộp của hệ chất mang thuốc kết hợp. Chất
mang Hep-F127 giúp thuốc được nhả chậm, góp phần kéo dài thời gian tuần hoàn của
thuốc trong huyết tương và tích tụ nhiều trong các khối u thông qua hiệu ứng EPR.
Curcumin được chứng minh có khả năng chống ung thư, ức chế sự hình thành khối u
và di căn thông qua hiệu ứng của nó trên một loạt các con đường sinh học liên quan
đến đột biến, biểu hiện gene gây ung thư, … góp phần làm giảm độc tính của thuốc
và tăng hiệu quả điều trị [166].
119
KẾT LUẬN
Qua thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận án, chúng tôi đã đạt được các kết
quả sau:
1. Đã tổng hợp thành công các chất mang nanogel mới trên cơ sở heparin,
fucoidan ghép các polymer tương hợp sinh học pluronic có cấu trúc mạch khác nhau
(P123, F127, F87, F68) với các tỉ lệ liên hợp khác nhau. Trong đó Hep-P123, Hep-
F87, Hep-F68, Fud-P123 là các hệ chất mang mới chưa được nghiên cứu trước đây.
Các sản phẩm nanogel được đánh giá cấu trúc bằng các phương pháp 1H-NMR, FT-
IR, TGA, TEM, CMC.
2. Các nanogel heparin-pluronic mang thuốc cisplatin đạt từ 2,85% đến
13,29% và khi tạo phức với cisplatin dạng hydrate đạt từ 8,44% đến 30,30%, trong
đó phức hợp nanogel Hep-P123 ở tỉ lệ ghép 1:3 với cisplatin hydrate có phần trăm
mang thuốc cao nhất. Ngoài ra, tỉ lệ ghép pluronic càng cao thì phần trăm thuốc
cisplatin hydrate được mang vào nanogel càng giảm. Đây là nét mới của luận án so
với chiều hướng nghiên cứu mới được phát triển gần đây, sử dụng dạng phức hydrate
của cisplatin với chất mang để làm tăng hiệu quả mang thuốc.
Khi so sánh giữa nanogel Hep-P123 và Fud-P123 với tỉ lệ liên hợp 1:3 tương
ứng thì Hep-P123 mang thuốc cisplatin hydrate tốt hơn. Đây là điểm mới của đề tài,
trong đó hệ nanogel Hep-P123 và Fud-P123 chưa từng được nghiên cứu trong và
ngoài nước.
3. Nanogel từ phức giữa cisplatin hydrate và chất mang Hep-P123 và Fud-
P123 (với tỉ lệ liên hợp 1:3) có tốc độ giải phóng thuốc chậm hơn nhiều so với mẫu
cisplatin hydrate đối chứng.
Ngoài ra, so sánh giữa nanogel Hep-P123 và Fud-P123 thì Hep-P123 cho phần
trăm thuốc cisplatin hydrate giải phóng ra sau 24 giờ ở cả 2 điều kiện pH 5,5 và 7,4
nhiều hơn so với Fud-P123.
4. Khi nanogel Hep-P123 và Fud-P123 được tạo phức với cisplatin dạng
hydrate thì có phần trăm ức chế sự phát triển của dòng tế bào MCF-7 cao hơn so với
cisplatin được mang trên nanogel tương ứng.
120
5. Đã tổng hợp thành công chất mang nanogel trên cơ sở heparin liên hợp
pluronic F127 mang thuốc kết hợp cisplatin hydrate và nanocurcumin. Sản phẩm
nanogel được đánh giá cấu trúc bằng các phương pháp FT-IR, TEM.
6. Phức hợp chất mang nanogel Hep-F127 và cisplatin hydrate sau khi kết hợp
với nanocurcumin cho hiệu quả cao khi thử nghiệm trên mô hình chuột nhắt trắng
mang khối u dòng tế bào MCF-7 ghép dị loài từ người, trong đó thể tích khối u giảm
78,51 ± 13,6% sau 14 ngày thử nghiệm. Đây là điểm nổi bật của đề tài, trong đó
nanogel Hep-F127 mang thuốc cisplatin hydrate kết hợp nanocurcumin chưa được
nghiên cứu và thử nghiệm trên động vật trước đây.
Ngoài ra, khi có sự kết hợp của nanocurcumin trên hệ chất mang thuốc Hep-
F127-CisOH, thuốc có độ độc giảm hơn nhiều so với mẫu cisplatin đối chứng, chuột
không xuất hiện triệu chứng sưng viêm và hoại tử ở vùng đuôi tiêm thuốc.
121
KIẾN NGHỊ
Tiếp tục đề tài trên với các loại pluronic khác. Sau đó tiến hành khảo sát khả
năng mang, nhả thuốc chống ung thư của các hệ nanogel trên với các loại thuốc khác
nhau, nhằm đạt hiệu quả mang thuốc tốt nhất.
Tiếp tục nghiên cứu kết hợp đa thuốc chống ung thư trên các hệ nanogel sau
khi đã tổng hợp, nhằm tăng hiệu quả điều trị cũng như giảm độc tính của thuốc.
Nghiên cứu biến tính các copolymer ghép với các tác nhân hướng đích, nhằm
tăng hiệu quả điều trị khối u của các thuốc chống ung thư kém tan trong nước.
122
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Ngoc The Nguyen, Thi Hiep Nguyen, Minh Thanh Vu, Van Thu Le, Xuan
Anh Nguyen, Tram Chau Nguyen, and Thi Bich Tram Nguyen, Novel
amphiphilic heparin-pluronic P123 copolymers exhibiting a great potential
for Cisplatin delivery, Journal of Materials Science, 2018, 53(18), 12692-
12703. IF = 3.394, Q1.
2. Ngoc The Nguyen, Ngoc Nhat Thanh Nguyen, Ngo The Nhan Tran, Phung
Ngan Le, Thi Bich Tram Nguyen, Ngoc Hoa Nguyen, Long Giang Bach, Vu
Nguyen Doan, Ha Le Bao Tran, Van Thu Le, and Ngoc Quyen Tran, Synergic
Activity Against MCF-7 Breast Cancer Cell Growth of Nanocurcumin-
Encapsulated and Cisplatin-Complexed Nanogels, Molecules, 2018, 23(12)
(3347), 1-12. IF = 3.060, Q1.
3. Trung Dinh Nguyen, The Ngoc Nguyen, Trang Thuy Thi Nguyen, Igor A.
Ivanov, Khoa Cuu Nguyen, Quyen Ngoc Tran, Anh Ngoc Hoang and Yuri N.
Utkin, Nanoencapsulation Enhances Anticoagulant Activity of Adenosine and
Dipeptide IleTrp, Nanomaterials, 2019, 9(9), 1191, 1-12. IF = 4.034, Q1.
123
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. L. Kelland, The resurgence of platinum-based cancer chemotherapy, Nat. Rev.
Cancer, 2007, 7(8), 573-584.
2. S. Dasari, P.B. Tchounwou, Cisplatin in cancer therapy: molecular mechanisms
of action, Eur. J. Pharmacol., 2014, 740, 364-378.
3. X. Duan, C. He, S.J. Kron and W. Lin, Nanoparticle formulations of cisplatin
for cancer therapy, Wiley Interdiscip. Rev. Nanomed. Nanobiotechnol., 2016,
8(5), 776-791.
4. J. Sastry and S. J. Kellie, Severe neurotoxicity, ototoxicity and nephrotoxicity
following high-dose cisplatin and amifostine, Pediatr. Hematol. Oncol., 2005,
22(5), 441-445.
5. Y. Yin, B. Hu, X. Yuan, et al., Nanogel: A Versatile Nano-Delivery System for
Biomedical Applications, Pharmaceutics, 2020, 12(3), 290.
6. M. A. Qureshi and F. Khatoon, Different types of smart nanogel for targeted
delivery, Journal of Science: Advanced Materials and Devices, 2019, 4(2), 201-
212.
7. D. Chen, H. Yu, K. Sun, et al., Dual thermoresponsive and pH-responsive self-
assembled micellar nanogel for anticancer drug delivery, Drug Deliv., 2014,
21(4), 258-264.
8. H. Yu, Z. Tang, M. Li, et al., Cisplatin loaded poly (L-glutamic acid)-g-methoxy
poly(ethylene glycol) complex nanoparticles for potential cancer therapy:
preparation, in vitro and in vivo evaluation, J. Biomed. Nanotechnol., 2016,
12(1), 69-78.
9. S.H. Hong, Y. Li, J.B. Eom and Y. Choi, Responsive alginate-cisplatin
nanogels for selective imaging and combined chemo/radio therapy of
proliferating macrophages, Quant. Imaging. Med. Surg., 2018, 8(8), 733-742.
