a VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH...
Transcript of a VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH...
a
VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ
CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
ĐIỂM BÁO
Ngày 02 tháng 8 năm 2018
Bộ, ngành
1. Sửa đổi Luật quản lý thuế
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường hoàn thành 11 thủ tục hành chính trong lĩnh vực môi trường và biến đổi khí hậu
3. Nghị định 87/2018/NĐ-CP: Khắc phục vướng mắc trong kinh doanh khí
4. Sửa quy định về kiểm tra, giám sát hải quan
5. Nỗ lực giảm thời gian chờ khám, chữa bệnh
6. Con đường dài nhất, sợi dây rút mãi không hết
7. Nghị định mới về kinh doanh gas: Lúng túng đến phút chót
8. Một dòng của bộ trưởng có thể tạo ‘rừng đinh’
9. Nhận diện những thách thức phát triển ngân hàng số
10. Để doanh nghiệp đầu tư sâu vào nông nghiệp
11. Tuyên truyền chủ xe thực hiện đúng quy định kinh doanh vận tải
12. Chính phủ thúc đẩy cắt giảm điều kiện kinh doanh
13. Bà Phạm Chi Lan: "Vài năm đợi bỏ điều kiện kinh doanh đủ giết hàng vạn doanh nghiệp"
14. Việt Nam xếp hạng 39/160 nước về Chỉ số hiệu quả dịch vụ logistics
Địa phương
15. Tối ưu hóa dịch vụ công ở An Khánh
16. Bảo hiểm xã hội Hà Nội: Đồng hành cùng Thủ đô phát triển
17. Triển khai kế hoạch thực hiện tiêu chí đánh giá chính quyền điện tử cấp thành phố và phường- xã
18. Đồng Tháp thí điểm mô hình chuyển giao các dịch vụ hành chính công
1. Sửa đổi Luật quản lý thuế
Bộ Tài chính đang dự thảo Luật quản lý thuế (sửa đổi) nhằm đổi
mới các nội dung và điều luật theo hướng gia tăng các quy định cải
cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi cho người nộp
thuế.
Ảnh minh họa
Bộ Tài chính cho biết, Luật quản lý thuế được Quốc hội thông qua ngày
29/11/2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007 và được sửa đổi, bỏ
sung 3 lần tại: Luật số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012; Luật số
71/2014/QH13 ngày 26/11/2014 và Luật số 106/2016/QH13 ngày
6/4/2016. Sau hơn 10 năm thực hiện, Luật quản lý thuế đã đạt được
những kết quả quan trọng.
Cụ thể, Luật quản lý thuế đã tạo khung pháp lý cơ bản, thống nhất chính
sách quản lý thu thuế, đồng bộ với các luật thuế và thông lệ quốc tế, tạo
điều kiện cho công tác quản lý thuế thay đổi phương thức quản lý theo
cơ chế người nộp thuế tự tính, tự khai, tự nộp thuế và tự chịu trách
nhiệm về thực hiện nghĩa vụ thuế theo pháp luật.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Luật quản lý thuế cũng đã bộc lộ
những hạn chế, bất cập. Đáng chú ý trong số đó là: Quy định về chính
sách quản lý thuế chưa thay đổi kịp với sự thay đổi của chính sách tại
từng sắc thuế. Quy định về việc xây dựng, ứng dụng CNTT vào công tác
quản lý thuế đã được ban hành nhưng chưa theo kịp với thực tiễn phát
triển của giao dịch thương mại toàn cầu…
Sự cần thiết ban hành Luật quản lý thuế (sửa đổi)
Theo Bộ Tài chính, việc nghiên cứu sửa đổi Luật quản lý thuế xuất phát
từ những lý do sau: Một là, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 07-NQ/TW
của Bộ Chính trị đã đề ra chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà
nước, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền
vững. Theo đó, để góp phần chặn đứng đà giảm sút của quy mô thu
ngân sách so với tổng sản phẩm trong nước (GDP) thì cần thiết phải
sửa đổi, bổ sung Luật quản lý thuế để bao quát toàn bộ các nguồn thu,
mở rộng cơ sở thu.
Hai là, từ yêu cầu của cải cách hành chính, cải cách thủ tục quản lý thuế
hướng tới hoạt động quản lý thuế thống nhất, công khai, minh bạch, đơn
giản, dễ hiểu, dễ thực hiện hơn, đồng thời tạo cơ sở pháp lý để nâng
cao hiệu quả, hiệu lực công tác thuế để phòng, chống trốn thuế, thất thu
và nợ thuế.
Ba là, Luật quản lý thuế hiện hành, mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung 3
lần, tạo tiền đề áp dụng quản lý thuế điện tử song chưa đảm bảo được
cơ sở pháp lý cho việc chuyển hẳn sang áp dụng rộng rãi phổ biến.
Trước sự phát triển nhanh của nền kinh tế, hội nhập quốc tế, hoạt động
mua bán bằng phương thức điện tử phát triển với tốc độ ngày càng
nhanh, việc khai thuế, đăng ký nộp thuế điện tử của doanh nghiệp đã
được áp dụng phổ biến. 100% doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu đều đã thực hiện các thủ tục hải quan điện tử. Hạ tầng công nghệ
thông tin của cơ quan thuế đã đảm bảo kết nối từ Tổng cục (cấp trung
ương) tới 63 cục thuế và 100% các chi cục thuế trên cả nước. Do đó,
cần thiết sửa đổi Luật quản lý thuế hướng tới mục tiêu tạo khung pháp lý
để áp dụng phổ biến quản lý thuế điện tử phục vụ có hiệu quả sự phát
triển của hoạt động kinh tế.
Bộ Tài chính cũng cho biết, mục đích của việc xây dựng dự án Luật
quản lý thuế (sửa đổi) là nhằm xây dựng ngành thuế Việt Nam hiện đại,
hiệu lực, hiệu quả, công tác quản lý thuế thống nhất, minh bạch, đơn
giản, dễ hiểu, dễ thực hiện trên cở sở các nền tảng cơ bản: Thể chế
chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản,
khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng,
liêm chính; ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích
hợp, tự động hóa cao.
Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.
Theo baochinhphu.vn
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường hoàn thành 11 thủ tục hành chính trong lĩnh vực môi trường và biến đổi khí hậu
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tính đến nay, Bộ
đã hoàn thành triển khai đối với 11 thủ tục hành chính (TTHC) trong
lĩnh vực môi trường và biến đổi khí hậu dưới hình thức dịch vụ
công trực tuyến mức độ 4 và kết nối với Cổng thông tin Một cửa
quốc gia – một cửa ASEAN.
Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên phát biểu tại cuộc họp. Ảnh:
Hưng Nam
Ngày 01/8, tại Hà Nội, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) đã họp
nghe Báo cáo thực hiện kế hoạch cơ chế hải quan một cửa quốc gia -
một cửa ASEAN đến năm 2020.
Theo báo cáo của Cục Công nghệ thông tin và dữ liệu tài nguyên môi
trường (Bộ TN&MT), Cục đã chủ trì xây dựng trình Bộ phê duyệt dự án
“Triển khai cơ chế một cửa quốc gia và cơ chế một cửa ASEAN tại Bộ
TN&MT (giai đoạn 2016 – 2020); xây dựng và trình Bộ ban hành
Chương trình hành động thực hiện Kế hoạch tổng thể triển khai Cơ chế
một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN giai đoạn 2016 – 2020 thuộc
phạm vi Bộ.
Đồng thời, Cục đã chủ trì, phối hợp với các đơn vị rà soát, xây dựng
danh mục 18 TTHC thuộc phạm vi quản lý của Bộ (trong lĩnh vực môi
trường và biến đổi khí hậu) được thực hiện qua Cơ chế một cửa quốc
gia giai đoạn 2016 – 2020. Đến nay, đã hoàn thành triển khai đối với 11
TTHC dưới hình thức dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 và kết nối với
Cổng thông tin Một cửa quốc gia, trong đó 04 TTHC đã chính thức kết
nối từ năm 2016, 07 TTHC chính thức kết nối từ ngày 31/7/2018. Với 04
TTHC đã kết nối chính thức từ năm 2016, đã tiếp nhận 212 hồ sơ và trả
kết quả giải quyết của 139 hồ sơ, còn 73 hồ sơ đang xử lý.
Bên cạnh đó, Cục đã phối hợp với Tổng cục Môi trường quét, ký số xác
thực cho toàn bộ giấy phép nhập khẩu phế liệu còn hiệu lực, cập nhật
thông tin vào cơ sở dữ liệu, công khai kết quả lên Cổng thông tin điện tử
của Bộ. Cục đang phối hợp với Tổng cục Hải quan xây dựng cơ chế và
giải pháp kỹ thuật để cung cấp thông tin về kết quả cấp phép của Bộ Tài
nguyên và Môi trường liên quan đến xuất nhập khẩu.
Theo ông Nguyễn Hưng Thịnh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi
trường, các TTHC trong lĩnh vực môi trường triển khai theo cơ chế một
cửa quốc gia, một cửa ASEAN thuộc 04 nhóm chính liên quan đến đăng
ký vận chuyển xuyên biên giới chất thải nguy hại; xác nhận đủ điều kiện
về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản
xuất; vận chuyển quá cảnh sinh vật biến đổi gen; điều kiện về bảo vệ
môi trường đối với tàu biển nhập khẩu để phá dỡ. Tổng cục đã phối hợp
với Cục Công nghệ thông tin và Dữ liệu tài nguyên môi trường triển khai
thực hiện cung cấp TTHC theo cơ chế một cửa quốc gia, một cửa
ASEAN, trong đó 08 TTHC đã chính thức kết nối tính đến ngày
31/7/2018.
Để giải quyết việc số lượng hồ sơ theo hình thức trực tuyến còn ít, ông
Nguyễn Hưng Thịnh cho biết, Tổng cục đang phối hợp với địa phương
để điều tra, khảo sát các doanh nghiệp để tìm hiểu nguyên nhân chưa
lựa chọn hình thức trực tuyến. Đồng thời, Tổng cục sẽ biên soạn tài liệu
hướng dẫn kỹ thuật chi tiết để hướng dẫn và khuyến khích các doanh
nghiệp thực hiện dịch vụ công trực tuyến.
Phát biểu tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên đề nghị
Cục Công nghệ thông tin và Dữ liệu tài nguyên môi trường phối hợp với
Tổng cục Môi trường và các đơn vị liên quan tiếp tục triển khai cung cấp
thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN trong
giai đoạn 2018 – 2020, nhất là có 03 thủ tục hành chính cấp tỉnh về nhập
khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất phải được liên thông để kiểm
soát thường xuyên.
