11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

29
BGIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HC QUC THNG BÀNG Đề Tài Tng Quan Du Lch HTên Sv : Vũ Tuyến Minh Mã SSv : 115074015 Lp : 11TC_DL1 Khoa: Qun TrDu Lch Quc Tế Ngành : Qun TrNhà Hàng & Khách Sn Năm học : 2011 - 2013

Transcript of 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

Page 1: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG

Đề Tài Tổng Quan Du Lịch

Họ Tên Sv : Vũ Tuyến Minh Mã Số Sv : 115074015

Lớp : 11TC_DL1

Khoa: Quản Trị Du Lịch Quốc Tế

Ngành : Quản Trị Nhà Hàng & Khách Sạn

Năm học : 2011 - 2013

Page 2: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

1

PHỤ LỤC

PHỤC LỤC ..........................................................................................................................01

PHẦN I - Khái quát chung về Thành Phố Hồ Chí Minh .....................................................02

PHẦN II - Lịch sử hình thành và phát triển của Sài Gòn xưa và nay ......................... 03 - 11

II.1 - Những ghi chép đầu tiên về tên gọi Sài Gòn .......................................................

II.2 - Các giả thiết về nguồn gốc tên gọi Sài Gòn ..........................................................

II.3 - Lịch sử thiết lập hành chính ..................................................................................

II.4 - Một số sự kiện lịch sử của Thành Phố Hồ Chí Minh ...........................................

PHẦN III - Hình ảnh Sài Gòn xưa và nay ................................................................... 12 - 20

PHẦN IV - Tổng quan đặc trưng du lịch của Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh ................ 21 - 27

Sơ lược về đặc điểm du lịch thành phố .....................................................................

Bảo tàng ....................................................................................................................

Chùa chiền ................................................................................................................

Nhà thờ......................................................................................................................

Công trình kiến trúc ..................................................................................................

Điểm du ngoạn ..........................................................................................................

Khách sạn và ẩm thực ...............................................................................................

Khám phá vùng lân cận ............................................................................................

PHẦN V - Cảm nhận về Sài Gòn trong tâm trí tôi ..............................................................28

Page 3: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

2

- PHẦN I -

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Diện tích : 2.095,239 km2

Dân số : 7.123.340 người (2009)

Dân tộc : Việt , Hoa , Khơme , Chăm…

Đơn vị HC : 24 quận huyện

Khí hậu hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa bình quân năm

1.979 mm. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm 27,55 0C,

không có mùa đông.

Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong toạ độ địa lý khoảng 10 0

10' – 10 0

38 vĩ độ bắc

và 106 0

22' – 106 054

' kinh độ đông . Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây

Ninh , Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, Tây

và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang.

Thành phố Hồ Chí Minh cách thủ đô Hà Nội gần 1.730km đường bộ, nằm ở ngã tư

quốc tế giữa các con đường hàng hải từ Bắc xuống Nam, từ Ðông sang Tây, là tâm điểm của

khu vực Đông Nam Á. Trung tâm thành phố cách bờ biển Đông 50 km đường chim bay. Đây

là đầu mối giao thông nối liền các tỉnh trong vùng và là cửa ngõ quốc tế . Với hệ thống cảng

và sân bay lớn nhất cả nước, cảng Sài Gòn với năng lực hoạt động 10 triệu tấn /năm. Sân

bay quốc tế Tân Sơn Nhất với hàng chục đường bay chỉ cách trung tâm thành phố 7km.

Sài Gòn cổ xưa được thành lập từ năm 1623, nhưng tới năm 1698, Chúa Nguyễn mới

cử Thống soái Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược đất Phương Nam, khai sinh ra thành phố Sài

Gòn. Năm 1911, Sài Gòn là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại ra đi tìm đường cứu nước, khi

đất nước thống nhất, Quốc Hội khoá VI họp ngày 2.7.1976 đã chính thức đổi tên Sài Gòn là

thành phố Hồ Chí Minh .

Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố trẻ, với hơn 300 năm hình thành

và phát triển, thành phố có rất nhiều công trình kiến trúc cổ, nhiều di tích và hệ thống bảo

tàng phong phú.

Với vị trí địa lýthuận lợi, Sài Gòn – nơi một thời được mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn

Đông" đã là trung tâm thương mại và là nơi hội tụ của nhiều dân tộc anh em, mỗi dân tộc có

tín ngưỡng, sắc thái văn hoá riêng góp phần tạo nên một nền văn hoá đa dạng. Đặc trưng

văn hoá của vùng đất này là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống dân tộc với những nét văn

hoá phương Bắc, phương Tây, góp phần hình thành lối sống, tính cách con người Sài Gòn.

Đó là những con người thẳng thắn, bộc trực, phóng khoáng, có bản lĩnh, năng động, dám

nghĩ, dám làm .

Năng động và sáng tạo, Thành phố Hồ Chí Minh luôn đi đầu cả nước trong các

phong trào xã hội, nơi đầu tiên trong cả nước được công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục

trung học.

Với vai trò đầu tàu trong đa giác chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, thành phố Hồ

Chí Minh đã trở thành trung tâm kinh tế, văn hoá - du lịch, giáo dục - khoa học kỹ thuật - y

tế lớn của cả nước.

Trong tương lai, thành phố sẽ phát triển mạnh mẽ về mọi mặt, có cơ cấu công nông

nghiệp hiện đại, có văn hoá khoa học tiên tiến, một thành phố văn minh hiện đại có tầm cỡ ở

khu vực Đông Nam Á.

Page 4: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

3

- PHẦN II –

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỀN CỦA

SÀI GÒN XƯA VÀ NAY

Thành phố Hồ Chí Minh là tên gọi chính thức từ tháng 7 năm 1976 khi được Quốc hội

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đổi tên từ Sài Gòn. Hiện nay tên gọi Sài Gòn vẫn

được nhắc đến như tên bán chính thức của thành phố này.