10. L. Liu, M. Gou, T. Yi, et al., Antitumor effects of heparin-polyethyleneimine
nanogels delivering claudin-3-targeted short hairpin RNA combined with
lowdose cisplatin on ovarian cancer, Oncol. Rep., 31(4), 1623-1628.
124
11. J. Alliot, I. Theodorou, D.V. Nguyen, et al., Tumor targeted micellar
nanocarriers assembled from Epipodophyllotoxin-based amphiphiles,
Nanoscale, 2019, 11(19), 9756-9759.
12. A. Nemany, N. Hanafy, M. El-Kemary and S. Leporatti, Micelles Structure
Development as a Strategy to Improve Smart Cancer Therapy, Cancers, 2018,
10(7), 238.
13. S. Kim, Y. Shi, J. Y. Kim, et al., Overcoming the barriers in micellar drug
delivery: loading efficiency, in vivo stability, and micelle–cell interaction,
Expert Opin. Drug Deliv., 2010, 7(1), 49-62.
14. R. Savic, T. Azzam, A. Eisenberg and D. Maysinger, Assessment of the integrity
of poly(caprolactone)-b-poly(ethylene oxide) micelles under biological
conditions: a fluorogenic-based approach, Langmuir, 2006, 22(8), 3570-3578.
15. C. Ragi, M.R. Sedaghat‐Herati, A. Ahmed Ouameur, H.A. Tajmir‐Riahi, The
effects of poly(ethylene glycol) on the solution structure of human serum
albumin, Biopolymers, 2005, 78(5), 231-236.
16. A.S. Michail and C. Allen, Block copolymer micelles for delivery of cancer
therapy: Transport at the whole body, tissue and cellular levels, J. Control.
Release, 2009, 138(2), 214-223.
17. U. Kedar, P. Phutane, S. Shidhaye and V. Kadam, Advances in polymeric
micelles for drug delivery and tumor targeting, Nanomedicine, 2010, 6(6), 714-
729.
18. T.Y. Kim, D.W. Kim, J.Y. Chung, et al., Phase I and pharmacokinetic study of
Genexol-PM, a cremophor-free, polymeric micelle-formulated paclitaxel, in
patients with advanced malignancies, Clin. Cancer Res., 2004, 10(11), 3708-
3716.
19. K.S. Lee, H.C. Chung, S.A. Im, et al., Multicenter phase II trial of Genexol-
PM, a Cremophor-free, polymeric micelle formulation of paclitaxel, in patients
with metastatic breast cancer, Breast Cancer Res. Treat., 2008, 108(2), 241-
250.
20. N. Nishiyama, M. Yokoyama, T. Aoyagi, et al., Preparation and
characterization of self-assembled polymer-metal complex micelle from cis-
125
dichlorodiammineplatinum (II) and poly (ethylene glycol)-poly (α, β-aspartic
acid) block copolymer in an aqueous medium, Langmuir, 1999, 15(2), 377-383.
21. F. Sultana, Manirujjaman, Md. Imran-Ul-Haque, et al., An Overview of Nanogel
Drug Delivery System, J. App. Pharm. Sci., 2013, 3(8), S95-S105.
22. H.KS. Yadav, N.A. Al Halabi, G.A. Alsalloum, Nanogels as Novel Drug
Delivery Systems - A Review, J. Pharmacol. Pharm. Res., 2017, 1(1:5), 1-8.
23. N. Morimoto, Shin-ichiro.M. Nomura, N. Miyazawa and K. Akiyoshi,
Polymeric Drug Delivery II: Nanogel engineered designs for polymeric drug
delivery, ACS Publications, Chapter 6, 2006, 924, 88-101.
24. H. Zhang, Y. Zhai, J. Wang and G. Zhai, New progress and prospects: The
application of nanogel in drug delivery, Mater. Sci. Eng. C Biol. Appl., 2016,
60, 560-568.
25. K. Akiyoshi, S. Deguchi, N. Moriguchi, et al., Self-Aggregates of
Hydrophobized Polysaccharides in Water. Formation and Characteristics of
Nanoparticles, Macromolecules, 1993, 26(12), 3062-3068.
26. X. Wei, T.H. Senanayake, G. Warren and S.V. Vinogradov, Hyaluronic Acid-
Based Nanogel−Drug Conjugates with Enhanced Anticancer Activity Designed
for the Targeting of CD44-Positive and Drug-Resistant Tumors, Bioconjug.
Chem., 2013, 24(4), 658-668.
27. M. Takeo, T. Mori, T. Niidome, et al., A polyion complex nanogel, J. Colloid
Interface Sci., 2013, 390(1), 78-84.
28. S. Zhou, X. Min, H. Dou, et al., Facile fabrication of dextran-based fluorescent
nanogels as potential glucose sensors, Chem. Commun., 2013, 49(82), 9473-
9475.
29. Y.L. Li, L. Zhu, Z. Liu, et al., Reversibly Stabilized Multifunctional Dextran
Nanoparticles Efficiently Deliver Doxorubicin into the Nuclei of Cancer Cells,
Angew. Chem. Int. Ed., 2009, 48(52), 9914-9918.
30. G. Soni and K. S. Yadav, Nanogels as potential nanomedicine carrier for
treatment of cancer: a mini review of the state of the art, Saudi Pharm. J., 2016,
24(2), 133-139.
126
31. D.H. Nguyen, J.H. Choi, Y.K. Joung, and K.D. Park, Disulfide-crosslinked
heparin-pluronic nanogels as a redox-sensitive nanocarrier for intracellular
protein delivery, J. Bioact. Compat. Polym., 2011, 26(3), 287-300.
32. C. Lu, B. Li, N. Liu, et al., A hydrazone crosslinked zwitterionic polypeptide
nanogel as a platform for controlled drug delivery, RSC Adv., 2014, 4(92),
50301-50311.
33. T. Nakai, T. Hirakura, Y. Sakurai, et al., Injectable hydrogel for sustained
protein release by the saltinduced association of hyaluronic acid nanogel,
Macromol. Biosci., 2012, 12(4), 475-483.
34. S. Mangalathillam, N.S. rejinold, A. Nair, et al., Curcumin-loaded chitin
nanogels for skin cancer treatment via the transdermal route, Nanoscale, 2012,
4(1), 239-250.
35. C. Gonçalves, P. Paula and F.M. Gama, Self-assembled hydrogel nanoparticles
for drug delivery applications, Materials, 2010, 3(2), 1420-1460.
36. P.R. Sarika, N.R. James, P.R. Anil Kumar and D.K. Raj, Preparation,
characterization and biological evaluation of curcumin loaded alginate
aldehyde-gelatin nanogels, Mater. Sci. Eng. C., 2016, 68, 251-257.
37. V. Baskar, S. Meeran, A. Subramani, et al., Historic review on modern herbal
nanogel formulation and delivery methods, Int. J. Pharm. Pharm. Sci., 2018,
10(10), 1-10.
38. Nguyễn Cửu Khoa, Vật liệu polyme thông minh và ứng dụng trong y sinh. Nhà
xuất bản Khoa học tự nhiên và Công nghệ, 2016, 450-454.
39. M.A. Qureshi and F. Khatoon, Different types of smart nanogel for targeted
delivery, J. Sci. Adv. Mater. Dev., 2019, 4(2), 201-212.
40. R. Cheng, F. Meng, C. Deng, et al., Dual and multi-stimuli responsive polymeric
nanoparticles for programmed site-specific drug delivery, Biomaterials, 2013,
34(14), 3647-3657.
41. N. Morimoto, S. Hirano, H. Takahashi, et al., Self-Assembled pH-Sensitive
Cholesteryl Pullulan Nanogel As a Protein Delivery Vehicle,
Biomacromolecules, 2013, 14(1), 56-63.
127
42. Y. Li, Q.N. Bui, L.T. Minh Duy, et al., One-Step Preparation of pH-Responsive
Polymeric Nanogels as Intelligent Drug Delivery Systems for Tumor Therapy,
Biomacromolecules, 2018, 19(6), 2062-2070.
43. C. Duan, J. Gao, D. Zhang, et al., Galactose-decorated pH-responsive nanogels
for hepatomatargeted delivery of oridonin, Biomacromolecules, 2011, 12(12),
4335-4343.
44. P. Kaner, P. Bengani-Lutz, I. Sadeghi and A. Asatekin, Responsive filtration
membranes by polymer self-assembly, Technology, 2016, 4(4), 217-228.