Nhấn mạnh vấn đề nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất được
Chính phủ, doanh nghiệp và người dân hết sức quan tâm, Thứ trưởng
đề nghị, cùng với việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến theo cơ chế một
cửa quốc gia, một cửa ASEAN, Tổng cục Môi trường cần tiếp tục hoàn
thiện bộ quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường đối với danh mục phế liệu
được nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, vừa đảm bảo tốt công tác
bảo vệ môi trường vừa đảm bảo yêu cầu về phát triển sản xuất./.
Theo dangcongsan.vn
3. Nghị định 87/2018/NĐ-CP: Khắc phục vướng mắc trong kinh doanh khí
Ngày 31/7/2018, Vụ Pháp chế và Cục Kỹ thuật An toàn và Môi
trường (Bộ Công Thương) phối hợp tổ chức hội nghị Phổ biến Nghị
định số 87/2018/NĐ-CP ngày 15/6/2018 của Chính phủ về kinh
doanh khí cho các cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp liên
quan đến kinh doanh khí chịu sự điều chỉnh của nghị định.
Tham dự hội nghị có đại diện Vụ Pháp chế, Cục Kỹ thuật An toàn và môi
trường, Vụ Thị trường trong nước và đại diện các Sở Công Thương,
quản lý thị trường địa phương và một số doanh nghiệp kinh doanh khí
miền Bắc.
Tại hội nghị, đại diện Vụ Pháp chế, Vụ Thị trường trong nước, Cục Kỹ
thuật An toàn và môi trường đã giới thiệu những điểm mới của Nghị định
số 87/2018/NĐ-CP; Quy định về Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh và
Quy định về an toàn trong kinh doanh khí theo Nghị định số 87/2018/NĐ-
CP.
Nghị định số 87/2018/NĐ-CP ban hành ngày 15/6/2018 và có hiệu lực kể
từ ngày 1/8/2018 với nhiều điểm mới thay thế Nghị định số 19/2016/NĐ-
CP về kinh doanh khí có nhiều hạn chế cản trợ hoạt động của doanh
nghiệp.
Đông đảo đại diện các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tham dự hội nghị
Ông Phạm Thành Trung – Phó trưởng Phòng Xây dựng pháp luật (Vụ
Pháp chế) cho biết, Nghị định số 87/2018/NĐ-CP ra đời đã khắc phục
được những khó khăn, vướng mắc trong Nghị định số 19/2016/NĐ-CP
như: Quy định quy mô dung tích các bồn chứa, chai chứa LPG; thương
nhân đầu mối phải sở hữu cầu cảng, trạm nạp, trạm cấp, chai chứa
LPG; bắt buộc các thương nhân kinh doanh khí hóa lỏng (LPG) phải
thiết lập hệ thống phân phối; chưa có các quy định về an toàn đối với
các cơ sở vật chất của thương nhân kinh doanh trong các khâu hoạt
động kinh doanh khí.
Theo đó, Nghị định 87/2018/NĐ-CP quy định các điều kiện tạo thuận lợi
hơn cho doanh nghiệp tiếp cận. Cụ thể, như: thương nhân xuất, nhập
khẩu khí chỉ cần có cầu cảng hoặc thuê cầu cảng, có bồn chứa khí hoặc
chai chứa LPG đảm bảo các quy định về an toàn, phòng cháy và chữa
cháy theo quy định; cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện với thương nhân
xuất, nhập khẩu khí; thương nhân kinh doanh mua bán khí; thương nhân
có trạm nạp khí (nạp vào xe bồn, chai LPG, phương tiện vận tải); cửa
hàng bán lẻ LPG chai; thương nhân sản xuất, sửa chữa chai LPG;
thương nhân sản xuất chai LPG mini.
Đánh giá về điểm mới về điều kiện kinh doanh theo Nghị định
87/2018/NĐ-CP, ông Phạm Thành Trung nhấn mạnh, nghị định đã cắt
giảm và đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh, bỏ các điều kiện về quy
mô tối thiểu, bỏ bắt buộc phải có hệ thông phân phối, quy định bắt buộc
về sở hữu, đồng sở hữu đối với doanh nghiệp kinh doanh khí…
Nghị định 87/2018/NĐ-CP đã khắc phục các thủ tục hành chính còn
nhiều và rườm rà, đang là rào cản cho sự phát triển của doanh nghiệp,
không còn phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 35/NQ-
CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020.
Nghị định 87 có nhiều điểm mới cởi trói về điều kiện kinh doanh cho
doanh nghiệp
Thời gian qua, Bộ Công Thương đã rất lắng nghe các ý kiến đóng góp từ
cộng đồng doanh nghiệp về thủ tục chính sách nhằm cải cách thể chế
toàn ngành một cách sâu, rộng. Bộ Công Thương cũng liên tiếp tổ chức
các buổi đối thoại trực tiếp để tháo gỡ những thủ tục, rào cản kinh doanh
cho các doanh nghiệp trên tinh thần thượng tôn pháp luật.
Phát biểu tại hội nghị, ông Nguyễn Anh Sơn – Vụ trưởng Vụ Pháp chế
cho biết, Nghị định 87/2018/NĐ-CP tiếp tục cải cách thủ tục hành chính
theo hướng giảm bớt các giấy tờ thủ tục hành chính liên quan đến cấp
các giấy chứng nhận đủ điều kiện cho thương nhân kinh doanh khí.
Đồng thời giảm thời hạn cấp các Giấy chứng nhận đủ điều kiện từ 30
ngày làm việc xuống còn 15 ngày trên tinh thần phương án tổng thể đơn
giản hóa thủ tục hành chính của Bộ năm 2017 đã được phê duyệt.
Để nâng cao hiệu quản quản lý nhà nước, ý thức tuân thủ pháp luật các
các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh khí, ông Nguyễn Anh Sơn cho
hay, trong năm nay và các năm tiếp theo Bộ Công Thương sẽ đẩy mạnh
công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật đến các cơ quan quản lý nhà
nước và cộng đồng doanh nghiệp và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của
Bộ.
Sau hội nghị này tại miền Bắc, ngày 2/8/2018 Vụ Pháp chế tiếp tục tổ
chức hội nghị phổ biến Nghị định 87/NĐ-CP tới các cơ quan quản lý nhà
nước, doanh nghiệp miền Nam tại Bình Dương.
Theo doanhnghiephoinhap.vn
4. Sửa quy định về kiểm tra, giám sát hải quan
Bộ Tài chính đang dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 68/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định về điều
kiện kinh doanh hàng miễn thuế, kho bãi, địa điểm làm thủ tục hải
quan, tập kết, kiểm tra, giám sát hải quan.
Bộ Tài chính cho biết, ngày 01/07/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 68/2016/NĐ-CP quy định về điều kiện kinh doanh hàng miễn
thuế, kho bãi, địa điểm làm thủ tục hải quan, tập kết, kiểm tra, giám sát
hải quan. Thực tiễn Nghị định đã góp phần thúc đẩy tiến trình cải cách
hành chính, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư và hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh kho bãi, địa điểm, logistics, nâng cao hiệu quả
của hoạt động hải quan và đảm bảo quản lý nhà nước về hải quan. Tuy
nhiên, qua quá trình triển khai thực hiện, Nghị định số 68/2016/NĐ-CP
cần được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi các lý do sau:
Về cơ sở pháp lý: Các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến lĩnh
vực điều kiện kinh doanh về kho bãi, địa điểm đã được sửa đổi, bổ sung
như: Nghị định số 167/2016/NĐ-CP quy định về kinh doanh hàng miễn
thuế; Nghị định số 38/2017/NĐ-CP về đầu tư xây dựng, khai thác cảng
cạn… Do đó, cần sửa đổi, bổ sung Nghị định số 68/2016/NĐ-CP để đảm
bảo thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật đã được sửa đổi, bổ
sung.
Bên cạnh đó, qua thời gian thực hiện Nghị định số 68/2016/NĐ-CP đã
phát sinh vướng mắc liên quan đến quy định về vị trí, diện tích thành lập
các kho bãi, địa điểm và để phù hợp với các văn bản quy phạm pháp
luật mới có hiệu lực từ sau năm 2016 trở lại đây và thực tiễn.
Ảnh minh họa
Đồng thời, cần bổ sung thêm một Điều tại Nghị định số 68/2016/NĐ-CP
về hướng dẫn việc công nhận kho, bãi, địa điểm trong khu vực cảng
biển, cảng thủy nội địa, cảng hàng không quốc tế, ga đường sắt liên vận
quốc tế đủ điều kiện tập kết, kiểm tra, giám sát hải quan được quy định
tại khoản 3, Điều 1 Nghị định số 59/2018/NĐ-CP ngày 20/4/2018.
Ngoài ra, hiện nay các kho bãi, địa điểm đều đang sử dụng phần mềm
quản lý hàng hóa vào, ra, lưu giữ tại kho ngoại quan, địa điểm tập kết,
kiểm tra, giám sát hàng hóa xuất nhập khẩu, đáp ứng theo Nghị định
68/2016/NĐ-CP. Tuy nhiên, các phần mềm này đều chưa theo chuẩn
định dạng thông điệp dữ liệu trao đổi giữa cơ quan Hải quan và Doanh
nghiệp. Vì vậy, khi xây dựng nội dung Nghị định cần sửa đổi, bổ sung
xây dựng phần mềm chung theo một chuẩn định dạng thông tin trao đổi
dữ liệu giữa cơ quan Hải quan và Doanh nghiệp kinh doanh kho bãi, địa
điểm.
Bộ Tài chính cũng cho biết, mục tiêu xây dựng dự thảo Nghị định nhằm
cải cách thủ tục hành chính theo Nghị quyết số 19/2018/NQ-CP ngày
15/05/2018 của Chính phủ; đồng thời đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ
thông tin, tiến tới hiện đại hóa, tự động hóa hoạt động của các địa điểm,
kho, bãi; chuyên nghiệp hóa đối với hệ thống kinh doanh Logistis, kho
bãi, địa điểm trên cả nươc, tiến tới mô hình quản lý tập trung.