II.1 Những ghi chép đầu tiên về tên gọi Sài Gòn

Hơn 300 năm trước, vùng đất này chỉ là những bãi sình lầy, hoang vu. Với hệ thống

sông rạch khá thuận tiện cho việc di chuyển, những lưu dân người Việt đầu tiên đã vượt biển

tìm đến mưu sinh ở miền đất này. Bằng bàn tay và khối óc, bằng mồ hôi, nước mắt và cả

xương máu nữa, họ đã biến miền đất hoang sơ thành đồng ruộng phì nhiêu, phố phường

đông đúc... Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn vào Nam kinh lược, đặt cơ

sở hành chính đầu tiên và việc xác định Sài Gòn ở vị trí trung tâm cho cả vùng đất phương

Nam thể hiện xu thế phát triển và bản lĩnh kiên cường của một dân tộc vốn có nền tảng văn

hiến ngàn đời. Chính vì vậy mà Sài Gòn – Gia Định suốt mấy thế kỷ qua đã đứng vững trước

bao thử thách và ngày càng phát triển...

Địa danh Sài Gòn trên 300 năm và từng được dùng để chỉ một khu vực với diện tích

khoảng 1 km² (Chợ Sài Gòn) có đông người Tàu (người Trung Quốc) sinh sống trong thế kỷ

thứ 18. Địa bàn đó gần tương ứng với khu Chợ Lớn ngày nay.

Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Launay, Histoire de la Mission

Cochinchine, có ghi chép "Rai Gon Thong" (Sài Gòn Thượng) và "Rai Gon Hạ" (Sài Gòn

Hạ).

Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống suất

Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ "Lũy Sài Gòn" (theo

Hán Nho viết là "Sài Côn"). Đây là lần đầu tiên chữ "Sài Gòn" xuất hiện trong tài liệu Việt

Nam. Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán "Côn" được dùng thế cho "Gòn". Nếu đọc theo Nôm là

"Gòn", còn không biết đó là Nôm mà đọc theo chữ Hán thì là "Côn".

Sau đó danh xưng Sài Gòn được dùng để chỉ các khu vực nằm trong lũy Lão Cầm

(năm 1700), lũy Hoa Phong (năm 1731) và lũy Bán Bích (năm 1772), chỉ với diện tích 5 km².

Ngày 11 tháng 4 năm 1861, sau khi chiếm được thành Gia Định, Phó Đô đốc Léonard

Charner ra nghị định xác định địa giới thành phố Sài Gòn (tiếng Pháp: Ville de Saigon) bao

gồm cả vùng Sài Gòn và Bến Nghé. Đến ngày 3 tháng 10 năm 1865, quyền thống đốc Nam

Kỳ, chuẩn đô đốc Pierre Roze đã ký nghị định quy định lại diện tích của thành phố Sài Gòn

chỉ còn 3km2 tại khu Bến Nghé cũ, đồng thời cũng quy định thành phố Chợ Lớn (tiếng Pháp:

Ville de Cholon) tại khu vực Sài Gòn cũ. Từ đó tên gọi Sài Gòn chính thức dùng để chỉ vùng

đất Bến Nghé, và tên Chợ Lớn để chỉ vùng Sài Gòn cũ. Sau năm 1956, tên gọi Sài Gòn được

dùng chung để chỉ cả 2 vùng đất này.

Page 5: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

4

II.2 Các giả thiết về nguồn gốc tên gọi Sài Gòn

Đề Ngạn

Đây là thuyết được đưa ra bởi 2 người Pháp là Aubaret và Francis Garnier. Theo

Aubaret, Histoire et description de la Basse-Cochinchine, và Garnier, Cholen, thì năm 1778

người Hoa ở Cù lao Phố (Biên Hòa) vì giúp đỡ nhà Nguyễn nên bị quân nhà Tây Sơn tàn sát

phải rút lui theo con sông Tân Bình (Bến Nghé), chọn vùng đất ở giữa đường Mỹ Tho đi Cù

lao Phố mà xây dựng tân sở, ngày sau thành phố Chợ Lớn. Năm 1782 họ lại bị quân nhà Tây

Sơn tàn sát một lần nữa. Ít lâu sau họ xây dựng lại, đắp đê cao nên đặt tên chỗ mới là "Tai-

Ngon", hoặc "Tin-Gan", phát âm theo giọng Quảng Đông là "Thầy Ngồn" hay "Thì Ngòn",

đọc theo âm Hán-Việt là "Đề Ngạn" (堤岸). Họ dùng danh từ "Tây Cống" hoặc "Xây-cóon",

"Xi-cóon" để ám chỉ vùng người Việt ở tức chợ Bến Thành ngày nay.

Thuyết này được hai học giả là Vương Hồng Sển và Thái Văn Kiểm đồng ý. Quả thật,

trên phương diện ngữ âm, thì "Thầy Ngòn", "Xi Coón" rất giống "Sài Gòn". Tuy nhiên, giả

thuyết này về sau bị chứng minh tính bất hợp lý khi phát hiện tài liệu ghi lại tên gọi Sài Gòn

đã được sử dụng từ trước 1778.

Củi và Bông gòn Có thuyết nói rằng "Sài Gòn" bắt nguồn từ chữ "Sài" theo chữ Hán là củi và "Gòn" là

chữ Nôm chỉ cây bông gòn.

"Sài là mượn tiếng viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ, Gòn là tiếng Nam chỉ bông gòn.

Người ta nói rằng tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều cây bông gòn do người Cao Miên đã

trồng chung quanh đồn đất xưa của họ, mà dấu vết nay vẫn còn ở chùa Cây Mai và các vùng

lân cận. ... Theo ý tôi, hình như tên đó là của người Cao Miên đặt cho xứ này, rồi sau đem

làm tên gọi thành phố. Tôi chưa tìm ra được nguồn gốc đích thực của tên đó."

(Trương Vĩnh Ký, Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, trong Excursions et

Reconnaissance X. Saigon, Imprimerie Coloniale 1885)

Tương tự có nhiều thuyết cho rằng "Sài Gòn" từ chữ "Prey Kor" (Rừng Gòn) hay

"Kai Gon" (Cây Gòn) mà ra. Nói chung, các thuyết này đều dựa trên một đặc điểm chính:

cây bông gòn.

Nhưng thuyết này phần lớn đã bị bác bỏ vì lý do đơn giản là không ai tìm được dấu

tích của một thứ "rừng gòn" ở vùng Sài Gòn, hay sự đắc dụng của củi gòn ở miền Nam, kể cả

Trương Vĩnh Ký. Ngay vào thời của Trương Vĩnh Ký (1885) tức khoảng hơn 100 năm sau mà

đã không còn dấu tích rõ ràng của thứ rừng này, mặc dù lúc đó không có phát triển gì lắm.