45. A. Nykänen, M. Nuopponen, A. Laukkanen, et al., Phase behavior and
temperature-responsive molecular filters based on self-assembly of
polystyrene-block-poly(N-isopropylacrylamide)-block-polystyrene,
Macromolecules, 2007, 40(16), 5827-5834.
46. Y. Shin, J.H. Chang, J. Liu J, et al., Hybrid nanogels for sustainable positive
thermosensitive drug release, J. Control. Release, 2001, 73(1), 1-6.
47. C. Wang, J. Mallela, U.S.Garapati, et al., A chitosan-modified graphene nanogel
for noninvasive controlled drug release, Nanomedicine, 2013, 9(7), 903-911.
48. Y. Liang and K.L. Kiick, Heparin-functionalized polymeric biomaterials in
tissue engineering and drug delivery applications, Acta Biomater., 2014, 10(4),
1588-1600.
49. A.F. Martins, D.M. de Oliveira, A.G.B. Pereira, et al., Chitosan/TPP
microparticles obtained by microemulsion method applied in controlled release
of heparin, Int. J. Biol. Macromol., 2012, 51(5), 1127-1133.
50. Nhat-Anh. N. Tong, N.C. Khoa, T.P. Nguyen and N.Q. Tran, Aquated cisplatin
and heparin-pluronic nanocomplexes exhibiting sustainable release of active
platinum compound and NCI-H460 lung cancer cell antiproliferation, J.
Biomater. Sci. Polym. Ed., 2016, 27(8), 709-720.
51. Q. Li, L. Gan, H. Tao, Q. Wang, L. Ye, A. Zhang, Z. Feng, The synthesis and
application of heparin-based smart drug carrier. Carbohydrate Polymers, 2016,
140, 260-268.
128
52. L. Mei, Y. Liu, C. Xia, Y. Zhou, Z. Zhang, Q. He, Polymer-drug nanoparticles
combine doxorubicin carrier and heparin bioactivity functionalities for primary
and metastatic cancer treatment. Mol. Pharmaceutics, 2017, 14(2), 513-522.
53. L. Mei, Y. Liu, H. Zhang, Z. Zhang, H. Gao, Q. He,, Antitumor and
Antimetastasis Activities of Heparin-based Micelle Served As Both Carrier and
Drug. ACS Appl Mater Interfaces, 2016, 8(15), 9577-89.
54. F. Atashrazm, R.M. Lowenthal, G.M. Woods, et al., Dickinson Fucoidan and
Cancer: A Multifunctional Molecule with Anti-Tumor Potential, Mar. Drugs,
2015, 13(4), 2327-2346.
55. L. Wu, J. Sun, X. Su, et al., A review about the development of fucoidan in
antitumor activity: Progress and challenges, Carbohydr. Polym., 2016, 154, 96-
111.
56. Phạm Đức Thịnh, Nghiên cứu phân tích thành phần, cấu trúc hóa học của
fucoidan có hoạt tính sinh học từ một số loài rong nâu ỏ Vịnh Nha Trang. Luận
án tiến sĩ hóa học, 2015.
57. P.A. Hwang, X.Z. Lin, K.L. Kuo and F.Y. Hsu, Fabrication and Cytotoxicity of
Fucoidan-Cisplatin Nanoparticles for Macrophage and Tumor Cells, Materials
(Basel), 2017, 10(3), 291, 1-10.
58. E.J. Kim, S.Y. Park, J.Y. Lee and J.H. Yoon Park, Fucoidan present in brown
algae induces apoptosis of human colon cancer cells, BMC Gastroenterol.,
2010, 10(1), 96-106.
59. Z. Zhang, K. Teruya, H. Eto and S. Shirahata, Induction of apoptosis by low-
molecular-weight fucoidan through calcium- and caspase-dependent
mitochondrial pathways in MDA-MB-231 breast cancer cells, Biosci.
Biotechnol. Biochem., 2014, 77(2), 235-242.
60. Y. Aisa, Y. Miyakawa, T. Nakazato, et al., Fucoidan induces apoptosis of
human HS-Sultan cells accompanied by activation of caspase-3 and down-
regulation of ERK pathways, Am. J. Hematol., 2004, 78(1), 7-14.
61. K. Haneji, T. Matsuda, M. Tomita, et al., Fucoidan extracted from cladosiphon
okamuranus tokida induces apoptosis of human t-cell leukemia virus type 1-
129
infected t-cell lines and primary adult t-cell leukemia cells, Nutr. Cancer, 2005,
52(2), 189-201.
62. A. Cumashi, N.A. Ushakova, M.E. Preobrazhenskaya, et al., A comparative
study of the antiinflammatory, anticoagulant, antiangiogenic, and antiadhesive
activities of nine different fucoidans from brown seaweeds, Glycobiology, 2007,
17(5), 541-552.
63. H. Maruyamaa, H. Tamauchi, M. Ilizuka and T. Nakano, The role of NK cells
in antitumor activity of dietary fucoidan from Undaria pinnatifida Sporophylls
(Mekabu), Planta Med., 2006, 72(15), 1415-1417.
64. M.T. Ale, H. Maruyama, H. Tamauchi, et al., Fucoidan from sargassum sp. And
fucus vesiculosus reduces cell viability of lung carcinoma and melanoma cells
in vitro and activates natural killer cells in mice in vivo, Int. J. Biol. Macromol.,
2011, 49(3), 331-336.
65. K. Azuma, T. Ishihara, H. Nakamoto, et al., Effects of oral administration of
fucoidan extracted from cladosiphon okamuranus on tumor growth and survival
time in a tumor-bearing mouse model, Mar. Drugs, 2012, 10(10), 2337-2348 .
66. J. Shimizu, U. Wada-Funada, H. Mano, et al., Proportion of murine cytotoxic t
cells is increased by high molecular-weight fucoidan extracted from okinawa
mozuku (cladosiphon okamuranus), J. Health Sci., 2005, 51(3), 394-397.
67. E.V. Batrakova, and A.V. Kabanov, Pluronic block copolymers: evolution of
drug delivery concept from inert nanocarriers to biological response modifiers,
J. Control Release, 2008, 130(2), 98-106.
67. Nguyễn Văn Kình, Nguyễn Tuấn Anh, Sinh học phân tử ung thư. Nhà xuất bản
y học, 2015, Hà Nội.
69. N.J. Wheate, S. Walker, G.E. Craig and R. Oun, The status of platinum
anticancer drugs in the clinic and in clinical trials, Dalton Trans., 2010, 39(35),
8097-8340.
70. Phan Minh Liem, Khả năng kháng ung thư của Curcumin và Graviola, Vietnam
J. Sci., 2015, 2(2), 6-10.
130
71. S. Chen, Q. Liang, S. Xie, et al., Curcumin based combination therapy for anti-
breast cancer: from in vitro drug screening to in vivo efficacy evaluation, Front.
Chem. Sci. Eng., 2016, 10(3), 383-388.
72. H. Su, W. Zhang, Y. Wu, et al., Schiff base-containing dextran nanogel as pH-
sensitive drug delivery system of doxorubicin: Synthesis and characterization,
J. Biomater. Appl., 2018, 33(2), 170-181.
73. J. Yang, M.H. Yao, L. Wen, et al., Multifunctional quantum dot–polypeptide
hybrid nanogel for targeted imaging and drug delivery, Nanoscale, 2014, 6(19),
11282-11292.
74. M. Oishi, H. Hayashi, M. Iijima and Y. Nagasaki. Endosomal release and
intracellular delivery of anticancer drugs using pH-sensitive PEGylated nanogels, J.
Mater. Chem., 2007, 17(35), 3720-3725.
75. Q. Zhang, J. Wu, J. Wang, et al., Neutrophils-Inspired Supramolecular Nanogel
for Magnetocaloric-Enzymatic Tandem Therapy, Angew. Chem. Int. Ed. Engl.,
2020, 59(9), 3732-3738
76. N. Malik, E. G. Evagorou and R. Duncan, Dendrimer-platinate: a novel
approach to cancer chemotherapy, Anticancer Drugs, 1999, 10(8), 767-776.
77. P.J. Pellechia, J. Gao, Y. Gu, et al., Platinum Ion Uptake by Dendrimers, Inorg.
Chem., 2004, 43(4), 1421-1428.
78. E. Wexselblatt, E. Yavin and D. Gibson, Cellular interactions of platinum
drugs, Inorg. Chim. Acta, 2012, 393, 75-83.
79. G.J. Kirkpatrick, J.A. Plumb, O.B. Sutcliffe, et al., Evaluation of anionic half
generation 3.5-6.5 poly(amidoamine) dendrimers as delivery vehicles for the
active component of the anticancer drug cisplatin, J. Inorg. Biochem., 2011,
105(9), 1115-1122.