Hệ thống các cửa hàng miễn thuế, kho bãi, địa điểm trên cả nước được
thành lập sẽ đúng quy mô về vị trí thành lập, phù hợp với nhu cầu thuê
các kho bãi, địa điểm của các Doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh
xuất nhập khẩu, bãi bỏ các vị trí thành lập kho bãi, địa điểm không phù
hợp với thực tế hiện nay, từ đó tránh việc thành lập các kho bãi, địa
điểm tràn làn, manh mún, không phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn
cho công tác quản lý của các cơ quan chức năng.
Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.
Theo baochinhphu.vn
5. Nỗ lực giảm thời gian chờ khám, chữa bệnh
Tại các bệnh viện tuyến huyện, tỉnh, thời gian chờ khám bệnh đã
rút ngắn khá nhiều so với trước đây. Nhưng ở bệnh viện tuyến
trung ương, thời gian chờ vẫn còn dài, cho nên ngành y tế đã yêu
cầu các bệnh viện thực hiện ngay những giải pháp cụ thể để rút
ngắn thời gian chờ đợi của người bệnh.
Triển khai Ðề án giảm quá tải bệnh viện giai đoạn 2013 - 2020 của Thủ
tướng Chính phủ, Bộ Y tế đã tập trung thực hiện đồng bộ nhiều nhóm
giải pháp, trong đó có giảm quá tải khu vực ngoại trú bằng việc cải tiến
quy trình khám bệnh. Toàn ngành thống nhất quy trình khám bệnh tại tất
cả các bệnh viện đối với người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế và người bệnh
khám, chữa bệnh theo yêu cầu theo quy trình cơ bản gồm 4 đến 8 bước
(tùy theo tính chất của bệnh và yêu cầu của bác sĩ đối với các xét
nghiệm hỗ trợ chẩn đoán), giảm khoảng 50% so với quy trình từ 10 đến
15 bước trước đây. Ðồng thời, cắt giảm một số thủ tục hành chính như:
bệnh viện phải phô-tô giấy tờ cần thiết thay vì yêu cầu người bệnh phải
tự phô tô; sau khi làm xét nghiệm, người bệnh không phải chờ để tự lấy
kết quả xét nghiệm (trừ kết quả chẩn đoán hình ảnh); cắt giảm hai trong
năm chữ ký trong phiếu thanh toán viện phí khi ra viện. Bộ Y tế cũng yêu
cầu bệnh viện tăng số bàn khám để giảm số lượng khám trên mỗi bàn
khám và giúp bác sĩ có thể tăng thời gian khám, tư vấn cho người bệnh.
Sau 5 năm thực hiện Quyết định 1313/QÐ-BYT hướng dẫn quy trình
khám bệnh tại bệnh viện, các cơ sở y tế cũng đã tích cực triển khai
nhiều hoạt động cải thiện môi trường khoa phòng, khu vực khám bệnh;
cải tiến quy trình, rút ngắn thời gian chờ khám bệnh; thực hiện cải tiến
môi trường vệ sinh chung của bệnh viện theo hướng khang trang, thuận
tiện, tiện nghi, sạch đẹp hơn... Nhờ đó, kết quả khảo sát sự hài lòng cho
thấy yếu tố hài lòng nhất của người bệnh là khả năng tiếp cận dịch vụ
khám, chữa bệnh.
Báo cáo của Cục Quản lý chất lượng khám chữa bệnh (Bộ Y tế) cho
thấy: thời gian khám lâm sàng chung của cả ba tuyến bình quân là 66,5
phút (giảm 53,5 phút); tuy nhiên thời gian chờ vẫn rất dài, với 45,4 phút.
Khám lâm sàng theo hai kỹ thuật phối hợp cả xét nghiệm và chẩn đoán
hình ảnh là 200 phút (giảm so với quy định 40 phút), tuy nhiên thời gian
chờ là 92,6 phút... Bình quân giảm thời gian khám bệnh trên một lượt
khám so với trước khi có cải tiến là 48,5 phút, qua đó tiết kiệm được tới
hơn 27 triệu ngày công lao động mỗi năm.
Theo Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến, hiện nay tại các bệnh viện
tuyến huyện, tỉnh, thời gian chờ khám của người dân đã giảm đi rất
nhiều. Tuy nhiên, tại các bệnh viện tuyến trung ương, người bệnh vẫn
phải chờ rất lâu. Người bệnh đi khám nhịn ăn sáng, xếp hàng lấy số từ 5
- 6 giờ sáng nhưng phải đến 8 - 9 giờ mới được khám. Những trường
hợp phải làm thêm các xét nghiệm sinh hóa, chẩn đoán hình ảnh, thăm
dò chức năng… thì có thể kéo đến chiều. Chính vì vậy, người đứng đầu
ngành y tế đưa ra mục tiêu: Không thể để người bệnh chờ khám cả buổi,
bằng mọi giải pháp quyết liệt để người bệnh không phải đợi quá lâu. Các
bệnh viện phải quyết tâm, phải đặt quyền lợi của người bệnh lên trước
để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tăng giờ khám, bàn khám,
khám sớm và có thể tính đến giải pháp khám sau 17 giờ và hẹn khám
theo giờ.
Thống kê của nhiều bệnh viện, kể cả bệnh viện tuyến trung ương cho
thấy, có tới 80% số người bệnh tới khám vào buổi sáng, trong khi buổi
chiều lại vắng vẻ. Vì thế, giải pháp đơn giản nhất là hẹn thời gian khám
bệnh. Ở nhiều nước trên thế giới đã thực hiện đặt lịch hẹn khám, khi họ
đến khám chỉ cần chờ từ 5 đến 10 phút. Tuy nhiên, khi đã đặt lịch thì
phải bố trí người khám cẩn thận, chu đáo, sau một lần sẽ thành thói
quen, người bệnh đỡ phải chờ đợi. Với những người bệnh chỉ đến tái
khám, không phải làm xét nghiệm thì nên chuyển sang buổi chiều.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước, muốn giảm thời gian chờ khám bệnh,
phải đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin. Người bệnh đặt lịch online;
giới hạn số lượt khám bệnh từng ngày; thống kê sự tăng giảm số lượng
người bệnh theo từng ngày để bố trí đội ngũ bác sĩ và đầu tư trang thiết
bị vào những khu vực có nhu cầu. Ngoài ra, nên triển khai hệ thống
thông báo tin nhắn SMS khi gần đến lượt khám của người bệnh. Giảm
tối đa dùng giấy, tất cả thông tin đều được liên kết bằng hệ thống máy
tính. Người bệnh khi khám sẽ được cấp mã số thông suốt trong suốt quá
trình khám, chữa bệnh ở các bệnh viện.
Để rút ngắn thời gian chờ đợi, các bệnh viện cần cải cách hơn nữa các
thủ tục hành chính, nhất là những hạn chế trong quy trình nhận diện thẻ
bảo hiểm y tế; tăng cường dịch vụ đặt lịch khám qua điện thoại, có sự
phối hợp tích cực của cơ quan bảo hiểm xã hội để quản lý người bệnh,
hỗ trợ máy lấy số thứ tự cho một số bệnh viện.
Giải pháp về lâu dài mà ngành y tế cũng đang tích cực triển khai là nâng
cao chất lượng y tế cơ sở để đưa người mắc các bệnh mạn tính như:
tăng huyết áp, tiểu đường… về khám định kỳ, nhận thuốc tại tuyến y tế
cơ sở, không cần phải lên tuyến trên, vừa tránh tình trạng quá tải, vừa
giúp người bệnh không phải chờ lâu và giảm chi phí đi lại.
Theo nhandan.com.vn
6. Con đường dài nhất, sợi dây rút mãi không hết
“Con đường dài nhất Việt Nam không phải từ ải Nam Quan tới mũi
Cà Mau, mà là con đường từ lời nói đến hành động của một số cơ
quan, tổ chức” - phát ngôn của Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc.
Hình như chuyện cải cách, cắt giảm điều kiện kinh doanh (ĐKKD) chưa
bao giờ thôi thời sự, chưa bao giờ thôi bức xúc và cũng chưa bao giờ
thôi vô lý.
Đại ý, nó là chuyện “cứ xử lý vấn đề vi mô là ngoằng thêm một câu có
chuyện cấp phép trong đó…”.
Đại ý, nó như Nghị định 109 về kinh doanh xuất khẩu gạo, 8 năm trời
“hãm hại” nhiều thương nhân trong ngành. Và dù đã được sửa đổi, trình
hơn một năm nay, vẫn không thấy tăm hơi” với “thời gian sửa sai, đôi khi
còn cao hơn tuổi thọ của DN”.
Đại ý, kiểu Nghị định 49 về kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp:
Để đạt được 1 điều kiện, cần có tới 5 điều kiện. Và đây là câu chuyện có
thật chứ không phải chuyện cười, chuyện tiếu lâm.
Quá trình cắt giảm ĐKKD ở các bộ, ngành đang “bộc lộ tính phong trào,
hô hào, nghe qua thì “rầm rộ”, nhưng thực tế là từ từ, ngắc ngứ".
Còn nhân tố con người - yếu tố mang tính quyết định việc cắt giảm, cải
cách, với nhiều người “kỹ năng giỏi nhất là copy ở các văn bản tương
tự”, với lý luận “muốn quản lý cái này, để tránh phải suy nghĩ nhiều”. Và
trong một sự so đo thấy rõ yếu tố quyền lợi “các bộ cấp giấy chứng nhận
đủ điều kiện thì bộ mình cũng cấp”.
Chuyện cải cách, cắt giảm điều kiện kinh doanh chưa bao giờ thôi thời
sự. Ảnh minh họa (Nguồn: VnEconomy).
Tất cả ngoặc kép phía trên là những phát biểu, những nỗi bức xúc vừa
diễn ra trong một hội nghị 6 tháng của VCCI.
Đến nỗi, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế T.Ư Phan
Đức Hiểu thổn thức thế này: “Tôi thấu hiểu DN khổ cực thế nào. Tôi
khuyên DN đi kinh doanh thì đừng đọc ĐKKD, cứ kinh doanh đã. Bởi
nếu đọc ĐKKD thì không còn nhiệt huyết, tâm trí mà kinh doanh”.
Tại sao câu chuyện “con đường dài nhất” từ lời nói đến việc làm cứ mãi
tồn tại, mãi diễn ra trong khi Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thậm chí
đặt ra cụ thể tỷ lệ % giấy phép con phải cắt giảm, đặt ra những mốc thời
gian phải tiến hành?