Ngay cả khi Louis Malleret khảo nghiệm lại, hình như cũng không có dấu vết gì của một rừng

gòn ở Sài Gòn.

Thêm nữa là cây gòn thời đó dùng làm hàng rào chứ không làm củi. Và theo Lê Trung

Hoa trong Địa Danh thì "sài" chỉ xuất hiện trong các từ ghép Hán-Việt, như "sài Tân" chứ

chưa bao giờ được dùng như một từ đơn, nên không thể nói "củi" được, là "sài" được, hay là

"củi gòn" là "Sài Gòn" được.

Vậy, thuyết Sài Gòn là "củi gòn" đã bị bác bỏ bởi thực tế địa lý và ngữ học.

Bến Củi

Dọc theo con đường Nam tiến của dân tộc Việt Nam có nhiều bến bên các dòng sông:

Bến Vân đồn, Bến Thủy, Bến Hải, Bến Quan, Bến Ván, Bến Thóc, Bến Đình, Bến Tranh, Bến

Tre, Bến Súc, Bến Tắm Ngựa, Bến Thành, Bến Thành... Một số địa danh bị biến đổi như Bến

Ván đã được đổi ra Bản Tân, Bến Thóc đã đổi ra Mễ Tân. Rất có thể địa danh Bến Củi đã

được đổi ra Sài Tân hoặc Sài Ngạn (do người Quảng Đông sống ở khu vực này gọi bến (bờ)

Page 6: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

5

bằng chữ Ngạn, củi gỗ là Sài. "Sài Ngạn" (được phát âm như là "Xây-cóon" hay "Xi-cóon")

có lẽ do phát âm trại thành "Sài Gòn".

Tuy nhiên giả thuyết này bị phát bỏ vì mơ hồ và thiếu thuyết phục, vì tên gọi Sài Gòn

được ghi chép từ ngay trước khi người Hoa bỏ Cù Lao Phố về Sài Gòn.

Prei Nokor

Dựa theo lịch sử và phát âm có thuyết cho là "Sài Gòn" là được phiên âm từ "Prei

Nokor" hay từ "Thầy Ngồn" mà ra. Prei Nokor nguyên là dinh của phó vương Chân Lạp

thuộc vùng Chợ Lớn tới chùa Cây Mai, là dấu vết của một "thành phố" có từ thời Tiền

Angkor (theo nhà sử học Pháp Louis Malleret). Tuy nhiên không có tài liệu nào khẳng định

rằng nơi đây từng tồn tại khu dân cư trước thế kỷ 16.

Ông Petrus Trương Vĩnh Ký là người đưa ra thuyết này. Trong tiểu giáo trình Địa lý

Nam Kỳ, ông đã công bố một danh sách đối chiếu 187 địa danh Việt Miên ở Nam Kỳ, như

Cần Giờ là Kanco, Gò Vấp là Kompăp, Cần Giuộc là Kantuọc và Sài Gòn là Prei Nokor.

Hai ông Nguyễn Đình Đầu và Lê Trung Hoa đều đồng ý với thuyết này, dựa theo lịch sử và

ngữ âm.

Theo sử Cao Miên được dịch lại bởi Louis Malleret, vào năm 1623, một sứ thần của

chúa Nguyễn đem quốc thư tới vua Cao Miên và ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor và Kras

Krabei của Cao Miên để đặt phòng thu thuế. Tới năm 1674, Cao Miên có biến, chúa Nguyễn

sai Nguyễn Dương Lâm đánh và phá luỹ Sài Gòn. Vậy, từ 1623 tới 1674, vùng Prei Nokor,

hay Sài Gòn, đã phát triển lắm.

Đó là theo sử sách, còn theo tiếng nói thì Prei Nokor (hay Brai Nagara theo tiếng

Phạn mà người Miên mượn), có nghĩa là "thị trấn ở trong rừng", "Prei" hay "Brai" là

"rừng", "Nokor" hay "Nagara" là "thị trấn". Đây là vùng mà chúa Nguyễn đã mượn làm nơi

thu thuế.

Theo tiến trình của ngôn ngữ, Prei hay Brai biến thành Rai, thành "Sài", Nokor bị bỏ

"no" thành "kor", và từ "kor" thành "gòn".

Những tên gọi khác chỉ vùng đất Sài Gòn

Trước đó Sài Gòn có nhiều tên khác nữa, đầu tiên là Thù Nại bao gồm hầu hết vùng

phía Đông Nam Bộ ngày nay (rộng khoảng 20,000-25,000 km²). Đến năm 1698, Sài Gòn có

tên là Huyện Tân Bình, lúc này chỉ khoảng 5,000 km² và có đường biên giới phía Tây là sông

Sài Gòn.

II.3 Lịch sử thiết lập hành chính

Thời cổ đại

Vào thời kỳ cổ đại, khu vực nay là Thành phố Hồ Chí Minh thuộc đế quốc Phù Nam.

Đầu thế kỷ 17 trên một khu vực rộng lớn, dân cư thưa thớt, nằm trong khu vực tranh chấp

ảnh hưởng giữa Chân Lạp và Chiêm Thành chỉ ghi nhận 2 ngôi làng nhỏ của người Chân

Lạp. Một tên Prei Nokor (nay là vùng Chợ Lớn), một mang tên Kas Krobei (nay là khu vực

quận 2).

Page 7: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

6

Đường phố Sài Gòn năm 1915

Thời chúa Nguyễn và nhà Nguyễn

Năm 1623, Chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey Chettha II cho lập đồn thu

thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Đây là vùng rừng rậm hoang vắng

nhưng cũng là địa điểm qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam đi Cao Miên và

Xiêm La. Cùng khi đó, người Việt bắt đầu tập trung sinh sống tại xung quanh hai đồn này.

Chẳng bao lâu, hai đồn thu thuế trở thành trung tâm của

khu thị tứ trên bến dưới quyền, công nghiệp và thương

nghiệp sầm uất.

Vào khoảng năm 1658, Đế chế Chân Lạp đứng trên

bờ vực khủng hoảng đã cầu viện chúa Nguyễn nhằm chống

lại người Thái. Năm 1679, chúa Nguyễn cho phép một

nhóm người Hoa phản Thanh phục Minh, gồm hơn 3.000

người tị nạn tại nơi nay là Biên Hòa (Đồng Nai).