80. H.P. Thu, P.T.H. Tuyet, M.T.T. Trang, et al., Preparation and Biological
Properties of Platinum(II) Complex-Loaded Copolymer PLA-TPGS, J.
Nanomater., 2013, 2013(5), 1-9.
81. T.U. Ly, N.Q. Tran, C.K. Nguyen, et al., Pegylated dendrimer and its effect in
fluorouracil loading and release for enhancing antitumor activity, J. Biomed.
Nanotechnol., 2013, 9(2), 213-220.
131
82. N.Q. Tran, C.K. Nguyen and T.P. Nguyen, Dendrimer-based nanocarriers
demonstrating a high efficiency for loading and releasing anticancer drugs
against cancer cells in vitro and in vivo, Adv. Nat. Sci.: Nanosci. Nanotechnol.,
2013, 4(4), 045013.
83. H. Nguyen, N.H. Nguyen, N.Q. Tran and C.K. Nguyen, Improved Method for
Preparing Cisplatin-Dendrimer Nanocomplex and Its Behavior Against NCI-
H460 Lung Cancer Cell, J. Nanosci. Nanotechnol., 2015, 15(6), 4106-4110.
84. J.H. Choi, Y.K. Joung, N.Q. Tran, et al., Self-Assembled Nanogel of Pluronic-
Conjugated Heparin as a Versatile Drug Nanocarrier, Macromol. Res., 2011,
19(2), 180-188.
85. D.H. Nguyen, Y.K. Joung, J.H. Choi, et al., Targeting ligand-functionalized and
redox-sensitive heparin-Pluronic nanogels for intracellular protein delivery,
Biomed. Mater., 2011, 6(5), 055004.
86. H. Guo, F. Li, H. Qiu, et al., Chitosan-Based Nanogel Enhances
Chemotherapeutic Efficacy of 10-Hydroxycamptothecin against Human Breast
Cancer Cells, Inter. J. Polym. Sci., 2019, 2019(5), 1-6.
87. G.S. El-Feky, S.T. El-Banna, G.S. El-Bahy, et al., Alginate coated chitosan
nanogel for the controlled topical delivery of Silver sulfadiazine, Carbohydr.
Polym., 2017, 177, 194-202.
88. S.H. Hong, Y. Li, J.B. Eom and Y. Choi, Responsive alginate-cisplatin
nanogels for selective imaging and combined chemo/radio therapy of
proliferating macrophages, Quant. Imaging Med. Surg., 2018, 8(8), 733-742.
89. K. Senthilkumar, P. Manivasagan, J. Venkatesan and S.K. Kim, Brown seaweed
fucoidan: biological activity and apoptosis, growth signaling mechanism in
cancer, Int. J. Biol. Macromol., 2013, 60, 366-374.
90. K. Park, K. Kim, I.C. Kwon, et al., Preparation and Characterization of Self-
Assembled Nanoparticles of Heparin-Deoxycholic Acid Conjugates, Langmuir,
2004, 20(26), 11726-11731.
91. X.H. Peng, Y. Wang, D. Huang, et al., Targeted Delivery of Cisplatin to Lung
Cancer Using ScFvEGFR-Heparin-Cisplatin Nanoparticles, ACS Nano, 2011,
5(12), 9480-9493.
132
92. P. Liu, M. Gou, T. Yi, et al., The enhanced antitumor effects of biodegradable
cationic heparin-polyethyleneimine nanogels delivering HSulf-1 gene combined
with cisplatin on ovarian cancer, Int. J. Oncol., 2012, 41(4), 1504-1512.
93. Y.K. Joung, J.Y. Jang, J.H. Choi, et al., Heparin-conjugated pluronic nanogels
as multi-drug nanocarriers for combination chemotherapy, Mol. Pharm., 2013,
10(2), 685-693.
94. L. Liu, M. Gou, T. Yi, et al., Antitumor effects of heparin-polyethyleneimine
nanogels delivering claudin-3-targeted short hairpin RNA combined with low-
dose cisplatin on ovarian cancer, Oncol. Rep., 2014, 31(4), 1623-1628.
95. M.P. Kai, A.W. Keeler, J.L. Perry, et al., Evaluation of drug loading,
pharmacokinetic behavior, and toxicity of a cisplatin-containing hydrogel
nanoparticle, J. Control. Release, 2015, 204, 70-77.
96. M. Li, Z. Tang, Y. Zhang, et al., Targeted delivery of cisplatin by LHRH-peptide
conjugated dextran nanoparticles suppresses breast cancer growth and
metastasis, Acta Biomater., 2015, 18, 132-143.
97. T. Sudha, D.J. Bharali, M. Yalcin, et al., Targeted delivery of cisplatin to tumor
xenografts via the nanoparticle component of nano-diamino-tetrac,
Nanomedicine, 2017, 12(3), 195-205.
98. H.M. Kieler-Ferguson, D. Chan, J. Sockolosky, et al., Encapsulation,
controlled release, and antitumor efficacy of cisplatin delivered in liposomes
composed of sterol-modified phospholipid, Eur. J. Pharm. Sci., 2017, 103, 85-
93.
99. Y. Zhang, F. Wang, M. Li, et al., Self-Stabilized Hyaluronate Nanogel for
Intracellular Codelivery of Doxorubicin and Cisplatin to Osteosarcoma, Adv.
Sci., 2018, 5(6), 1800811.
100. S.E. Alavi, S.M Al Harthi, H.E. Shahmabadi and A. Akbarzadeh, Cisplatin-
Loaded Polybutylcyanoacrylate Nanoparticles with Improved Properties as an
Anticancer Agent, Int. J. Mol. Sci., 2019, 20(7), 1531.
101. Z. Zhang, K. Teruya, T. Yoshida, et al., Fucoidan extract enhances the anti-
cancer activity of chemotherapeutic agents in MDA-MB-231 and MCF-7 Breast
cancer cells, Mar. Drugs, 2013, 11(1), 81-98.
133
102. P.A. Hwang, X.Z. Lin, K.L. Kuo and F.Y. Hsu, Fabrication and Cytotoxicity of
Fucoidan-Cisplatin Nanoparticles for Macrophage and Tumor Cells, Materials
(Basel), 2017, 10(3), 291.
103. M. Tutuncu, M. Kiray, N. Yonguc and H.A. Bagriyanik, The Protective Effects
of Fucoidan on Cisplatin Induced Testicular Cytotoxicity in Rats, Proceedings,
2018, 2(25), 1554.
104. S.J. Wu, T.M. Don, C.W. Lin and F.L. Mi, Delivery of Berberine Using
Chitosan/Fucoidan-Taurine Conjugate Nanoparticles for Treatment of
Defective Intestinal Epithelial Tight Junction Barrier, Mar. Drugs, 2014,
12(11), 5677-5697.
105. Y.C. Huang and T.H. Kuo, O-Carboxymethyl Chitosan/Fucoidan
Nanoparticles Increase Cellular Curcumin Uptake, Food Hydrocolloids, 2016,
53, 261-269.
106. K.Y. Lu, R. Li, C.H. Hsu, et al., Development of a new type of multifunctional
fucoidan-based nanoparticles for anticancer drug delivery, Carbohydr. Polym.,
2017, 165, 410-420.
107. M.S. Deepika, R. Thangam, T.S. Sheena, et al., A novel rutin-fucoidan complex
based phytotherapy for cervical cancer through achieving enhanced
bioavailability and cancer cell apoptosis, Biomed. Pharmacother., 2019,
109(1), 1181-1195.
108. L. M. Mendonça, C. da S. Machado, C.C.C. Teixeira, et al., Curcumin reduces
cisplatin-induced neurotoxicity in NGF-differentiated PC12 cells,
Neurotoxicology, 2013, 34(1), 205-211.
109. P. Baharuddin, N. Satar, K.S. Fakiruddin, et al., Curcumin improves the efficacy
of cisplatin by targeting cancer stem-like cells through p21 and cyclin D1-
mediated tumour cell inhibition in non-small cell lung cancer cell lines, Oncol.
Rep., 2016, 35(1), 13-25.
110. P. Kumar, C.C. Barua, K. Sulakhiya, and R.K. Sharma, Curcumin ameliorates
cisplatin-induced nephrotoxicity and potentiates its anticancer activity in SD
rats: Potential role of curcumin in breast cancer chemotherapy, Front.
Pharmacol., 2017, 8(132), 1-12.
134
111. Z. Wei, J. Hao, S. Yuan, et al., Paclitaxel-loaded Pluronic P123/F127 mixed
polymeric micelles: formulation, optimization and in vitro characterization, Int.