Là vì chậm cải cách, cắt giảm thì cũng có sao đâu. Là vì sự chậm trễ
nào cũng được báo cáo rất hay là vì khách quan. Hoặc cùng lắm là bị
phê bình, nhắc nhở, cùng lắm là rút kinh nghiệm. Mà sợi dây kinh
nghiệm ở ta chắc cũng chẳng ai lạ. Nó không những chỉ “rút mãi không
hết” mà giờ còn “đồng bộ” đáng kinh ngạc với “con đường dài nhất”.
Nói vậy là trong đó cũng đã có giải pháp. Muốn cải cách cắt giảm thực
sự, muốn chấm dứt “truyền thuyết” con đường dài nhất thì từ nay Chính
phủ không cho “rút kinh nghiệm” nữa, với những công chức, những đơn
vị được giao cắt giảm điều kiện kinh doanh.
Theo laodong.vn
7. Nghị định mới về kinh doanh gas: Lúng túng đến phút chót
Chính thức có hiệu lực từ 1/8/2018, nhưng Nghị định về kinh doanh
khí đưa ra rất nhiều hạng mục về điều kiện cấp phép kinh doanh
khí, đặc biệt các điều kiện về an toàn cháy nổ khiến các Sở Công
Thương và doanh nghiệp không biết áp dụng quy định nào.
Đây là băn khoăn của đại diện nhiều Sở Công Thương và các doanh
nghiệp đưa ra tại Hội nghị phổ biến Nghị định 87/2018 về kinh doanh khí
do Bộ Công Thương tổ chức ngày 31/7.
Phát biểu tại hội nghị, ông Nguyễn Văn Long, đại diện Sở Công Thương
Hải Phòng cho biết, theo Nghị định 87, để cấp Giấy chứng nhận đủ điều
kiện kinh doanh khí, doanh nghiệp (DN) phải có tài liệu chứng minh đáp
ứng các điều kiện về phòng cháy chữa cháy (PCCC). Ngoài ra, Luật
PCCC còn quy định, cần có lực lượng PCCC cơ sở, có hệ thống giao
thông, cấp nước phục vụ chữa cháy. Như vậy, nếu chiếu theo quy định
này, Sở Công Thương không biết phải dựa theo quy định nào để làm thủ
tục cấp phép và điều này gây khó cho DN
Đại diện Sở Công Thương Hà Nội cũng bày tỏ sự băn khoăn về việc
đơn giản nhiều thủ tục thực chất lại dẫn đến việc sau khi cấp phép nếu
phát hiện sai phạm, cháy nổ thì quy trách nhiệm rất khó. “Chúng tôi hoan
nghênh việc rút ngắn thủ tục hành chính nhưng khi có cháy nổ, nếu cơ
quan điều tra phát hiện cơ sở không đủ an toàn nhưng vẫn được cấp
phép. Họ sẽ quay lại truy Sở và chúng tôi biết phải trả lời thế nào?”- Đại
diện Sở Công Thương Hà Nội băn khoăn.
Ông Nguyễn Anh Sơn, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Công Thương), đơn
vị chủ trì soạn thảo Nghị định cho hay, trường hợp doanh nghiệp có đầy
đủ hồ sơ nhưng kiểm tra thực tế không đảm bảo điều kiện thì sẽ không
được cấp phép. Quan điểm khi xây dựng Nghị định 87 là đơn giản hóa
thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh và chuyển từ tiền kiểm
sang hậu kiểm. Khi hậu kiểm, nếu doanh nghiệp không thực hiện đúng
theo trong hồ sơ thì sẽ có chế tài xử phạt theo quy định như rút giấy
phép, xử phạt hành chính.
Đại diện một DN gá lớn ở phía Bắc cho rằng, Nghị định 87 mới ban hành
có các quy định yêu cầu cơ sở sản xuất, chiết nạp, phân phối, bán lẻ gas
phải thực hiện sổ theo dõi ghi chép, loại bình, số seri, hạn kiểm định, tên
khách hàng, địa chỉ, ngày giao nhận...
Với các DN có lượng bình lưu thông lớn, sẽ đòi hỏi nguồn lực lớn của
doanh nghiệp. Với khoảng 15.000 cửa hàng bán gas hiện nay, nếu thực
hiện theo quy định sẽ cần tuyển thêm ít nhất 1 đến 2 người gây lãng phí
của cải cho DN và không khả thi khi thực hiện.
Theo tienphong.vn
8. Một dòng của bộ trưởng có thể tạo ‘rừng đinh’
Từ giữa năm 2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trong những phát
biểu mạnh mẽ của mình đã lưu ý các bộ, ngành, địa phương cần
tránh tình trạng “trên trải thảm, dưới rải đinh”.
“Đinh” mà Thủ tướng nói ở đây chính là các quy định, điều kiện kinh
doanh gây khó khăn cho các doanh nghiệp.
Cá biệt, có những cái “đinh” đã đâm làm “tử vong” DN như nhiều trường
hợp đã được dẫn chứng. Vấn đề là dường như xu hướng “rải đinh” vẫn
đang chiếm ưu thế dù Thủ tướng đã yêu cầu trong năm nay, các bộ phải
cắt giảm ít nhất 50% số điều kiện kinh doanh mà mình nắm giữ.
Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam ngày 31-7 tính
toán sơ bộ: Chỉ trong vòng sáu tháng, chính quyền trung ương có thể
đưa ra hàng chục ngàn quy định có tác động đến các DN. Có thể trong
hàng chục ngàn quy định này, không phải mọi quy định đều là “đinh”.
Nhưng nếu quan niệm rằng pháp luật đắt đỏ và DN sẽ phải tốn chi phí
tuân thủ khi một quy định ra đời thì rõ ràng bất kể một quy định nào cũng
có mức… sát thương DN nhất định!
Dĩ nhiên quản lý nhà nước là cần thiết nhưng như Luật Đầu tư đã quy
định: Bộ, cơ quan ngang bộ, HĐND, UBND các cấp, cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác không được ban hành quy định về điều kiện đầu tư kinh
doanh. Ấy thế nhưng vẫn có những điều kiện kinh doanh lẩn khuất trong
các thông tư hoặc được “cài cắm” ngay trong các dự thảo nghị định
đang lấy ý kiến.
Đôi khi chỉ là một dòng “do bộ trưởng quy định” cũng có nguy cơ nảy
sinh hàng “rừng đinh” trong tương lai cho DN. Đại diện một hiệp hội
còn nói thẳng: Mặc dù có quy định nhưng DN không dám làm, bởi làm
thì mất khách hàng hoặc không biết phải làm thế nào cho đúng. Điều
đáng nói, trước khi có các quy định ấy thì ngành nghề bị áp các điều
kiện kinh doanh không xảy ra vấn đề gì. Khi có điều kiện kinh doanh thì
chỉ có DN… ăn hành!
Các chuyên gia có uy tín đều nhận định vấn đề nằm ở tư duy và quyền
lợi nên “đinh” vẫn không bị nhổ theo yêu cầu của Thủ tướng và DN suốt
ngày vướng "đinh". Nhưng đem tình hình hiện nay so sánh với thời cố
Thủ tướng Phan Văn Khải sẽ thấy có điều phải suy nghĩ.
Cứ theo lời TS Lê Đăng Doanh thì khi tổ công tác của Thủ tướng rà soát
thấy nền kinh tế có 560-580 giấy phép con, tổ này đã kiến nghị và Thủ
tướng Phan Văn Phải đã ký quyết định hủy 268 giấy phép đấy, bằng
khoảng 50% tổng số giấy phép. TS Lê Đăng Doanh nói: “Như vậy là anh
Khải đã cắt nguồn thu bất chính của các bộ rất nhiều”.
Phải chăng đây là một trong những lý do khiến cơ quan quản lý nhà
nước cứ thích ban hành các quy định nhằm “đóng đinh” DN?
Theo plo.vn
9. Nhận diện những thách thức phát triển ngân hàng số
Ngân hàng số là xu hướng chủ đạo hiện nay khi giúp các tổ chức
tín dụng đa dạng và tối ưu các dịch vụ, giảm chi phí, tăng khả năng
kiểm soát và nâng cao trải nghiệm cho khách hàng. Tuy nhiên, với
thị trường Việt Nam, ngân hàng số vẫn phải đối mặt với nhiều rào
cản lớn.
Theo “Báo cáo về Dịch vụ Ngân hàng: Hành vi sử dụng của người dùng
và Xu hướng tại Việt Nam” khảo sát bởi IDG Vietnam năm 2017 công bố
cho thấy, các giải pháp về ngân hàng điện tử (e-banking) đang ngày
càng được sử dụng phổ biến và được đánh giá cao về tính tiện lợi và tiết
kiệm thời gian với 81% người dùng sử dụng các giải pháp e-banking so
với 21% theo khảo sát năm 2015.
Những ngân hàng thương mại lớn đã nhanh chóng phát triển những dịch
vụ mới, như Techcombank, VIB cho phép khách hàng chuyển tiền qua
mạng xã hội (Facebook, Zalo...), rút tiền tại ATM không cần dùng thẻ.
VPBank đã ứng dụng công nghệ phân tích dữ liệu của IBM để đồng bộ
hóa dữ liệu khách hàng, hỗ trợ phân tích hành vi khách hàng nhanh
chóng.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Theo các số liệu thống kê của Cục Viễn thông (Bộ Thông tin và Truyền
thông), Việt Nam hiện đứng trong top 20 quốc gia có dân số sử dụng
internet nhiều nhất tại châu Á; trong đó 62% người dùng internet mua
sắm online....
Những con số trên phần nào cho thấy, hệ thống ngân hàng Việt đang
đứng trước những cơ hội, tiềm năng để phát triển dịch vụ ngân hàng số.
Đó là: sự liên tục gia tăng dòng vốn đầu tư cho công nghệ vào ngân
hàng, tác động tích cực từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, xu hướng
số hóa toàn cầu, thị trường Việt Nam với quy mô dân số lớn, tỷ lệ người
sử dụng điện thoại và internet cao…
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội này, cũng có nhiều thách thức đối với
hệ thống tài chính ngân hàng trong ứng dụng phát triển các dịch vụ ngân
hàng số...
Thách thức lớn nhất được chính các ngân hàng nhận định là hệ thống
bảo mật, an ninh mạng để bảo vệ quyền lợi của khách hàng và tránh rủi
ro cho các ngân hàng. Từ năm 2014 đến nay, các cuộc tấn công mạng
nhằm vào mọi tổ chức, bao gồm cả các tổ chức tài chính ngày càng gia
tăng trên toàn cầu. Tại Việt Nam, nhiều trường hợp tài khoản của khách
hàng đột ngột bị “bốc hơi” trong khi họ không hề giao dịch.