Năm 1698, chúa Nguyễn cử Lễ Thành Hầu Nguyễn

Hữu Cảnh vào Nam, thiết lập chính quyền, các đơn vị hành

chánh, chia đặt tỉnh lỵ v.v., chính thức xác lập chủ quyền

của Đại Việt trên vùng đất mới. Nguyễn Hữu Cảnh lấy xứ

Đồng Nai làm huyện Phước Long và xứ Sài Gòn làm huyện

Tân Bình, đặt ra hai dinh Trấn Biên (Biên Hoà) và Phiên Trấn (Gia Định), cho quan vào cai

trị. Từ đó, xứ Sài Gòn trở thành huyện Tân Bình và huyện sở đặt ở làng Tân Khai, là trụ sở

của dinh Phiên Trấn. Những xóm làng đầu tiên của Sài Gòn là xóm Hòa Mỹ (tức xóm Thủy

Trại, gần đường Cường Để), xóm Tân Khai (đường mé sông khoảng cầu Mống), xóm Long

Điền, xóm Than, xóm Bàu Sen (cây Mai), xóm Phú Giáo, xóm Lò Bún, xóm Cây Củi, xóm Rẫy

Cải, xóm Ụ Ghe. Sài Gòn trở thành một thị trấn đông đúc với hơn một vạn dân và là thủ phủ

của dinh Phiên Trấn. Thanh Hà là xã đầu tiên của người Hoa ở, vùng Đồng Nai và Minh

Hương là xã đầu tiên của người Hoa tại Tân Bình.

Năm 1790, chúa Nguyễn Phúc Ánh cho đắp thành Gia Định ở làng Tân Khai, lập Gia

Định Kinh, làm nơi đóng đô của Nguyễn Ánh chống quân Tây Sơn. Sau khi thống nhất đất

nước, năm 1802, vua Gia Long cho lập kinh đô ở Huế, đổi Gia Định Kinh lại thành Gia Định

Trấn. Đây là một đơn vị hành chính quản trị cả 5 trấn Phiên An, Biên Hòa, Định Tường,

Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Do dễ gây ra sự nhầm lẫn về danh xưng Trấn, nên năm 1808, Gia

Long cho thành lập Gia Định Thành, một cơ quan hành chính cấp cao, thay mặt hoàng đế

quản trị 5 trấn. Tại Bắc Hà, Gia Long cũng cho thành lập một đơn vị hành chính tương

đương là Bắc Thành.

Năm 1832, Minh Mạng giải tán Gia Định Thành, chia lại 5 trấn do Gia Định Thành

quản lý lại thành 6 tỉnh, gọi chung là Nam Kỳ Lục tỉnh. Phiên An trấn trở thành tỉnh Phiên

An.

Sau cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, thành Quy bị phá hủy. Một thành mới nhỏ hơn

gọi là thành Phụng được xây dựng. Thành này không chống nổi cuộc vây hãm của quân Pháp

vài năm sau đó.

Page 8: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

7

Thời Pháp xâm chiếm Nam Kỳ Sau khi chiếm được Sài Gòn vào năm 1859,

người Pháp đã gấp rút quy hoạch xây dựng Sài Gòn

thành một đô thị lớn nhiều chức năng (hành chánh,

quân sự, kinh tế, cảng, v.v.). Ngày 11 tháng 4 năm

1861, Phó Đô đốc Léonard Charner ra nghị định xác

định địa giới thành phố Sài Gòn (tiếng Pháp: Ville de

Saigon) lúc đó: phía đông là sông Sài Gòn, phía bắc

là rạch Thị Nghè, phía nam là rạch Bến Nghé, phía

tây từ chùa Cây Mai đến đồn Kỳ Hòa, diện tích 25

km². Theo đó, ngày 30 tháng 4 năm 1862, trung tá

(hay đại tá?) công binh Coffyn đã cho soạn dự án mở

rộng thành phố Sài Gòn, và được thống đốc đầu tiên

của Nam Kỳ, Chuẩn đô đốc Louis Bonard. Tuy nhiên,

dự án này chỉ được triển khai một thời gian ngắn thì

bị bỏ dở. Ngày 14 tháng 8 năm 1862, Bonard lại ký Quyết định số 145 về quy định tổ chức

hành chính tỉnh Gia Định, theo đó tỉnh Gia Định (tiếng Pháp: Province de Gia-dinh) gồm 3

phủ (tiếng Pháp: département), mỗi phủ có ba huyện (tiếng Pháp: arrondissement), dưới

huyện có tổng, dưới tổng có xã, thôn, lý, ấp. Về cơ bản vẫn giữ cách phân chia hành chính

của triều Nguyễn. Địa bàn thành phố Sài Gòn theo quy hoạch của Coffyn nằm trải rộng trên

cả 2 huyện Bình Dương và Tân Long, đều cùng phủ Tân Bình.

Để điều chỉnh lại, ngày 3 tháng 10 năm 1865, quyền thống đốc Nam Kỳ, chuẩn đô đốc

Pierre Roze đã ký nghị định quy định lại diện tích của thành phố Sài Gòn chỉ còn 3km2 (nằm

gọn trong khu vực quận 1 ngày nay), đồng thời cũng quy định thành phố Chợ Lớn (tiếng

Pháp: Ville de Cholon) trong một nghị định khác, với diện tích 1km2 (nằm gọn trong quận 5

hiện nay). Giữa 2 thành phố là các thôn xã như Phú Thạnh, Thái Bình, Tân Hòa, Phước

Hưng, Nhơn Giang, Tân Kiểng, An Bình, An Đông, Hòa Bình... vẫn thuộc 2 huyện Bình

Dương và Tân Long như cũ.