J. Pharm., 2009, 376(1-2), 176-185.
112. K.D. Thakker, and W.H. Chern, Development and Validation of In Vitro
Release Tests for Semisolid Dosage Forms-Case Study, Dissolut. Technol.,
2003, 10(2), 10-15.
113. W. Voigt, Sulforhodamine B Assay and Chemosensitivity, Methods Mol. Med.,
2005, 110, 39-48.
114. J. Jung, Human tumor xenograft models for preclinical assessment of
anticancer drug development, Toxicol. Res., 2014, 30(1), 1-5.
115. M.M. Tomayko, and C.P. Reynolds, Determination of subcutaneous tumor size
in athymic ( nude ) mice, Cancer Chemother. Pharmacol., 1989, 24(3), 148-154.
116. G.J. Kirkpatrick, J.A. Plumb, O.B. Sutcliffe, et al., Evaluation of anionic half
generation 3.5-6.5 poly(amidoamine) dendrimers as delivery vehicles for the
active component of the anticancer drug cisplatin, J. Inorg. Biochem., 2011,
105(9), 1115-1122.
117. T.B.T. Nguyen, T.T.C. Nguyen, N.Q. Tran, et al., 1H-NMR Spectroscopy as an
Effective Method for Predicting Molecular Weight of Polyaminoamine
Dendrimers and Their Derivatives, International Journal of Polymer Anal.
Charact., 2015, 20(1), 57-68.
118. J.H. Choi, Y.K. Joung, J.W. Bae, et al., Self-Assembled Nanogel of Pluronic-
Conjugated Heparin as a Versatile Drug Nanocarrier, Macromol. Res., 2011,
19(2), 180-188.
119. D.T. Nguyen, V.T. Dinh, N.Q. Tran, et al., Dual Interactions of Amphiphilic
Gelatin Copolymer and Nanocurcumin Improving the Delivery Efficiency of the
Nanogels, Polymers (Basel), 2019, 11(5), 814.
120. L. Hou, W.M.R.N. Udangawa, A. Pochiraju, et al., Synthesis of Heparin-
Immobilized, Magnetically Addressable Cellulose Nanofibers for Biomedical
Applications, ACS Biomater. Sci. Eng., 2016, 2(11), 1905-1913.
135
121. J. Liu, N. Feng, S. Chang, H. Kang, Preparation and characterization of
poly(glycidyl methacrylate) grafted from magnesium hydroxide particles via SI-
ATRP, Appl. Surf. Sci., 2012, 258(16), 6127-6135.
122. N. Rapoport, Physical stimuli-responsive polymeric micelles for anti-cancer
drug delivery, Prog. Polym. Sci., 2007, 32(8-9), 962-990.
123. S. Tu, Y.W. Chen, Y.B. Qiu, et al., Enhancement of Cellular Uptake and
Antitumor Efficiencies of Micelles with Phosphorylcholine, Macromol. Biosci.,
2011, 11(10), 1416-1425.
124. L. Huang, M. Cai, X. Xie, et al., Uptake enhancement of curcumin encapsulated
into phosphatidylcholine-shielding micelles by cancer cells, J. Biomater. Sci.
Polym. Ed., 2014, 25(13), 1407-1424.
125. T.M. Krupka and A.A. Exner, Structural parameters governing activity of
Pluronic triblock copolymers in hyperthermia cancer therapy, Int. J.
Hyperthermia, 2011, 27(7), 663-671.
126. M.Y. Kozlov, N.S. Melik-Nubarov, E.V. Batrakova and A.V. Kabanov,
Relationship between Pluronic Block Copolymer Structure, Critical
Micellization Concentration and Partitioning Coefficients of Low Molecular
Mass Solutes, Macromolecules, 2000, 33(9), 3305-3313.
127. S.R. Croy and G.S. Kwon, Polymeric Micelles for Drug Delivery, Curr. Pharm.
Des., 2006, 12(36), 4669-4684.
128. Zhengzhong Wu, Mengtan cai, Jun cao, Jiaxing Zhang, Xianglin luo. effects of
copolymer component on the properties of phosphorylcholine micelles.
International Journal of Nanomedicine 2017:12 487–500
129. L.M.U. Dutra, M.E.N.P. Ribeiro, I.M. Cavalcante, et al., Binary mixture
micellar systems of F127 and P123 for griseofulvin solubilisation, Polímeros,
2015, 25(5), 433-439.
130. T.T.C. Nguyen, C.K. Nguyen, T.H. Nguyen and N.Q. Tran, Highly lipophilic
pluronics-conjugated polyamidoamine dendrimer nanocarriers as potential
delivery system for hydrophobic drugs, Mater. Sci. Eng. C, 2017, 70(2), 992-
999.
136
131. S. Hann, G. Koellensperger, Z. Stefánka, et al., Application of HPLC-ICP-MS
to speciation of cisplatin and degradation products in water containing different
chloride concentrations and in human urine, J. Anal. At. Spectrom., 2003,
18(11), 1391-1395.
132. A. Sarmah, R.K. Roy, Understanding the preferential binding interaction of
aqua-cisplatins with nucleobase guanine over adenine: a density functional
reactivity theory based approach, RSC Adv., 2013, 3(8), 2822-2830.
133. C. Duan, D. Zhang, F. Wang, et al., Chitosan-g-poly(N-isopropylacrylamide)
based nanogels for tumor extracellular targeting, Int. J. Pharm., 2011, 409(1-
2), 252-259.
134. X. Hou, Y. Pan, H. Xiao,and Jie Liu, Controlled Release of Agrochemicals
Using pH and Redox DualResponsive Cellulose Nanogels, J. Agric. Food
Chem., 2019, 67(24), 6700-6707.
135. W. Zhuang, B. Ma, G. liu, et al., A fully absorbable biomimetic polymeric
micelle loaded with cisplatin as drug carrier for cancer therapy, Regen.
Biomater., 2018, 5(1), 1-8.
136. R. Trummer, W. Rangsimawong, W. Sajomsang, et al., Chitosan-based self-
assembled nanocarriers coordinated to cisplatin for cancer treatment, RSC
Adv., 2018, 8(41), 22967-22973.
137. A. Saisyo, H. Nakamura, J. Fang, et al., pH-sensitive polymeric cisplatin-ion
complex with styrene-maleicacid copolymer exhibits tumor-selective drug
delivery and antitumoractivity as a result of the enhanced permeability and
retention effect, Colloids Surf. B: Biointerfaces, 2016, 138, 128-137.
138. X. Wang, Z. Guo, Targeting and delivery of platinumbased anticancer drugs,
Chem. Soc. Rev., 2013, 42, 202-224.
139. J. Peng, T. Qi , J. Liao, et al., Controlled release of cisplatin from pH-thermal
dual responsive Nanogels, Biomaterials, 2013, 34(34), 8726-8740.
140. H. Gheybi, H. Niknejad and A.A. Entezami, Polymer-metal complex
nanoparticles-containing cisplatin and amphiphilic block copolymer for
anticancer drug delivery, Des. Monomers Polym., 2014, 17( 4), 334-344.
137
141. S. Aryal, C.M.J. Hu, and L. Zhang, Polymer Cisplatin Conjugate Nanoparticles
for Acid-Responsive Drug Delivery, ACS Nano, 2010, 4(1), 251-258.
142. L.H. Dang, M.T. Vu, N.Q. Tran, et al., Effect of ultrasonication on self-
assembled nanostructures formed by amphiphilic positive-charged copolymers
and negative-charged drug, ACS Omega, 2019, 4(3),4540-4552.
143. S.K. Hait and S.P. Moulik, Determination of critical micelle concentration
(CMC) of nonionic surfactants by donor‐acceptor interaction with lodine and
correlation of CMC with hydrophile-lipophile balance and other parameters of
the surfactants, J. Surf. Deterg., 2001, 4(3), 303-309.
144. B.S.M. Zadeh, G. Esfahani, and A. Salimi, Permeability of ciprofloxacin-
loaded polymeric micelles including ginsenoside as P-glycoprotein inhibitor
through a Caco-2 Cells monolayer as an intestinal absorption
model, Molecules, 2018, 23(8), 1904.
145. S.C. Owen, D.P.Y. Chan, and M.S. Shoichet, Polymeric micelle stability, Nano
Today, 2012, 7(1), 53-65.
146. B. Peterson and C. Marzzacco, The Effect of Hydrocarbon Chain Length on the
Critical Micelle Concentration of Cationic Surfactants: An Undergraduate
Physical Chemistry Experiment, Chem. Educator, 2007, 12(2), 80-84.