Thách thức thứ hai đối với các ngân hàng theo nhận định của TS. Cấn
Văn Lực là tìm kiếm nguồn nhân lực phù hợp. Ngoài nghiệp vụ ngân
hàng, đội ngũ nhân lực cần phải nắm bắt về công nghệ, hiểu biết về
khách hàng…
Mặt khác, theo các chuyên gia, thách thức nữa trong phát triển ngân
hàng số là nhiều quy định pháp luật hiện hành còn bất cập. Theo đó, vẫn
còn trở ngại về mặt quy định, pháp lý, thủ tục giấy tờ trong hệ thống các
văn bản hiện hành, khiến thanh toán số chưa thể mở rộng nhanh và dễ
dàng tới nhóm khách hàng trẻ ưa tiện lợi, không thích quy trình, thủ tục
gò bó, rườm rà cũng như tới những người dân chưa có tài khoản ngân
hàng, ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa…
Để hệ thống ngân hàng vượt qua các rào cản, thách thức phát triển
ngân hàng số, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, cần gia tăng biện pháp phòng
hộ để tăng năng lực kiểm soát rủi ro đối với công nghệ thông tin đặc biệt
là an ninh mạng; Tăng sự hiểu biết của khách hàng, người dân và doanh
nghiệp, bản thân cán bộ ngân hàng để cùng nhau kiểm soát rủi ro tốt
hơn; sớm tạo hành lang pháp lý để hướng dẫn định chế tài chính kiểm
soát rủi ro tốt hơn.
Trong khi đó, từ thực tiễn triển khai phát triển các dịch vụ ngân hàng số,
ông Phạm Hồng Hải – Tổng giám đốc Ngân hàng TNHH Một thành
viên HSBC cho rằng, để có thể đáp ứng xu hướng ngân hàng số, cơ
quan quản lý Nhà nước phải giúp cho sự kết nối của hệ thống tổ chức
tín dụng với trung tâm dữ liệu thông tin cá nhân và Trung tâm Thông tin
tín dụng Việt Nam (CIC). Thực tế khi HSBC tiến hành cấp thẻ tín dụng
nhiều năm tại Trung Quốc thì với sự kết nối trung tâm dữ liệu được đồng
bộ đã giúp khách hàng trải nghiệm tốt hơn.
Theo tapchitaichinh.vn
10. Để doanh nghiệp đầu tư sâu vào nông nghiệp
Kết quả ngành nông nghiệp trong thời gian qua là rất đáng ghi
nhận, nhìn chung các lĩnh vực chủ chốt của ngành nông nghiệp
cũng như tình hình xuất khẩu nông sản đều khởi sắc.
Tuy nhiên, vẫn còn những rào cản về mặt chính sách và thực thi chính
sách, pháp luật cả ở cấp bộ và địa phương gây vướng mắc cho doanh
nghiệp (DN).
Trước hết là chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp
còn chưa hiệu quả, thiếu tính ổn định... Đặc biệt trong quy trình thủ tục
để tiếp cận ưu đãi, nhận ưu đãi còn rườm rà, phức tạp, tốn nhiều thời
gian, công sức, làm giảm độ hấp dẫn của cơ chế, chính sách. Các chính
sách về thuế (VAT, thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân...) còn bất
bình đẳng giữa các chủ thể trong cùng một lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh vì hiện chính sách thuế đang bảo hộ người nông dân so với DN.
Ngoài ra, chính sách khuyến khích DN phát triển nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao (NNƯDCNC) chưa phù hợp. Trong đó tập trung chủ yếu
vào quy trình, thủ tục thành lập khu NNƯDCNC còn thông qua nhiều bộ,
ngành; thủ tục chứng nhận doanh nghiệp NNƯDCNC doanh nghiệp cần
thỏa mãn các tiêu chí theo khoản 1 Điều 19 Luật Công nghệ cao, sau đó
phải làm hồ sơ chứng minh mình đạt tiêu chí này gửi về Bộ Nông nghiệp
& Phát triển Nông thôn xem xét, cấp chứng nhận…
Ảnh minh họa, nguồn: TC Tia sáng.
Hơn hết, hiện Việt Nam chưa có sàn giao dịch nông sản đúng nghĩa để
kiểm soát được chất lượng, sản lượng và giá trị cho nông sản cũng như
thúc đẩy các doanh nghiệp nông nghiệp phát triển thương mại điện tử,
chú trọng truy xuất nguồn gốc, đảm bảo yếu tố ATTP. Một trong các
nguyên nhân khiến hàng nông sản Việt Nam dù đa dạng, phong phú và
tiềm năng nhưng chưa xuất khẩu bền vững, xuất phát từ thói quen sử
dụng các vật tư nông nghiệp, thuốc bảo vệ thực vật một cách tuỳ tiện,
ảnh hưởng đến chất lượng nông sản. Cạnh đó, cơ chế hợp tác công tư
trong xúc tiến thương mại ngành nông nghiệp còn hạn chế, hình thức, ít
hiệu quả. Việc không xác định được thị trường trọng tâm trọng điểm dẫn
đến phân bổ nguồn lực xúc tiến bất hợp lý; các chương trình xúc tiến
còn hình thức, chưa thực sự kết nối được nhu cầu của các thị trường
với tiềm năng sản xuất trong nước nên nhiều nguồn lực của cả hai phía
công - tư còn bị lãng phí.
Đây là những điểm nghẽn lớn. Trong thời gian tới mong rằng Chính phủ
chỉ đạo tháo gỡ tốt, thì DN cho rằng kết quả kinh doanh năm 2018 của
ngành nông nghiệp sẽ còn khả quan hơn nhiều.
Theo laodong.vn
11. Tuyên truyền chủ xe thực hiện đúng quy định kinh doanh vận tải
Đơn vị quản lý khó kiểm soát được thời gian tài xế điều khiển
phương tiện để nhắc nhở vì nhiều phương tiện không đăng ký kinh
doanh vận tải.
Hiện trường vụ tai nạn tại Quảng Nam. Ảnh: H.HIẾU
Sau vụ tai nạn đau lòng khiến 13 người tử vong khi đang trên đường
từ Quảng Trị vào Bình Định để rước dâu. Chiếc xe khách 75B-000.52
chưa đủ điều kiện kinh doanh vận tải, không có phù hiệu và không có
thiết bị giám sát hành trình, tài xế chạy quá giờ quy định. Điều đáng nói,
không chỉ chiếc xe nói trên mà tại địa phương tỉnh Thừa Thiên-Huế, tình
hình xe khách hoạt động không đăng ký kinh doanh vận tải còn khá
nhiều.
Ngày 1-8, trao đổi với báo Pháp Luật TP.HCM, ông Phạm Quang Hồng
(Trưởng phòng Quản lý vận tải-Phương tiện, Sở GTVT tỉnh Thừa Thiên-
Huế) cho biết những người muốn đưa ô tô vào hoạt động kinh doanh
vận tải phải hội tụ đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật hiện
hành.
Theo đó, để vận tải hành khách, những xe này phải có giấy phép kinh
doanh vận tải bằng ô tô do Sở GTVT nơi đăng ký biển số cấp; sau đó
chủ phương tiện phải tiến hành thủ tục hành chính để được cấp phù
hiệu, trong đó xe phải được gắn thiết bị giám sát hành trình… Thiết bị
giám sát hành trình sẽ quản lý được toàn bộ quá trình vận tải hành
khách, tốc độ phương tiện, thời gian tài xế điều khiển phương tiện (giới
hạn tài xế điều khiển xe liên tục tối đa bốn giờ đồng hồ và không quá 10
giờ đồng hồ mỗi ngày).
Cho nên việc các phương tiện không đủ điều kiện kinh doanh vận tải mà
đưa xe ra hoạt động kinh doanh vận tải là vi phạm pháp luật. Khi đó, đơn
vị quản lý không quản lý được tốc độ hay thời gian tài xế điều khiển nên
xảy ra nhiều tình trạng tài xế chạy liên tục quá giờ gây kiệt sức, buồn
ngủ… là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ tai nạn đau
lòng.
Đối với những trường hợp vi phạm trong hoạt động kinh doanh vận tải,
lực lượng chức năng có thẩm quyền xử lý gồm CSGT, cảnh sát trật tự
và thanh tra giao thông. Tuy nhiên, theo ông Hồng thì nguyên nhân
khiến việc nhiều xe không đủ điều kiện kinh doanh vận tải nhưng vẫn
đưa xe ra kinh doanh vận tải một thời gian dài là do các tài xế điều khiển
xe vào ban đêm, khi thấy lực lượng chức năng thì tìm cách trốn tránh
nhằm qua mặt các lực lượng chức năng nên lực lượng chức năng khó
phát hiện.
"Sau vụ tai nạn xảy ra tại Quảng Nam, Sở GTVT Thừa Thiên-Huế đã
làm việc với Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới để thống kê các phương
tiện từ 10 chỗ trở lên thể hiện trong hồ sơ đăng kiểm “không kinh doanh
vận tải”, “không lắp thiết bị giám sát hành trình”. Sau đó, Sở sẽ tổng hợp
gửi công văn về chính quyền địa phương để tuyên truyền các chủ xe
thực hiện đúng các quy định của pháp luật về kinh doanh vận tải bằng ô
tô và nâng cao ý thức của người điều khiển giao thông” - ông Hồng nói.
Trước đó, như đã thông tin, rạng sáng 30-7, xe chở đoàn rước dâu 16
người từ Quảng Trị vào Bình Định, khi đến địa phận Quảng Nam thì tông
vào xe container chạy ngược lại. Hậu quả 13 người tử nạn (tài xế, chú
rể, có cả các cháu nhỏ) và làm bốn người trọng thương.
Tài xế xe khách Lê Ngọc Cường (ngụ xã Phong Bình, huyện Phong
Điền, Thừa Thiên-Huế) trước khi xuất phát lúc 23 giờ chở đoàn rước
dâu từ Quảng Trị đi Bình Định đã chạy một chuyến khác. Việc tài xế
chạy liên tục trong 12 giờ như báo chí đã đưa tin có thể là nguyên nhân
khiến tài xế kiệt sức, buồn ngủ, dẫn đến tai nạn - nguyên nhân theo
nhận định ban đầu của Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể.
Theo plo.vn
12. Chính phủ thúc đẩy cắt giảm điều kiện kinh doanh
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh việc cắt giảm danh mục
sản phẩm phải kiểm tra chuyên ngành và điều kiện kinh doanh sẽ
giải phóng sức sản xuất rất lớn.