Sau khi chiếm được thêm 3 tỉnh Tây Nam Kỳ,

Phó Đô đốc de La Grandière xóa bỏ cách phân chia

địa giới hành chánh cũ của triều Nguyễn, hủy bỏ cấp

tỉnh và phủ, chia toàn cõi Nam Kỳ thành 25

arrondissement, lúc này được gọi là địa hạt hay quận

thay cho các huyện trước đây. Địa bàn của thành phố

Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn, cùng các xã thôn ở

giữa đều thuộc địa hạt (hay Quận) Sài Gòn. Trước đó,

de La Grandière cũng đã ban hành nghị định số 53

ngày 4 tháng 4 năm 1867, quy định về việc "Tổ chức

một ủy ban thành phố Sài Gòn" Sau đó, ngày 8 tháng 7

năm 1869, Chuẩn đô đốc Gustave Ohier đã ban hành nghị định số 131, cải danh Ủy ban

thành phố (tiếng Pháp: Commission municipale) thành Hội đồng thành phố (tiếng Pháp:

Conseil municipal), do một viên Đốc lý (Maire) đứng đầu Hội đồng và một số sửa đổi chi tiết

về thành phần nhân sự của Hội đồng.

Năm 1876, Chuẩn đô đốc Victor Auguste Duperré, Tổng chỉ huy quân Pháp tại Nam

Kỳ, ra nghị định phân chia toàn bộ Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn, gọi là

circonscription administrative, mỗi khu vực ấy lại gồm nhiều tiểu khu hay hạt tham biện

(arrondissement administratif). Sài Gòn là một trong 4 khu vực hành chính lớn và gồm 5 hạt

Sài Gòn (đến năm 1885 mới đổi thành hạt Gia Định), Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa và

Bà Rịa.

Ngày 8 tháng 1 năm 1877, Tổng thống Pháp Mac Mahon ra "Sắc lệnh về tổ chức cấp

thành phố của Thành phố Sài Gòn" (nguyên văn: Dercet concernant l'organissation

Người Pháp đã xây dựng ở Sài Gòn

một thành phố tao nhã và sôi động

được mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn

Đông" hay "Paris của Phương Đông"

Sài Gòn thời Pháp thuộc với xe ngựa

và những cột Morris đặc trưng Pháp

Page 9: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

8

municipale de la Ville de Saigon), ban hành ngày 16 tháng 5 năm 1877. Theo đó, thành phố

Sài Gòn được nâng cấp thành công xã (nguyên văn La Ville de Saigon est éigée en

commune). Thời kỳ này, địa giới của thành phố Sài Gòn đã được mở rộng hơn: phía tây nam

đến khu vực Cầu Ông Lãnh, phía đông bắc đến khu công viên Lê Văn Tám hiện nay.

Ngày 20 tháng 10 năm 1879, thống đốc dân sự đầu tiên của Nam Kỳ, Le Myre de

Vilers đã ký nghị định "thành lập một Hội đồng thành phố Chợ Lớn" (nguyên văn: Institution

d'un cóseil municipal à Cholon).

Ngày 13 tháng 12 năm 1880, Le Myre de Vilers lại ra nghị định thành lập Khu Sài

Gòn-Chợ Lớn (Region de Sài Gòn-Chợ Lớn), đặt dưới quyền cai trị của Giám đốc Nha Nội

chính (tiếng Pháp: Directeur de l'Intérieur). Khu Sài Gòn-Chợ Lớn bao gồm hai thành phố

này và vùng phụ cận. Đến ngày 12 tháng 1 năm 1888, hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn lại

được tách ra như cũ.

Ngày 17 tháng 12 năm 1894, một nghị định đã mở rộng địa giới thành phố Sài Gòn về

phía Bắc đến khu vực Hòa Hưng ngày nay. Diện tích thành phố được mở rộng hơn 4km2,

thuộc địa giới của quận 1 và quận 3 ngày nay.

Năm 1899, Toàn quyền Joseph Athanase Paul Doume ra nghị định đổi tên gọi "hạt"

thành "tỉnh" (province) và chia Nam Kỳ thành 3 miền, với 20 tỉnh và 3 thành phố Sài Gòn,

Chợ Lớn, thành phố tự trị Cap Saint Jacques và Côn Đảo không thuộc tỉnh nào. Thành phố

Sài Gòn nằm giữa địa giới của tỉnh Gia Định, còn thành phố Chợ Lớn nằm giữa địa giới của

tỉnh Chợ Lớn.

Đến năm 1910, hai thành phố Sài Gòn và Chợ

Lớn đã được mở rộng thêm diện tích, sát nhập các xã

thôn ở giữa thuộc 2 tỉnh Gia Định và Chợ Lớn, bắt

đầu tiếp giáp nhau tại vị trí nay là đường Nguyễn

Văn Cừ và Nguyễn Thiện Thuận. Sài Gòn cũng được

mở rộng về phía Nam, bao gồm cả địa bàn quận 4 và

một phần quận 7 ngày nay.

Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Khu Sài Gòn-Chợ Lớn

(tiếng Pháp: Région de Saigon - Cholon) được thành

lập lại theo sắc lệnh của Tổng thống Pháp. Đứng đầu

Khu Sài Gòn-Chợ Lớn là một Trưởng khu, do Toàn

quyền Đông Dương bổ nhiệm. Trưởng khu là Chủ

tịch Hội đồng Quản trị khu Sài Gòn-Chợ Lớn, quản trị chung cả 2 thành phố. Thành phố Chợ

Lớn được mở rộng hơn sát nhập thêm 1 số vùng của tỉnh Chợ Lớn, nhưng thành phố Sài Gòn

thu hẹp, cắt trả khu vực từ kinh Bàu Đồn đến Kinh Tẻ (nay thuộc quộc 7) về cho quận Nhà

Bè. Tổng diện tích của cả khu tăng lên 51 km2. Chức Đốc lý của mỗi thành phố tạm thời vẫn

giữ nguyên nhưng một số quyền hạn của chức này chuyển sang cho Trưởng khu. Từ đây Sài

Gòn-Chợ Lớn nhập làm một.

Ngày 19 tháng 12 năm 1941, các văn phòng Đốc lý của 2 thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn bị

giải thể. Toàn Khu Sài Gòn-Chợ Lớn được chia thành 5 quận cảnh sát, trông coi về an ninh

trật tự, bao gồm:

Quận I (nay thuộc một phần quận 1)

Quận II (nay thuộc một phần quận 1)

Quận III

Quận IV (nay là địa bàn quận 5 và quận 8)

Quận V (nay là địa bàn thuộc quận 6)

Thời kỳ 1945-1954 Khi Việt Nam độc lập (1945), nơi đây được gọi là thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn. Vào

ngày 23 tháng 9 năm 1945, ở đây xảy ra trận Sài Gòn-Chợ Lớn giữa quân đội của Chính

quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với quân đội Pháp được hỗ trợ bởi Anh-Ấn. Sau khi tái

Bản đồ du lịch Sài Gòn vào khoảng

năm 1920

Page 10: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

9

chiếm được Đông Dương, năm 1948 chính quyền Pháp tại Đông Dương đã chia thành phố

thành 6 quận hành chính, đến năm 1952, tăng thành 7. Quận VI được thành lập từ một phần

của quận Nhà Bè thuộc tỉnh Gia Định (nay là quận 4).