147. M.Y. Kozlov, N.S. Melik-Nubarov, E.V. Batrakova, and A.V. Kabanov,
Relationship between Pluronic Block Copolymer Structure, Critical
Micellization Concentration and Partitioning Coefficients of Low Molecular
Mass Solutes, Macromolecules, 2000, 33(9), 3305-3313.
148. P.S. Saravana, Y.N. Cho, H.C. Woo and B.S. Chun, Green and efficient
extraction of polysaccharides from brown seaweed by adding deep eutectic
solvent in subcritical water hydrolysis, J. Clean. Prod., 2018, 198(5), 1474-
1484.
149. R.M. Rodriguez-Jasso, S.I. Mussatto, L. Pastrana, et al., Microwave-assisted
extraction of sulfated polysaccharides (fucoidan) from brown seaweed,
Carbohydr. Polym., 2011, 86(3), 1137-1144.
138
150. W. Cho and K. Char, Thermally Induced Mesophase Development in
Ethanesilica Films via Macromolecular Templating Approach, Macromol.
Res., 2009, 17(9), 697-702.
151. Tr. D. Nguyen, A. N. Hoang, Y. N. Utkin, et al., Nanoencapsulation Enhances
Anticoagulant Activity of Adenosine and Dipeptide IleTrp, Nanomaterials,
2019, 9(9), 1191.
152. D.D. Singh-Joy and V.C. McLain, Safety assessment of poloxamers 101, 105,
108, 122, 123, 124, 181, 182, 183, 184, 185, 188, 212, 215, 217, 231, 234, 235,
237, 238, 282, 284, 288, 331, 333, 334, 335, 338, 401, 402, 403, and 407,
poloxamer 105 benzoate, and poloxamer 182 dibenzoate as used in cosmetics,
Int. J. Toxicol., 2008, 7(2), 93-128.
153. E. Giuliano, D. Paolino, M. Fresta and D. Cosco, Mucosal Applications of
Poloxamer 407-Based Hydrogels: An Overview, Pharmaceutics, 2018, 10(3),
159.
154. G. Dumortier, J.L. Grossiord, F. Agnely and J.C. Chaumeil, A review of
poloxamer 407 pharmaceutical and pharmacological characteristics, Pharm.
Re., 2006, 23(12), 2709-2728.
155. W. Zhang, K. Gilstrap, L. Wu, et al., Synthesis and Characterization of
Thermally Responsive Pluronic F127-Chitosan Nanocapsules for Controlled
Release and Intracellular Delivery of Small Molecules, ACS Nano, 2010, 4(11),
6747-6759.
156. N.Tr.T. Huynh, H.L.B. Tran, V.N. Doan, and N.Q. Tran, Thermosensitive
nanocomposite hydrogel based Pluronic-grafted gelatin and nanocurcumin for
enhancing burn healing, Science and Technology Development Journal:
Natural Sciences, 2019, 2(4), 146-154.
157. D.V. Tuan, P.T. Lyna, T.N. Quyen, et al., Nanocurcumin and chitosan-pluronic
F127-based hydrogel for 3rd degree burn treatment, Vietnam J. Sci. Technol.,
2018, 56(5), 594-603.
158. A. Sahu, N. Kasoju, P. Goswami and U. Bora, Encapsulation of Curcumin in
Pluronic Block Copolymer Micelles for Drug Delivery Applications, J.
Biomater. Appl., 2011, 25(6), 619-639.
139
159. X. Chen, L.Q. Zou, J. Niu, et al., The Stability, Sustained Release and Cellular
Antioxidant Activity of Curcumin Nanoliposomes, Molecules, 2015, 20(8),
14293-14311.
160. M.M. Tomayko and C.P. Reynolds, Determination of subcutaneous tumor size
in athymic (nude) mice, Cancer. Chemother. Pharmacol., 1989, 24(3), 148-514.
161. T.U. Ly, N.Q. Tran, T.K.D. Hoang, et al., Pegylated dendrimer and its effect in
fluorouracil loading and release for enhancing antitumor activity, J. Biomed.
Nanotechnol., 2013, 9(2), 213-220.
162. H. Yu, Z. Tang, M. Li, et al., Cisplatin loaded poly (L-glutamic acid)-g-
methoxy poly (ethylene glycol) complex nanoparticles for potential cancer
therapy: preparation, in vitro and in vivo evaluation, J. Biomed. Nanotechnol.,
2016, 12(1), 69-78.
163. M. Li, Z. Tang, Y. Zhang, et al., LHRH-peptide conjugated dextran
nanoparticles for targeted delivery of cisplatin to breast cancer, J. Mater.
Chem. B, 2014, 2(22), 3490-3499.
164. S.Y. Ha, S.Y. Yeo, Y.H. Xuan, and S.H. Kim, The prognostic significance of
cancer-associated fibroblasts in esophageal squamous cell carcinoma, PloS
One, 2014, 9(6), e99955.
165. M.Q. Gao, B.G. Kim, S. Kang, et al., Stromal fibroblasts from the interface
zone of human breast carcinomas induce an epithelial–mesenchymal transition-
like state in breast cancer cells in vitro, J. Cell. Sci., 2010, 123(20), 3507-3514.
166. R. Wilken, M.S. Veena, M.B. Wang, and E.S. Srivatsan, Curcumin: A review
of anti-cancer properties and therapeutic activity in head and neck squamous
cell carcinoma, Mol. Cancer, 2011, 10(1), 12.
140
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Sơ đồ tổng hợp Hep-DAB sử dụng tác chất ghép cặp EDC/NHS
Phụ lục 2: Kết quả phổ FT-IR của F127, NPC-F127-NPC và NPC-F127-Ami
141
Phụ lục 3: Kết quả phổ FT-IR của F87, NPC-F87-NPC và NPC-F87-Ami
Phụ lục 4: Kết quả phổ FT-IR của F68, NPC-F68-NPC và NPC-F68-Ami
142
Phụ lục 5: Kết quả phân tích phổ 1H-NMR của NPC-F127-NPC
Phụ lục 6: Kết quả phổ 1H-NMR của NPC-F87-NPC
143
Phụ lục 7: Kết quả phổ 1H-NMR của NPC-F68-NPC
Phụ lục 8: Kết quả phổ 1H-NMR của NPC-F127-Ami
144
Phụ lục 9: Kết quả phổ 1H-NMR của NPC-F87-Ami
Phụ lục 10: Kết quả phổ 1H-NMR của NPC-F68-Ami
145
Phụ lục 11: Kết quả phân tích phổ FT-IR của Hep-F127
Phụ lục 12: Kết quả phân tích phổ FT-IR của Hep-F87
146
Phụ lục 13: Kết quả phân tích phổ FT-IR của Hep-F68
Phụ lục 14: Kết quả phổ 1H-NMR của Hep-F127
147
Phụ lục 15: Kết quả phổ 1H-NMR của Hep-F87
Phụ lục 16: Kết quả phổ 1H-NMR của Hep-F68
148
Phụ lục 17: Phổ FT-IR của Hep-F127-Cis, Hep-F87-Cis và Hep-F68-Cis
Phụ lục 18: Phổ FT-IR của Hep-F127-CisOH, Hep-F87-CisOH, Hep-F68-CisOH
149
Phụ lục 27Phụ lục 19: Ảnh TEM của (a): pluronic P123, (b): Hep-P123 (1:3),