Toàn cảnh phiên họp Chính phủ sáng 1/8.
Theo báo cáo của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến
Dũng tại phiên họp Chính phủ sáng 1/8, hiện mới có 6 Bộ chính thức cắt
giảm được hơn 600 trong tổng số hơn 9.300 danh mục sản phẩm hàng
hóa phải kiểm tra chuyên ngành.
Cũng theo báo cáo này, với số danh mục sản phẩm hàng hóa phải kiểm
tra chuyên ngành đã cắt giảm và số đã lên phương án cắt giảm mới chỉ
đạt hơn 15%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu 50% Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc đã đặt ra cho các Bộ.
Về đơn giản và cắt giảm các điều kiện kinh doanh, đến nay mới có 4 Bộ
cắt giảm được 900 trong tổng số hơn 5.900 điều kiện kinh doanh (hơn
15%). Hiện đã có hơn 2.300 điều kiện kinh doanh khác của 14 Bộ, tương
đương với 40% với số lượng phải cắt giảm, đã có phương án nhưng
chưa có văn bản quy định cụ thể.
Đáng chú ý, theo rà soát độc lập của Văn phòng Chính phủ, một số Bộ
có điều kiện kinh doanh nhiều hơn con số các Bộ tự công bố hoặc lên
phương án cắt giảm thấp hơn với con số thực.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, việc cắt giảm danh mục sản
phẩm phải kiểm tra chuyên ngành và điều kiện kinh doanh sẽ giải phóng
sức sản xuất rất lớn. Dù đây là thách thức không nhỏ nhưng Chính phủ
cương quyết sẽ thực hiện để tạo điều thuận lợi cho thương mại và phát
triển kinh tế, trên cơ sở phải quản lý tốt cũng như chống được tiêu cực
nhũng nhiễu.
Trước đó, sáng 31/7, Thủ tướng cũng đề nghị các Bộ còn do dự, chần
chừ trong cắt giảm điều kiện kinh doanh vì quyền lợi ràng buộc, hay do
tham mưu từ cấp vụ phải quán triệt tinh thần cắt giảm 50% điều kiện
kinh doanh để môi trường kinh doanh của Việt Nam tốt hơn nữa.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng giải thích số liệu 40.000 doanh
nghiệp tạm ngừng hoạt động vừa công bố là do trong quá trình rà soát,
làm sạch dữ liệu, đã phát hiện ra số doanh nghiệp này đã ngừng hoạt
động trước đây mà không đăng ký với các cơ quan đăng ký kinh doanh,
không phải là số doanh nghiệp này tạm ngừng hoạt động trong thời gian
gần đây.
Theo vtv.vn
13. Bà Phạm Chi Lan: "Vài năm đợi bỏ điều kiện kinh doanh đủ giết hàng vạn doanh nghiệp"
Bà Phạm Chi Lan cho rằng, có thể mất 2 năm, thậm chí 3, 4 năm
hoặc hơn để ra được một Nghị định hoặc quy định về bãi bỏ điều
kiện kinh doanh. Tuy nhiên, điều đáng nói, thời gian vài năm chờ
đợi này cũng đủ giết hàng vạn doanh nghiệp.
Chia buồn với những doanh nghiệp phải "ra đi"
Phát biểu tại Hội thảo "Điểm lại pháp luật kinh doanh 6 tháng đầu năm
2018" chiều qua (31/7), chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nói: "Chúng ta
đã nghe rất nhiều lời cảm ơn của các doanh nghiệp vì đã giải tỏa được
rào cản này, rào cản khác nhưng chưa ai lên tiếng chia buồn với các
doanh nghiệp phải ra đi trước khi những điều kiện, rào cản này được cải
thiện".
Chuyên gia kinh tế "chia buồn" với hàng vạn doanh nghiệp "chết thật" vì
các rào cản, điều kiện kinh doanh.
Bà Lan cho rằng, có thể mất 2 năm, thậm chí 3, 4 năm hoặc hơn để ra
được một Nghị định hoặc quy định về bãi bỏ điều kiện kinh doanh. Tuy
nhiên, điều đáng nói, thời gian vài năm chờ đợi này cũng đủ giết hàng
vạn doanh nghiệp.
Dẫn con số thực tế, bà Lan cho hay, riêng 6 tháng đầu năm 2018, số
doanh nghiệp đăng ký mới là 64.531, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm
ngoái. Nhưng con số doanh nghiệp dừng hoạt động lên tới 52.803, tăng
tới 34,7% so với cùng kỳ năm ngoái.
"Chưa bao giờ khoảng cách giữa 2 con số nêu trên lớn như bây giờ, số
doanh nghiệp dừng hoạt động bằng 80% số doanh nghiệp mới ra đời.
Tôi vẫn nói rằng số doanh nghiệp chết là chết thật, còn số đăng ký mới
thì chưa biết bao giờ mới hoạt động", bà nhấn mạnh.
Bà cũng dẫn số liệu thống kê việc làm mới được tạo ra trong quý II/2018
dừng lại ở con số 283.000, giảm 17% so với quý cùng kỳ năm ngoái.
"Cùng với việc doanh nghiệp dừng hoạt động, nhiều công ăn việc làm
mất đi. Chưa cần tới những thách thức như Cách mạng công nghiệp
4.0, các FTA, chiến tranh thương mại Mỹ-Trung thì những thách thức
trong nước cũng đủ làm doanh nghiệp chết, hàng vạn người lao động
không có việc làm mới rồi”, bà Chi Lan nói.
"Buông lớn - nắm nhỏ"
Bà Lan cho rằng, môi trường kinh doanh quyết định 50% việc doanh
nghiệp có tồn tại, phát triển được hay không.
"Tại sao lại khó khăn, lằng nhằng tới thế trong việc thay đổi những điều
vô lý tồn tại bao nhiêu năm? Tôi nghĩ tư duy vẫn là vấn đề lớn. Xuyên
suốt trong tư duy của nhiều người làm công tác quản lý Nhà nước hiện
nay vẫn mặc định cho rằng: Đã là doanh nghiệp thì có vi phạm, đã làm
thế nào cũng sai, cho nên phải kiểm soát để tránh cái sai đó. Vì vậy, họ
đặt ra rất nhiều điều kiện để kiểm soát", bà Lan bày tỏ.
Theo đó bà cho rằng, Việt Nam đang đi ngược lại nguyên lý bình thường
của quản lý Nhà nước của các nước. Ở nhiều nước, Nhà nước chỉ quản
lý, kiểm soát khu vực lớn nhất là khu vực kinh tế Nhà nước, khu vực sử
dụng nhiều tài sản nhất của Nhà nước.
"Ở các nước người ta buông nhỏ - nắm lớn nhưng ở Việt Nam, sự giám
sát với DNNN hết sức lỏng lẻo, nên mất mát đối với nền kinh tế rất lớn,
đó là buông lớn - nắm nhỏ”, bà nói.
Mỗi năm ban hành hàng chục ngàn quy định
Theo Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc, trung bình, mỗi nam các co quan nhà
nuớc trung uong ban hành trên duới 1.000 van bản quy phạm pháp luạt
và khoảng 50% số van bản này có liên quan đến hoạt đọng kinh doanh.
Trong đó, có từ 10-20 luạt, khoảng 200 nghị định và quyết định của Thủ
tuớng, còn lại là thông tu của các bọ và co quan ngang bọ.
"Mỗi van bản đó lại có hàng chục, thạm chí hàng tram quy định. Nhu
vạy, chỉ trong vòng 6 tháng, chính quyền trung uo ng có thể đua ra hàng
chục ngàn quy định có tác đọng đến các doanh nghiẹp. Tại Quốc hội tôi
đã từng phát biểu con đường dài nhất Việt Nam không phải từ Mục Nam
Quan đến Mũi Cà Mau mà là từ lời nói đến hành động", Chủ tịch VCCI
phát biểu.
Đánh giá về tình hình cắt giảm điều kiện kinh doanh, ông Đậu Anh Tuấn,
Trưởng Ban Pháp chế VCCI cho rằng, những hành động để hiện thực
hóa quyết tâm cải cách thể chế trong 6 tháng đầu năm 2018 rất phong
phú. Theo đó, chính sách pháp luật về kinh doanh có sự thay đổi khá
lớn, phần lớn các bộ, ngành đều đã đưa ra phương án cắt giảm, với tỷ lệ
các điều kiện kinh doanh cắt giảm, bãi bỏ có thể lên tới ít nhất 50%.
Mặc dù vậy, trên thực tế, tình trạng lạm dụng các điều kiện kinh doanh,
đặt ra các yêu cầu không cần thiết hoặc vượt quá mục tiêu kiểm soát rủi
ro, diễn ra khá phổ biến. Điều này dẫn tới hệ quả hoạt động kinh doanh
bị cản trở, bị can thiệp quá mức, việc gia nhập thị trường và cạnh tranh
trên thị trường bị bóp méo, trong khi các lợi ích công cộng vẫn không
được bảo vệ.
"Các điều kiện kinh doanh thiếu rõ ràng, phụ thuộc ý chí chủ quan của
cơ quan có thẩm quyền quản lý, cấp phép cũng tạo ra dư địa cho nhũng
nhiều, hối lộ. Mặc dù các phương án cắt giảm đều đã đạt được mục tiêu
nhưng khi xem xét chi tiết hơn của từng phương án thì đôi khi “con số
chỉ là con số”, ông Tuấn cho biết.
Theo dantri.com.vn
14. Việt Nam xếp hạng 39/160 nước về Chỉ số hiệu quả dịch vụ logistics
Vụ trưởng Vụ Vận tải Trần Bảo Ngọc cho biết, theo đánh giá của
WB, chỉ số hiệu quả dịch vụ logistics của Việt Nam năm 2018 đã
tăng 25 bậc so với năm 2016, xếp hạng 39/160 quốc gia được khảo
sát.
Chỉ số LPI của Việt Nam xếp hạng 39/160 quốc gia
Ngân hàng thế giới (WB) vừa công bố kết quả khảo sát mới nhất về Chỉ
số hiệu quả dịch vụ logistics. Ông có thể chia sẻ rõ hơn về bảng xếp
hạng này?
Theo đánh giá mới nhất của WB, chỉ số hiệu quả dịch vụ logistics (LPI)
của Việt Nam năm 2018 đã tăng 25 bậc so với năm 2016, xếp hạng
39/160 quốc gia được khảo sát. Đây là kết quả tốt nhất của Việt Nam kể
từ năm 2007, khi WB lần đầu tiên công bố bảng xếp hạng của mình.