Thời kỳ 1954-1975 Giữa những năm 1954 và 1975, sau Hiệp định

Genève, Sài Gòn được chính quyền Việt Nam Cộng hòa

xây dựng làm thủ đô.

Năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã đổi tên

Khu Sài Gòn-Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn - Chợ

Lớn. Sau khi trở thành Tổng thống, ngày 22 tháng 10

năm 1956, Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 143-NV đổi

"Đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn" thành "Đô thành Sài

Gòn". Sau đó, lại ra sắc lệnh số 74-TTP ngày 23 tháng

3 năm 1959 ấn định quy chế quản trị Sài Gòn: Tổng

thống trực tiếp bổ nhiệm Đô trưởng và các quận trưởng

trong đô thành. Bốn ngày sau, lại có thêm nghị định số

110-NV chia lại các quận, theo đó Đô thành Sài Gòn

được chia lại thành 8 quận, được đánh số từ 1 đến 8:

Quận 1: địa giới quận I cũ

Quận 2: địa giới quận II cũ

Quận 3: địa giới quận III cũ

Quận 4: địa giới thuộc quận VI cũ

Quận 5: phần địa giới thuộc quận IV cũ, phía

bắc Kênh Tàu hủ

Quận 6: một phần địa giới của quận V cũ

Quận 7: một phần địa giới của quận V cũ

Quận 8: phần địa giới thuộc quận IV cũ, phía nam Kênh Tàu hủ

Dưới quận là phường, dưới phường là khóm.

Tháng 12 năm 1966, quận 1 sát nhập thêm hai

phường mới lập: An Khánh và Thủ Thiêm, từ xã An

Khánh thuộc quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định kế cận

tách ra. Tháng 1 năm 1967, hai phường mới của quận

I lại tách ra, lập thành Quận 9 của Đô thành Sài Gòn

có 2 phường.

Tháng 7 năm 1969 thành lập Quận 10, Quận 11

trên cơ sở tách một phần Quận 5 và Quận 6. Lúc này

thành phố có diện tích 67,53 km² với dân số khoảng 2

triệu người, gốm 11 quận và 60 phường.

Vào thập niên 1950-60, thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, Saigon tiếp tục phát triển rực

rỡ và tiếp tục được mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông" (The Pearl of the Far East) hay

"Paris Viễn Đông" (Paris de l'Extrême-Orient) , với một hạ tầng cơ sở được xây dựng khá

hoàn chỉnh. Tuy nhiên, do chiến cuộc leo thang từ giữa cuối thập niên 1960, chính quyền Sài

gòn cùng người Mỹ đã cho xây dựng ồ ạt các công trình phục vụ chiến tranh. Rồi sau đó là

phong trào "thương phế binh cắm dùi" của cựu chiến binh quốc gia vào đầu thập niên 1970,

khiến cho kiến trúc Sài Gòn không còn như ban đầu. Tới lúc giải phóng 30 tháng 4 năm

1975, cả thành phố hoang tàn, bừa bộn, kiến trúc đường xá thay đổi tùy tiện, nhà cửa phát

triển tự do theo kiểu "ống hóa".

Giao lộ Lê Lợi-Nguyễn Huệ 1966

Khách sạn Continental 1966

Page 11: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

10

Biến cố và mở rộng địa giới Ngày 30 tháng 4 năm 1975 Quân Giải Phóng Miền

Nam tấn công và Sài Gòn thất thủ. Chính quyền Việt

Nam Cộng hòa bị giải thể và Chính phủ Cách mạng

lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam - nằm dưới

sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - quản lý

miền Nam. Ngày 10 tháng 5 năm 1975, Hội nghị Ban

Thường vụ Thành ủy Sài Gòn - Gia Định xác định

Thành phố Sài Gòn - Gia Định là một cơ cấu hành

chính thống nhất, bao gồm toàn bộ Đô thành Sài

Gòn, toàn bộ tỉnh Gia Định, quận Phú Hòa của tỉnh

Bình Dương và quận Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa cũ.

Toàn thành phố bao gồm 21 quận, trong đó 14 quận

nội thành: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, Phú Nhuận (nguyên là xã Phú Nhuận, thuộc quận

Tân Bình cũ, được tách ra và nâng cấp thành quận), Bình Hoà (nguyên là xã Bình Hòa, quận

Gò Vấp cũ), Thạnh Mỹ Tây (nguyên là xã Thạnh Mỹ Tây, quận Gò Vấp cũ); 7 quận ngoại

thành: Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh, Tân Bình (trừ xã Phú Nhuận, Gò Vấp (trừ Bình Hòa

và Thạnh Mỹ Tây), Hóc Môn, Củ Chi (gồm quận Phú Hòa của tỉnh Bình Dương và quận Củ

Chi của tỉnh Hậu Nghĩa cũ).

Từ năm 1976 Ngày 26 tháng 8 năm 1946, 57 nhân sĩ, trí

thức ở Sài Gòn gửi thỉnh nguyện thư lên Quốc hội

khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa để xin đổi tên thành phố này theo tên chủ tịch

Hồ Chí Minh nhưng chưa thành hiện thực[6]

.

Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội đầu tiên

của nước Việt Nam thống nhất đổi tên nước thành

Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đồng thời đặt

lại tên cho thành phố theo tên của chủ tịch đầu tiên

của nước, Hồ Chí Minh. Cho đến nay, tên cũ Sài

Gòn vẫn được sử dụng rất phổ biến, đặc biệt trong

các ngữ cảnh không chính thức.