(c): Hep-P123 (1:7), (d): Hep-P123 (1:10), (e): Hep-P123 (1:14)
150
151
Phụ lục 20: Ảnh TEM của (a): F127; (b): Hep-F127 (1:3); (c): Hep-F127 (1:14);
(d): Hep-F87 (1:3); (e): Hep-F87 (1:14); (f): Hep-F68 (1:3); (g): Hep-F68 (1:14)
152
153
154
155
Phụ lục 21: Ảnh TEM của Fud-P123
Phụ lục 22: Ảnh TEM của Hep-F127-CisOH-Cur
156
Phụ lục 23: Kết quả xác định hoạt tính của Hep-P123-Cis và Hep-P123-CisOH
Phần trăm gây độc tế bào MCF-7 của các mẫu ở các nồng độ khác nhau (%)
Mẫu Nồng độ
(µg/mL)
Phần trăm gây độc tế bào (%)
Lần 1 Lần 2 Lần 3 TB ± ĐLC
Hep-P123-Cis
100 93,28 94,64 94,56 94,16 ± 0,76
50 79,11 81,07 79,66 79,95 ± 1,01
25 61,36 63,27 58,93 61,18 ± 2,18
10 41,27 49,18 49,24 46,56 ± 4,58
5 35,06 36,21 28,26 33,18 ± 4,30
2.5 20,16 17,11 20,42 19,23 ± 1,84
Hep-P123-CisOH
25 79,97 72,89 72,35 75,07 ± 4,25
10 55,44 50,39 52,76 52,86 ± 2,53
5 38,08 36,69 38,36 37,71 ± 0,89
2,5 26,20 25,23 24,86 25,43 ± 0,70
1,0 1,57 9,80 13,42 8,26 ± 6,07
Giá trị IC50 của mẫu trên MCF-7
Mẫu IC50 (µg/mL) trên MCF-7
Lần 1 Lần 2 Lần 3 TB ± ĐLC
Hep-P123-Cis 12,29 10,85 12,18 11,77 ± 0,80
Hep-P123-CisOH 7,737 9,088 8,619 8,48 ± 0,69
Phần trăm gây độc tế bào trên nguyên bào sợi (%)
Mẫu Phần trăm gây độc tế bào trên nguyên bào sợi (%)
Lần 1 Lần 2 Lần 3 TB ± ĐLC
Hep-P123 8,02 12,20 9,92 10,04 ± 2,09
157
Phụ lục 24: Số liệu nhả thuốc của Hep-P123-CisOH
pH = 7,4
Thời gian (giờ) Mẫu 1 Mẫu 2 Mẫu 3 Trung bình Độ lệch chuẩn
0,25 32,35 29,09 27,10 29,51 2,65
0,5 41,00 37,80 36,05 38,28 2,51
1 55,80 51,05 50,00 52,28 3,09
3 63,80 55,23 54,00 57,68 5,34
7 66,90 62,61 61,10 63,54 3,01
12 69,01 62,73 61,00 64,25 4,21
24 70,48 64,10 63,03 65,87 4,03
pH = 5,5
Thời gian (giờ) Mẫu 1 Mẫu 2 Mẫu 3 Trung bình Độ lệch chuẩn
0,25 37,50 34,01 34,00 35,17 2,02
0,5 46,88 42,58 43,02 44,16 2,37
1 58,93 52,41 54,33 55,22 3,35
3 72,41 63,77 66,12 67,43 4,47
7 75,86 69,74 67,89 71,16 4,17
12 79,85 72,55 71,09 74,50 4,69
24 79,63 73,01 72,14 74,93 4,10
158
Phụ lục 25: Kết quả xác định hoạt tính của Fud-P123-Cis và Fud-P123-CisOH
Phần trăm gây độc tế bào MCF-7 của các mẫu ở các nồng độ khác nhau (%)
Mẫu Nồng độ
(µg/mL)
Phần trăm gây độc tế bào (%)
Lần 1 Lần 2 Lần 3 TB ± ĐLC
Fud-P123-Cis
100 83,93 85,31 86,92 85,38 ± 1,50
50 63,51 57,59 61,48 60,86 ± 3,01
25 39,40 41,77 36,22 39,13 ± 2,78
10 22,50 20,41 27,72 23,55 ± 3,76
5 22,16 18,70 16,67 19,18 ± 2,78
Fud-P123-CisOH
100 85,71 87,90 87,61 87,08 ± 1,19
50 74,68 75,72 69,44 73,28 ± 3,36
25 52,42 50,79 51,68 51,63 ± 0,82
10 31,56 33,61 27,21 30,79 ± 3,27
5 23,57 21,77 19,93 21,75 ± 1,82
Giá trị IC50 của mẫu trên MCF-7
Mẫu IC50 (µg/mL) trên MCF-7
Lần 1 Lần 2 Lần 3 TB ± ĐLC
Fud-P123-Cis 29,37 31,39 30,07 30,28 ± 1,03
Fud-P123-CisOH 19,66 19,49 22,39 20,51 ± 1,63
Phần trăm gây độc tế bào trên nguyên bào sợi (%)
Mẫu Phần trăm gây độc tế bào trên nguyên bào sợi (%)
Lần 1 Lần 2 Lần 3 TB ± ĐLC
Fud-P123 17,02 17,48 17,25 17,25 ± 0,02
159
Phụ lục 26: Số liệu nhả thuốc của Fud-P123-CisOH (%Cis)
pH = 7,4
Thời gian (giờ) Mẫu 1 Mẫu 2 Mẫu 3 Trung bình Độ lệch chuẩn
0,25 9,53 10,20 8,91 9,55 0,65
0,5 16,03 18,00 14,10 16,04 1,95
1 22,14 24,30 22,70 23,05 1,12
3 30,01 32,66 29,00 30,56 1,89
7 33,72 33,04 31,17 32,64 1,32
12 36,26 35,28 33,07 34,84 1,63
24 36,90 35,80 33,36 35,35 1,81
pH = 5,5
Thời gian (giờ) Mẫu 1 Mẫu 2 Mẫu 3 Trung bình Độ lệch chuẩn
0,25 17,36 14,01 15,11 15,49 1,71
0,5 23,00 19,03 20,34 20,79 2,02
1 28,08 25,90 25,53 26,50 1,38
3 37,11 33,00 36,08 35,40 2,14
7 41,22 39,05 41,02 40,43 1,20
12 43,80 41,67 41,17 42,21 1,40
24 44,88 42,76 42,18 43,27 1,42
160
Phụ lục 27: Kết quả thử độc tính tế bào MCF-7
Tên mẫu Nồng độ Phần trăm ức chế DLC
Cisplatin
10 93,86 92,86 92,15 92,97 0,85
7,5 91,05 94,77 92,88 92,90 1,86
5 89,78 90,11 90,64 90,17 0,43
2,5 84,67 86,73 84,67 85,36 1,19
0,5 49,93 49,93 49,93 49,93 0
Hep-
F127-
CisOH
%I
C (ppm) Lần 1 Lần 2 Lần 3 TB DLC
100 88,13 87,46 90,11 88,57 1,38
50 78,95 77,61 78,99 78,52 0,79
25 67,34 64,46 62,79 64,86 2,30
10 48,58 47,28 48,74 48,20 0,80
5 35,49 31,63 31,93 33,02 2,15
IC50 (mg/mL) 10.40 11.75 11.57 11.24 0.73
Hep-
F127-
CisOH-
Cur
%I
C (ppm) Lần 1 Lần 2 Lần 3 TB DLC
100 97,56 92,25 96,16 95,32 2,75
50 91,04 92,71 92,70 92,15 0,96
25 67,72 69,58 70,80 69,37 1,55
10 46,00 40,71 41,45 42,72 2,87
5 32,46 21,97 24,66 26,36 5,45
1 13,45 6,40 7,52 9,12 3,79
IC50 (mg/mL) 10,35 12,67 12,06 11,69 1,20
Lần 1 Lần 2 Lần 3 TB DLC
Hep-
F127
(ppm) %I
200 -2,05 -8,69 -4,43 -5,06 3,37
100 0,29 -3,71 -4,12 -2,51 2,44
50 4,00 0,87 -0,80 1,36 2,43
161
Phụ lục 28: Kết quả khảo sát khối lượng chuột (g)
Nghiệm thức 1: NaCl 0,9%
Ngày Con 1 Con 2 Con 3 Con 4 Con 5 TB DLC
1 30,00 34,00 31,00 29,58 33,75 31,67 2,08
2 29,30 32,60 31,78 32,98 32,67 31,87 1,50
3 30,55 34,00 29,20 33,30 33,20 32,05 2,07
4 30,10 34,05 31,70 34,00 30,00 31,97 1,99
5 29,25 35,12 33,25 33,67 31,10 32,48 2,31
6 30,30 34,50 32,00 33,85 30,45 32,22 1,92
7 31,60 33,20 32,00 32,00 32,00 32,16 0,61
8 30,14 34,39 30,80 30,34 30,00 31,13 1,85
9 31,00 34,00 30,85 31,00 30,42 31,45 1,44
10 31,00 35,40 29,80 30,00 29,60 31,16 2,43
11 31,20 34,10 30,00 30,50 30,30 31,22 1,67
12 31,00 33,50 31,38 30,00 30,26 31,23 1,39
13 31,20 34,50 33,00 29,00 30,00 31,54 2,23
14 31,38 34,70 32,26 29,30 29,80 31,49 2,15
Nghiệm thức 2: Hep-F127
Ngày Con 1 Con 2 Con 3 Con 4 Con 5 TB DLC
1 29,00 33,20 29,70 27,00 32,00 30,18 2,46