Đáng lưu ý, kết quả này có sự đóng góp phần lớn là do sự cải thiện về 2
chỉ tiêu “Năng lực và chất lượng của dịch vụ logistics” (tăng 29 bậc) và
“Khả năng truy xuất lô hàng” (tăng 41 bậc).
Cụ thể, Chỉ số LPI gồm những gì, thưa ông?
LPI (Logistics Performance Index) là Chỉ số hiệu quả dịch vụ Logistics
của quốc gia hay Chỉ số năng lực quốc gia về logistics. Theo đó, WB sẽ
đánh giá hiệu quả của dịch vụ logistics của các quốc gia để các doanh
nghiệp có cái nhìn đúng đắn về hệ thống logistics của từng quốc gia,
đồng thời tính toán hiệu quả khi đầu tư kinh doanh.
Sau lần đánh giá đầu tiên năm 2007, bắt đầu từ năm 2010, WB đánh giá
LPI định kỳ 2 năm/lần theo 6 tiêu chí, bao gồm Hiệu quả của quá trình
thông quan thực hiện bởi Hải quan và các đại lý Hải quan (tốc độ thông
quan, mức độ đơn giản của bộ hồ sơ thông quan và khả năng dự báo
được các thủ tục sẽ thực hiện); Chất lượng cơ sở hạ tầng vận tải và
thương mại (chất lượng cảng biển, đường sắt, đường bộ, hệ thống công
nghệ thông tin…); Năng lực dàn xếp các lô hàng với giá cạnh tranh (bao
gồm tổng chi phí lô hàng để có thể xuất khẩu/nhập khẩu: tức gồm giá
bán/giá mua + chi phí vận tải + chi phí thông quan + bến bãi..); Năng lực
và chất lượng của dịch vụ logistics (năng lực và chất lượng dịch vụ của
nhà khai thác vận tải, của môi giới thông quan, của người kinh doanh
giao nhận…).
Vụ trưởng Vụ Vận tải (Bộ GTVT) Trần Bảo Ngọc
Cùng đó, là khả năng truy xuất lô hàng (khả năng tìm kiếm truy xuất dữ
liệu cho biết hàng đang ở đâu, đang trong công đoạn nào) và khoảng
thời gian lô hàng đến điểm đích đúng lịch trình hoặc đúng thời hạn dự
kiến giao hàng (khoảng thời gian kể từ khi hàng xuất xưởng cho đến khi
hàng giao vào tay người nhận hàng theo lịch trình dự kiến, tính bằng
thời gian vận chuyển nội địa + thời gian vận chuyển quốc tế + thời gian
hàng trong bến bãi kho hàng và chờ thông quan…).
Đưa Việt Nam trở thành một đầu mối logistics
Theo ông, đâu là “vấn đề” lớn nhất cần tập trung khắc phục của logistics
ở Việt Nam?
Các nghiên cứu cho thấy logistics trong nước đang phải đối mặt với
những thách thức như sự chưa đồng bộ của kết cấu hạ tầng giao thông;
Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics đã có sự phát triển mạnh,
tuy nhiên vẫn chưa có nhiều doanh nghiệp lớn; đa phần các doanh
nghiệp còn nhỏ lẻ, hoạt động chủ yếu là đại lý hoặc đảm nhận từng công
đoạn… Một vấn đề quan trọng với khác với logistics, theo tôi là chi phí
vẫn khá cao.
Vậy, Bộ GTVT sẽ làm gì để khắc phục vấn đề này?
Thực ra, không phải bây giờ mà từ nhiều năm nay, Bộ GTVT đã rất nỗ
lực chủ động, cũng như phối hợp với Bộ Công thương để cải thiện tình
trạng này. Việc tăng tới 25 bậc trong bảng xếp hạng của WB như đã nói
trên chính là minh chứng rõ rệt.
Mới đây nhất, tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về logistics, Thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc cũng đã có những chỉ đạo hết sức quyết liệt và
khẳng định, Nhà nước luôn hỗ trợ, kiến tạo môi trường thuận lợi để nâng
cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics. Thủ tướng cũng
nêu rõ định hướng phát triển là tạo cơ hội bình đẳng cho các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, phát huy tối đa lợi thế vị trí địa lý
chiến lược, tăng cường kết nối để đưa Việt Nam trở thành một đầu mối
logistics quan trọng của khu vực. Mục tiêu phát triển đã được hoạch định
là đến năm 2025 tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt 15-20%, chi phí logistics
giảm xuống tương đương 16-20% GDP; xếp hạng theo chỉ số năng lực
quốc gia về logistics (LPI) trên thế giới đạt thứ 50 trở lên.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng, Bộ GTVT sẽ tiếp tục rà soát, hoàn
thiện chính sách, pháp luật, cắt giảm điều kiện kinh doanh, đơn giản hóa
thủ tục hành chính, thủ tục kiểm tra chuyên ngành, tạo môi trường pháp
lý minh bạch, cạnh tranh, lành mạnh. Mới đây nhất, Bộ trưởng Nguyễn
Văn Thể đã ký quyết định công bố cắt giảm, đơn giản 384/570 điều kiện
kinh doanh trong lĩnh vực GTVT, tương đương 67,36%.
Bộ GTVT cũng sẽ tiếp tục nâng cao công tác lập và tổ chức thực hiện
quy hoạch; Tăng cường kết nối, phát triển hợp lý các phương thức vận
tải, phát huy tối đa vận tải đa phương thức để giảm chi phí, nâng cao
chất lượng dịch vụ; Mở rộng kết nối hạ tầng logistics với các nước trong
khu vực ASEAN, Đông Bắc Á và các khu vực khác trên thế giới; Nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong kết cấu hạ tầng…
Sắp tới, Bộ GTVT sẽ tổ chức Hội thảo riêng về các giải pháp kết nối hiệu
quả hạ tầng giao thông và giảm chi phí logistics trong lĩnh vực GTVT tại
Hà Nội và TP HCM. Một kế hoạch tổng thể triển khai Chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ cũng sẽ được xây dựng đảm bảo thiết thực, khả thi,
hiệu quả trong cả giai đoạn trước mắt và dài hạn.
Cảm ơn ông!
Theo baogiaothong.vn
15. Tối ưu hóa dịch vụ công ở An Khánh
Cùng với chủ trương đơn giản hóa các thủ tục hành chính (TTHC),
UBND xã An Khánh, huyện Hoài Đức còn quan tâm đầu tư mua sắm
cơ sở vật chất, bố trí cán bộ có năng lực, trình độ cho Bộ phận một
cửa liên thông. Nhờ đó, công tác giải quyết TTHC đã mang lại hiệu
quả rõ rệt.
Trụ sở UBND xã An Khánh được đầu tư xây dựng khang trang.
Người dân hài lòng
Có mặt tại bộ phận một cửa của xã An Khánh, không còn thấy cảnh
người dân chen lấn để làm thủ tục. Thái độ phục vụ của cán bộ niềm nở,
lịch sự. Toàn bộ các thủ tục, quy trình, thời gian, mẫu tờ khai, lệ phí giao
dịch cũng được niêm yết công khai để người dân theo dõi. Để giúp
người dân thuận tiện trong giao dịch, UBND xã cử cán bộ, công chức có
trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị trực tiếp nhận hồ sơ theo từng
lĩnh vực tại bộ phận một cửa. Ngoài ra, lãnh đạo UBND xã còn thường
xuyên trực tại đây ký xác nhận giấy tờ.
Xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng nên cán bộ, công chức Bộ
phận một cửa đã thay đổi kỷ cương, lề lối làm việc, tạo sự gần gũi, niềm
nở khi tiếp xúc với Nhân dân. Nâng cao đạo đức công vụ, tinh thần trách
nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, xây dựng tác phong chuyên
nghiệp. Theo đó, công tác cải cách hành chính (CCHC) tại bộ phận một
cửa của An Khánh ngày càng đi vào nền nếp, hiệu quả công việc được
nâng lên, không xảy ra việc sai TTHC hoặc trễ hẹn.
Bà Phạm Thị Minh - người dân xã An Khánh cho biết: “Trước đây, để
làm thủ tục về đất đai, chúng tôi phải đi từ xã đến huyện xin xác nhận
giấy tờ mới có thể thực hiện xong thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Hiện nay, người dân chỉ cần đến bộ phận một cửa của xã
để được hướng dẫn, không phải mất nhiều thời gian hoàn thiện hồ sơ.
Vui vẻ, nhiệt tình là những gì cán bộ làm việc tại Bộ phận một cửa xã An
Khánh đang duy trì”.
Nâng cao trách nhiệm cán bộ
Chủ tịch UBND xã An Khánh Nguyễn Huy Hoán chia sẻ: “Chỉ từ đầu
năm 2018 đến nay, bộ phận một cửa của xã tiếp nhận 6.322 hồ sơ, giải
quyết xong trước và đúng hạn 100%. Thời gian gần đây, do người dân
đăng ký thủ tục kê khai đất đai, xây dựng, hồ sơ nhà ở tại khu đô thị trên
địa bàn tăng cao, nên ngay khi cán bộ trực tại Bộ phận một cửa tiếp
nhận hồ sơ, các bộ phận, lãnh đạo UBND xã tập trung kiểm tra, đối
chiếu, sớm hoàn thiện thủ tục theo quy định.
Thời gian qua, công tác cải cách TTHC luôn được UBND xã quan tâm,
chỉ đạo bộ phận chuyên môn tạo các mẫu hướng dẫn để người dân dễ
thực hiện. Việc sửa đổi, bổ sung cũng như quy định mới về TTHC theo
hướng đơn giản, dễ thực hiện cho người dân đã loại bỏ khâu trung gian,
rút ngắn thời gian giải quyết. Bên cạnh đó, nhờ hệ thống máy vi tính nối
mạng, nên dễ dàng cập nhật thông tin để giải quyết công việc cho các tổ
chức, cá nhân. Ngoài ra, UBND xã còn bố trí cán bộ tham gia hướng
dẫn người dân đăng ký thủ tục hành chính trên máy tính”.
Phó trưởng Phòng Nội vụ huyện Hoài Đức Ngô Thị Sinh khẳng định, mô
hình một cửa của An Khánh từng bước tối ưu hóa hoạt động giao dịch
hành chính công của cơ quan Nhà nước đối với tổ chức, cá nhân. Đồng
thời, nâng cao trách nhiệm, tinh thần phục vụ của cán bộ, góp phần tạo
niềm tin với Nhân dân.