Địa bàn thành phố về cơ bản giống như nghị quyết ngày 10 tháng 5 năm 1975 của

Thành ủy Sài Gòn - Gia Định và có một số điều chỉnh. Các quận ngoại thành Thủ Đức, Nhà

Bè, Bình Chánh, Hóc Môn, Củ Chi đổi thành các huyện. Sát nhập một phần nhỏ thuộc tỉnh

Long An vào Huyện Hóc Môn, sát nhập quận Giải thể Quận Gò Vấp cũ và thành lập quận Gò

Vấp mới trên cơ sở 3 xã Hạnh Thông, An Nhơn và Thông Tây Hội. Quận Tân Bình cũ cũng bị

giải thể và thành lập Quận Tân Bình mới trên cơ sở xã Tân Sơn Hòa và Tân Sơn Nhì của

quận Tân Bình cũ. Hai quận Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây hợp lại thành quận Bình Thạnh.

Quận 9 giải thể, trả 2 phường (đổi thành 2 xã) về huyện Thủ Đức, Quận 1 và Quận 2 nhập

thành Quận 1 mới, Quận 8 và Quận 7 nhập thành Quận 8 mới. Diện tích 11 quận nội thành

và ven đô là 142,7 km2 chia ra 267 phường. Khu vực ngoại thành có 5 huyện diện tích tự

nhiên 1.152,8 km2 chia ra 77 xã.

Ngày 28 tháng 12 năm 1978, thành phố sát nhập thêm huyện Duyên Hải của tỉnh

Đồng Nai. Ngày 18 tháng 12 năm 1991, huyện đổi tên thành Cần Giờ.

Nghị định 03/CP ngày 6 tháng 1 năm 1997 quyết định giải thể huyện Thủ Đức để

thành lập các quận Thủ Đức (trên cơ sở các xã Linh Đông, Linh Trung, Tam Bình, Tam Phú,

Hiệp Bình Phước, Hiệp Bình Chánh, thị trấn Thủ Đức, một phần các xã Hiệp Phú, Tân Phú,

Phước Long), Quận 2 (trên cơ sở các xã An Phú, An Khánh, Thủ Thiêm, Bình Trưng, Thạnh

Mỹ Lợi) và Quận 9 (trên cơ sở các xã Long Bình, Long Thạnh Mỹ, Tăng Nhơn Phú, Long

Sài Gòn vào tháng 1 năm 1968 với

những chiếc xe hơi điển hình của thời

điểm đó

Cảnh khu đô thị Phú Mỹ Hưng tại

Nam Sài Gòn

Page 12: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

11

Phước, Long Trường, Phú Hữu, Phước Bình, phần còn lại của các xã Tân Phú, Phước Long,

Hiệp Phú. và Bình Trưng). Huyện Nhà Bè bị giải thể và thành lập Quận 7 (trên cơ sở các xã

Tân Quy Đông, Tân Quy Tây, Tân Thuận Đông, Tân Thuận Tây, Phú Mỹ và một phần thị

trấn Nhà Bè) và huyện Nhà Bè mới (phần còn lại). Huyện Hóc Môn cũng bị giải thể để thành

lập Quận 12 (trên cơ sở các xã Thạnh Lộc, An Phú Đông, Tân Thới Hiệp, Đông Hưng Thuận,

Tân Thới Nhất, một phần các xã Tân Chánh Hiệp và Trung Mỹ Tây). Toàn thành phố lúc bấy

giờ có 17 quận, 5 huyện với 303 phường, xã, thị trấn.

Ngày 5 tháng 11 năm 2003, với nghị định 130/2003/NĐ-CP, quận Tân Bình bị giải

thể để thành lập thêm Quận Tân Phú (trên cơ sở các phường 16, 17, 18, 19, 20 và một phần

các phường 14, 15) và Quận Tân Bình mới (phần còn lại). Huyện Bình Chánh cũng bị giải

thể để thành lập Quận Bình Tân (trên cơ sở các xã Bình Hưng Hòa, Bình Trị Đông, Tân Tạo

và thị trấn An Lạc) và huyện Bình Chánh mới (phần còn lại). Sau đợt điều chỉnh này, tính

đến 2007, toàn thành phố có 19 quận và 5 huyện, 259 phường, 58 xã và 5 thị trấn, với tổng

diện tích 2.095,01 km², dân số 6.650.942 người. Theo kết quả điều tra dân số ngày

01/04/2009, dân số thành phố là 7.162.864 người.

II.4 - Một số sự kiện lịch sử của Thành Phố Hồ Chí Minh

Ngày 17 tháng 2 năm 1859, quân Pháp mở cuộc tấn công thành Sài Gòn (tức thành

Gia Định) và một ngày sau thì chiếm được thành. Án sát Lê Tứ, Hộ đốc Vũ Duy Ninh

tự vẫn, Đề đốc Trần Trí, Bố chánh Vũ Thực và Lãnh binh Tôn Thất Năng đem quân

rút về Tây Thái, huyện Bình Long.

Ngày 8 tháng 3 năm 1859, quân Pháp đốt cháy kho tàng, phá hủy thành Sài Gòn và

rút ra để tránh quân triều đình nhà Nguyễn tấn công đánh chiếm lại thành. Tháng 12

cùng năm quân Pháp mở rộng sự chiếm đóng ra khu vực Chợ Lớn.

Tháng 8 năm 1859, Nguyễn Tri Phương được cử giữ chức Tổng thống quân vụ, vào

chỉ huy quân thứ Gia Định chống Pháp. Tháng 12 cùng năm, theo đề nghị của ông,

Phạm Thế Hiển được cử làm Tham tán quân thứ Gia Định.

Ngày 25 tháng 2 năm 1860, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Tri Phương bị trọng

thương.

Ngày 13 tháng 1 năm 1863, Pháp khánh thành Sở Bưu điện Sài Gòn.

Ngày 1 tháng 1 năm 1864, tờ Le Courrier de Sài Gòn (Tin Sài Gòn) ra số đầu tiên.

Từ ngày 23 tháng 2 năm 1868 đến 25 tháng 9 năm 1869, xây dựng Tòa Soái phủ Nam

Kỳ (sau là Phủ Thống đốc, rồi Phủ Toàn quyền Đông Dương, thường được gọi là

Dinh Gia Long).

Ngày 1 tháng 7 năm 1882, tuyến đường xe điện đầu tiên ở Việt Nam dài 5 km, rộng 1

m, nối Sài Gòn và Chợ Lớn bắt đầu hoạt động.

Năm 1882, thành lập Thư viện Sài Gòn.