2 31,30 32,90 31,78 29,80 31,00 31,36 1,13
3 30,83 33,56 31,15 29,12 30,70 31,07 1,60
4 30,67 34,28 31,28 28,63 30,00 30,97 2,10
5 31,90 34,70 30,00 29,37 29,10 31,01 2,33
6 31,16 33,06 28,20 28,1 30,12 30,13 2,09
7 31,78 33,64 28,86 29,13 28,15 30,31 2,31
8 30,95 33,12 27,69 29,73 29,87 30,27 1,98
9 29,24 31,00 28,67 29,70 30,00 29,72 0,87
10 29,00 31,90 28,30 30,38 29,00 29,72 1,44
162
11 28,84 33,00 31,22 29,00 28,00 30,01 2,05
12 30,00 32,67 31,10 28,90 30,00 30,53 1,43
13 31,33 31,73 30,92 29,05 31,74 30,95 1,12
14 33,12 32,75 28,96 28,35 31,65 30,97 2,19
Nghiệm thức 3: Cisplatin
Ngày Con 1 Con 2 Con 3 Con 4 Con 5 TB DLC
1 28,00 33,92 32,20 27,18 32,10 30,68 2,93
2 26,13 34,42 31,56 26,52 30,00 29,73 3,49
3 27,28 34,00 31,84 27,13 29,49 29,95 2,97
4 25,91 32,50 29,87 26,86 27,17 28,46 2,69
5 25,82 30,80 28,71 25,16 26,23 27,34 2,35
6 25,75 29,46 28,41 23,89 24,67 26,44 2,40
7 25,06 29,00 28,11 21,75 23,00 25,38 3,14
8 24,00 28,06 27,79 21,00 21,66 24,50 3,32
9 23,89 26,56 27,65 20,93 21,58 24,12 2,96
10 19,46 25,70 25,50 19,50 21,31 22,29 3,11
Nghiệm thức 4: Hep-F127-CisOH
Ngày Con 1 Con 2 Con 3 Con 4 Con 5 TB DLC
1 33,60 30,92 30,00 28,52 28,46 30,30 2,12
2 31,18 28,21 29,48 25,18 26,30 28,07 2,41
3 28,54 26,28 26,86 24,07 24,54 26,06 1,81
4 29,36 28,95 27,47 24,20 25,82 27,16 2,16
5 28,15 28,04 26,36 24,08 23,30 25,99 2,23
6 26,33 25,74 24,81 23,00 23,86 24,75 1,35
7 24,11 23,64 24,35 24,06 24,12 24,06 0,26
8 22,10 22,46 23,30 23,00 23,05 22,78 0,49
9 21,30 19,01 21,00 23,60 22,75 21,53 1,76
10 22,01 20,17 19,85 22,62 22,40 21,41 1,30
11 22,00 18,40 20,11 22,30 21,91 20,94 1,66
12 20,54 16,45 19,76 21,00 21,30 19,81 1,97
163
13 17,71 18,25 18,90 17,78 19,04 19,30 0,62
14 17,50 18,07 18,60 17,12 18,67 18,00 0,68
Nghiệm thức 5: Hep-F127-CisOH-Cur
Ngày Con 1 Con 2 Con 3 Con 4 Con 5 TB DLC
1 28,98 34,10 31,79 33,02 28,65 31,31 2,42
2 28,84 34,21 31,54 33,66 28,74 31,40 2,58
3 30,48 34,90 32,93 33,26 30,33 32,38 1,95
4 30,49 35,91 32,45 32,47 31,93 32,65 1,99
5 29,08 35,46 32,70 33,93 28,06 31,85 3,17
6 32,86 35,24 29,72 33,40 30,59 32,36 2,22
7 32,60 34,08 29,70 32,95 29,51 31,77 2,05
8 30,35 31,89 30,06 32,40 28,07 30,55 1,71
9 31,85 32,57 28,03 33,22 25,84 30,30 3,21
10 28,92 29,87 28,8 29,23 25,70 28,50 1,62
11 29,97 28,34 26,99 27,46 24,53 27,46 1,99
12 29,38 27,28 25,61 26,64 23,60 26,50 2,13
13 26,16 25,86 25,23 23,73 23,00 24,80 1,37
14 23,50 23,39 22,70 20,29 20,12 22,00 1,67
164
Phụ lục 29: Khảo sát kích thước khối u qua các ngày
Nghiệm thức 1: NaCl 0,9%
Ngày Con 1 Con 2 Con 3 Con 4 Con 5
TB d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2
1 6,00 6,45 124,81 6,84 6,36 138,34 6,34 6,06 116,41 6,45 6,00 116,10 6,78 6,56 145,88 128,31
4 6,12 6,26 119,91 6,39 6,48 134,16 6,16 6,18 117,63 6,67 6,30 132,37 7,04 6,70 158,01 132,42
7 6,22 6,33 124,61 6,48 6,70 145,44 6,28 6,40 128,61 6,70 6,28 132,12 6,97 6,90 165,92 139,34
10 6,46 6,34 129,83 6,60 6,80 152,59 6,40 6,62 140,24 6,74 6,30 133,76 7,06 7,04 174,95 146,27
14 6,66 6,46 138,97 6,71 6,94 161,59 6,62 6,83 154,41 7,04 6,67 156,60 7,34 7,30 195,57 161,43
Nghiệm thức 2: Hep-F127
Ngày Con 1 Con 2 Con 3 Con 4 Con 5
TB d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2
1 6,00 7,44 166,06 7,34 6,54 156,97 6,78 6,58 146,77 6,80 6,48 142,77 6,82 6,56 146,74 151,86
4 6,12 7,26 161,29 7,39 6,58 159,98 6,90 6,67 153,49 6,97 6,60 151,81 7,04 6,70 158,01 156,91
7 6,30 7,46 175,30 7,40 6,70 166,09 7,08 6,84 165,62 7,22 6,90 171,87 7,15 6,80 165,31 168,84
10 6,48 7,40 177,42 7,46 6,80 172,48 7,00 6,90 166,64 7,00 7,02 172,48 7,06 6,91 168,55 171,51
14 6,78 7,35 183,14 7,26 6,99 177,36 6,93 7,17 178,13 7,16 7,10 180,47 7,36 6,88 174,19 178,66
165
Nghiệm thức 3: Cisplatin
Ngày Con 1 Con 2 Con 3 Con 4 Con 5
TB d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2
1 3,72 2,76 14,17 3,76 4,54 38,75 6,88 6,48 144,45 4,72 5,16 62,84 3,72 4,38 35,68 59,18
4 3,36 3,03 15,42 3,74 4,40 36,20 6,90 6,24 134,33 4,40 5,00 55,00 2,96 3,38 16,91 51,57
7 2,94 2,72 10,88 2,76 4,12 23,42 6,18 5,60 96,90 4,72 4,54 48,64 2,36 3,71 16,24 39,22
10 2,72 2,76 10,36 2,80 4,02 22,62 6,16 5,68 99,37 4,54 4,63 48,66 2,38 3,72 16,47 39,50
Nghiệm thức 4: Hep-F127-CisOH
Ngày Con 1 Con 2 Con 3 Con 4 Con 5 TB
d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2
1 5,86 5,16 78,01 4,04 5,16 53,78 5,00 3,82 36,48 5,90 6,16 111,94 4,52 4,30 41,79 64,40
4 5,70 5,21 77,36 4,10 5,00 51,25 5,06 3,94 39,27 6,00 5,80 100,92 4,44 4,38 42,59 62,28
7 5,72 4,90 68,67 3,74 4,90 44,90 4,77 3,66 31,95 5,90 5,62 93,17 4,74 4,06 39,07 55,55
10 5,50 5,01 69,03 3,66 4,74 41,12 4,94 3,74 34,55 4,54 4,63 48,66 4,12 3,72 28,51 44,37
14 5,47 4,94 66,74 3,74 4,54 38,54 5,01 3,53 31,21 5,14 3,94 39,90 4,06 3,54 25,44 40,37
166
Nghiệm thức 5: Hep-F127-CisOH-Cur
Ngày Con 1 Con 2 Con 3 Con 4 Con 5
TB d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2 d1 d2 axb2/2
1 4,06 4,48 40,74 4,48 5,16 59,64 4,88 4,52 49,85 4,90 3,90 37,26 6,16 5,90 107,21 58,94
4 3,74 4,24 33,62 4,90 5,12 64,23 4,66 4,04 38,03 4,06 3,00 18,27 5,38 4,38 51,61 41,15
7 3,01 3,70 20,60 3,74 4,04 30,52 4,27 3,58 27,36 3,92 3,00 17,64 5,48 4,02 44,28 28,08
10 2,53 2,93 10,86 3,30 3,85 24,46 4,12 3,74 28,81 4,04 2,52 12,83 4,02 3,72 27,82 20,95
14 2,76 2,54 8,90 3,08 3,66 20,63 3,99 3,54 25,00 4,02 2,24 10,09 3,50 2,76 13,33 15,59