Do vậy, An Khánh xứng đáng là đơn vị làm tốt về CCHC, đồng thời là xã
đầu tiên của huyện đăng ký bộ tiêu chí IS 9001:2008 để các địa phương
khác trong huyện học tập. “Xác định CCHC là nhiệm vụ quan trọng, nên
UBND huyện đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận
thức, ý thức trách nhiệm đội ngũ cán bộ, công chức trong thực hiện
nhiệm vụ. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết công
việc, nâng cao hiệu quả, chất lượng CCHC, gắn với thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở sẽ tiếp tục được quan tâm thực hiện” - bà Sinh cho
biết.
Theo kinhtedothi.vn
16. Bảo hiểm xã hội Hà Nội: Đồng hành cùng Thủ đô phát triển
Là một trong những trụ cột an sinh xã hội, ngành bảo hiểm Hà Nội
luôn đồng hành cùng sự phát triển của Thủ đô “mới”, góp phần ổn
định đời sống các hộ gia đình chính sách, cán bộ hưu trí.
Làm thủ tục hành chính tại Bảo hiểm xã hội Hà Nội. Ảnh: Thanh Hải
Mở rộng đối tượng tham gia
Vốn là “đầu tàu” về phát triển kinh tế xã hội, nên số lượng các đơn vị sử
dụng lao động, DN trên địa bàn Thủ đô luôn biến động. Từ khi Hà Nội
mở rộng địa giới hành chính, dân số tăng, số các DN và người lao động
(NLĐ) cũng tăng gấp 3 lần, đặt ra không ít thách thức cho ngành trong
việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT.
Giám đốc BHXH Hà Nội Nguyễn Đức Hòa nhớ lại, thời điểm hợp nhất, tỷ
lệ người dân tham gia BHYT chỉ khoảng 39%, số NLĐ tham gia BHXH
chỉ đạt hơn 900.000. Ngành bảo hiểm xác định công tác thu, phát triển
đối tượng tham gia BHXH, BHYT là một trong những nhiệm vụ cơ bản
đáp ứng yêu cầu tăng trưởng quỹ BHXH và chi trả các chế độ BHXH,
BHYT cho NLĐ - yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của ngành.
Để mở rộng đối tượng tham gia, cán bộ bảo hiểm phải về địa phương
tuyên truyền cho người dân. Những huyện như Sơn Tây, Ba Vì, nhiều xã
cách trung tâm huyện cả chục cây số, cán bộ bảo hiểm phải “ăn trực,
nằm chờ”, phối hợp với các đoàn thể địa phương để phổ biến kiến thức
BHYT, BHXH đến người dân. Nhờ vậy đến nay, TP đã có hơn 6 triệu
người tham gia BHYT (86,1% dân số Thủ đô). 100% trường từ tiểu học
đến đại học tham gia BHYT với trên 1,5 triệu học sinh, sinh viên. Số
người tham gia BHYT tự nguyện ngày một đông, đến nay đã có
1.072.521 người, tăng 942.987 người so năm 2008, đặc biệt tăng nhanh
từ năm 2016. Tỷ lệ người lao động tham gia BHXH tăng lên rõ rệt khi số
tiền thu BHXH năm 2017 tăng gấp 7,7 lần so với năm 2008.
Tuy nhiên, do địa bàn rộng, số DN lớn, nên tình trạng nợ BHXH, BHYT
khó đòi, kéo dài của nhiều DN rất phức tạp, tổng tiền nợ của Hà Nội vẫn
cao hơn mức trung bình của cả nước. Đây là bài toán khó cho ngành
bảo hiểm.
Nhìn về phía trước
Nhìn lại những khó khăn đã vượt qua sau 10 năm, ông Hòa cho biết,
BHXH Hà Nội đã rút ra những bài học kinh nghiệm. Một trong số đó là
bài học về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, giao dịch hồ sơ
điện tử, giao dịch hồ sơ qua dịch vụ Bưu chính, đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao về trình độ, chuyên môn nghiệp vụ.
Từ năm 2011, BHXH Hà Nội đã triển khai hệ thống tiếp nhận hồ sơ, giải
quyết thủ tục hành chính theo quy trình một cửa, một cửa liên thông, đến
năm 2015 tiếp tục triển khai giao dịch hồ sơ điện tử, tiếp nhận và trả kết
quả thủ tục hành chính qua dịch vụ Bưu chính viễn thông. Đến nay đã
hoàn thiện 13 quy trình thủ tục giao dịch hồ sơ điện tử liên quan đến lĩnh
vực thu và cấp sổ thẻ với 58.592 đơn vị sử dụng lao động thực hiện
(chiếm 92,3%), 90% hồ sơ được trả kết quả thông qua hệ thống bưu
chính.
“Nhờ quy trình một cửa liên thông, việc chuẩn bị hồ sơ, chứng từ của
đơn vị, NLĐ đầy đủ và dễ dàng hơn, loại bỏ được những việc gây khó
cho đơn vị và NLĐ, người tham gia BHYT cũng hiểu rõ hơn quy định,
quy trình khám chữa bệnh BHYT. Việc giải quyết xử lý hồ sơ tại từng bộ
phận, giữa các phòng nghiệp vụ và giữa phòng nghiệp vụ với BHXH các
quận, huyện, thị xã được phân định rõ ràng đảm bảo giải quyết đúng thủ
tục, trình tự và thời gian quy định” – ông Hòa cho biết.
Bên cạnh đó, theo ông Hòa, bài học lớn nhất mà toàn ngành bảo hiểm
Hà Nội luôn khắc ghi là sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành
trên địa bàn trong việc tổ chức triển khai thực hiện chính sách BHXH,
BHYT. Có vậy, các cán bộ trong ngành mới có thể kịp thời nắm bắt
những vấn đề vướng mắc, từ đó phối hợp với các ngành liên quan tìm
giải pháp, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho
các đơn vị, DN tham gia BHXH, BHYT, làm cơ sở cho việc thực hiện tốt
chế độ BHXH, BHYT cho NLĐ.
Theo kinhtedothi.vn
17. Triển khai kế hoạch thực hiện tiêu chí đánh giá chính quyền điện tử cấp thành phố và phường- xã
Chiều 30/7/2018, UBND TP Vĩnh Long tổ chức triển khai kế hoạch
thực hiện Bộ tiêu chí đánh giá mức độ chính quyền điện tử cấp
thành phố và 11 phường- xã.
Theo đó, đối với cấp huyện- thành, tiêu chí xếp hạng chính quyền điện
tử gồm có 146 tiêu chí, với thang điểm 160 được phân thành 2 nhóm
tiêu chí đánh giá.
Còn đối với cấp xã- phường tiêu chí đánh giá xếp hạng chính quyền điện
tử gồm 81 tiêu chí, với thang điểm 100.
Tuy nhiên, để xây dựng chính quyền điện tử và hướng tới cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0, thời gian tới TP Vĩnh Long đẩy mạnh đầu tư,
triển khai nhiều ứng dụng, dịch vụ công nghệ thông tin, chú trọng chia sẻ
cơ sở dữ liệu, liên kết giữa các hệ thống thông tin từ tỉnh đến địa
phương.
Qua đó xây dựng nền hành chính điện tử hiện đại, đảm bảo dữ liệu,
công tác giải quyết thủ tục hành chính liên thông từ cấp xã đến cấp tỉnh
nhằm nâng cao năng suất hiệu quả làm việc, giảm thời gian, chi phí, đáp
ứng tốt các yêu cầu của người dân và doanh nghiệp.
Việc triển khai chính quyền điện tử được thành phố kết hợp chặt chẽ với
cải cách hành chính, đến nay TP Vĩnh Long đã thực hiện tốt đề án cải
cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” tại trụ sở UBND thành
phố và 11 xã- phường.
Văn phòng một cửa liên thông hiện đại thành phố với 289 dịch vụ công
mức độ 3 và một cửa liên thông hiện đại cấp xã được triển khai thí điểm
tại Phường 1 và xã Trường An với 199 dịch vụ công.
Hiện đang triển khai xây dựng mô hình này với các xã- phường còn lại
đúng theo tinh thần chỉ đạo của UBND tỉnh, nhằm hướng đến xây dựng
chính quyền phục vụ, thân thiện và gần dân hơn.
Theo baovinhlong.com.vn
18. Đồng Tháp thí điểm mô hình chuyển giao các dịch vụ hành chính công
Giải pháp đột phá trong thực hiện công tác cải cách hành chính
nhằm mang lại các lợi ích thiết thực cho người dân, doanh nghiệp.
Đồng Tháp là địa phương đầu tiên triển khai thí điểm mô hình chuyển
giao các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công. (ảnh minh họa).
Ngày 1/8, tại Trung tâm Hành chính công tỉnh Đồng Tháp diễn ra lễ công
bố quyết định chuyển giao các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trên
địa bàn tỉnh giai đoạn 1. Đồng Tháp là địa phương đầu tiên của cả nước
triển khai thí điểm mô hình này. Đây là giải pháp đột phá trong thực hiện
công tác cải cách hành chính nhằm mang lại các lợi ích thiết thực cho
người dân, doanh nghiệp.
Kể từ ngày 1/8, Đồng Tháp thí điểm chuyển giao cho Bưu điện tỉnh thực
hiện các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công tại Trung tâm Hành chính
công tỉnh gồm 6 lĩnh vực: Thông tin và Truyền thông, Khoa học và Công
nghệ, Giáo dục và Đào tạo, Ngoại vụ, Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Lao
động - Thương binh và Xã hội. Việc chuyển giao các nhiệm vụ, dịch vụ
hành công còn được thực hiện tại Bộ phận Một cửa huyện Thanh Bình,
Tam Nông và Bộ phận Một cửa các xã: Tân Long, Tân Thạnh (huyện
Thanh Bình); Thường Phước 2, Thường Thới Tiền (huyện Hồng Ngự).
Mô hình thí điểm chuyển giao các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công
trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp có ý nghĩa quan trọng, khẳng định quyết
tâm đổi mới, sáng tạo của tỉnh và ngành Bưu điện nhằm mục tiêu mang
đến sự tiện ích và hài lòng cho người dân. Tổng công ty Bưu điện Việt
Nam cam kết cùng song hành với chính quyền địa phương, tạo thành
công của Đề án tại Đồng Tháp để tiếp tục nhân rộng ra nhiều địa
phương khác trong cả nước./.
Theo vov.vn