1901: Tờ báo chữ Việt Nông cổ mín đàm ra đời.

1902: Xây cầu Bình Lợi trên sông Sài Gòn.

1903: Đường tàu điện nội hạt của Sài Gòn được xây dựng.

1908: Dinh Xã Tây, nay là trụ sở Ủy ban Nhân dân thành phố (được khởi công xây

dựng từ tháng 3 năm 1898), hoàn thành và được đưa vào sử dụng.

1910: Chiếc máy bay xuất hiện đầu tiên trên bầu trời Việt Nam hạ cánh xuống Sài

Gòn.

1914: Xây cất xong chợ Bến Thành.

Page 13: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

12

- PHẦN III -

HÌNH ẢNH VỀ SÀI GÒN XƯA VÀ NAY

Cái tên Sài Gòn đã trở nên quá quen với chúng ta, đó là tên , là cái mác của những người

sinh ra và lớn lên ở nơi này "Saigonais" ...ko biết bạn đã bao giờ nghĩ vì sao cái thành phố

phồn hoa đô hội này lại mang một cái tên giản dị, chân chất như bản tính người Nam bộ "

người Xài-gòn" ...

Không biết có đúng ko ? Theo mẹ tôi kể; trước đây Sài Gòn xưa trồng toàn cây gòn làm cây

che bóng mát bên đường. Nếu Hải Phòng đó là hoa sữa thì ở Sài Gòn chừng 100 năm trước

người ta trồng nhiều cây gòn. Nên người ta mới gọi cái chốn này là Sài Gòn .... bên cạnh cái

tên hiện giờ Thành phố Hồ Chí Minh thì từ "Sài Gòn" cho ta thấy cái gì xưa và cũ , là mặt

trầm nhưng đầy chất lãng mạn của thế kỷ đã qua. Tôi đã từng thử một phép thử nho nhỏ, nói

chuyện với một người nước ngoài, tôi nói tôi là người của thành phố Hồ Chí Minh; đáng

buồn thay họ không biết tôi là người Việt!!! Nhưng khi tôi nói tôi là người Sài Gòn thì họ mới

biết tôi là người Việt Nam! Nói thế thui, nhưng ta cũng đủ biết xưa kia Sài Gòn là một hòn

ngọc viễn đông như thế nào .... có mấy tấm hình của cái Sài Gòn xưa muốn chia sẻ cùng mấy

bạn ....

Trước kia chợ Bến Thành có tên là

Marche' Central (Chợ Trung Tâm).

Còn công viên Quách Thị Trang bây

giờ là Quảng Trường Place du Marche'

Central ....Phải công nhận hồi đó sau

mà đất rộng người thưa quá nhìn thấy

mê , còn bây giờ đi đâu cũng toàn là xe

....

Page 14: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

13

Chợ Bến Thành xưa

Hiện Tại

Page 15: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

14

Les Halles et Les Bureaux du chemin de fer : Văn phòng trụ sở Hoả xa (Văn phòng xe lửa)

Và đây là Ga Sài Gòn hôm nay ....

Page 16: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

15

Boulevard Charner (Đại lô Charner ) nay là Đại Lộ Nguyễn Huệ ....khác một trời một vực

...không hiểu tại sao hồi đó lại có một cái con kênh trong giữa lòng thành phố vậy ha ???

Hiện tại....

Page 17: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

16

Một điểm quan trọng không kém của Sài Gòn Xưa là Nhà Hát Lớn Thành Phố mà hồi đó gọi

là The'a^tre Munieipal de SAIGON ..

Nhà hát ngày nay….

Page 18: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

17

Con đường cắt ngang Nhà Hát Lớn là đường Đồng Khởi (một trong những con đường đẹp

nhất Việt Nam) Ngày xưa có tên là La Rue Catinat ....

Phía bên tay phải là Khách Sạn Continental (1 trong 2 khách sạn lâu đời nhất Sàigòn) Và

đây là cuối đường Đồng Khởi (Catinat) chạy về phía bến Bạch Đằng ...nếu nhớ không lầm

thì bên trái là Khách sạn Majestic, Khách Sạn đầu tiên mà nhà nước Pháp xây tại Sài Gòn

...không nhớ chính xác bao nhiêu tuổi chắc cũng hơn 100 là ít ...

Để Thiết lập nền cai trị của mình trên đất An Nam thì cơ sở vật chất là điều tất yếu vì thế mà

Toà Thị Chính của Sài Gòn được xây dựng tiếng Pháp gọi là L'Ho^tel de ville (Lô-ten-đờ-

vin) dịch sát nghĩa là Khách Sạn thành phố ?? Và nay là Uỷ Ban Nhân dân ...

Page 19: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

18

Bên tay phải là Khách Sạn REX

Page 20: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

19

Dinh Độc Lập thời Pháp thuộc - Palais du Gouvneur -Dinh toàn quyền… Trước 1975 là

Dinh Tổng Thống của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, sau giải phóng 1975 được đổi tên

thành Dinh Thống Nhất

Toà Án Nhân Dân Xưa - Palais de Justice (trên đường Nam Kì Khởi Nghĩa nay )

Page 21: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

20

Nhà Thờ Đức Bà - Nortre Dam de SaiGon / Catherdrale et Ho^tel de la postes - Bưu điện

thành phố)

Pagode de Dakau (nay là Chùa Ngọc Hoàng hay Phước Hải Tự trên đường Mai Thị Lựu)

Page 22: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

21

- PHẦN IV -

TỔNG QUAN ĐẶC TRƯNG DU LỊCH

VỀ SÀI GÒN - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngay cái nhìn đầu tiên, Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh đã để lại ấn tượng sâu sắc của một

đô thị lớn nhất, náo nhiệt nhất và năng động nhất trong cả nước.

Những phố xá đèn sáng choang, sinh hoạt và vui chơi giải trí kéo dài đến tận khuya.

Những dòng xe cộ hối hả trên khắp các ngả đường như không bao giờ dứt. Dãy dãy cửa hiệu

với hàng hóa phong phú đủ màu, đủ loại góp phần làm nên danh tiếng "Sài Gòn - thiên

đường mua sắm". Nhan nhãn những quán ăn, cửa tiệm, nhà hàng với thực đơn rất đa dạng

khiến ẩm thực trở thành một cái thú không thể thiếu đối với du khách đến nơi đây.

Nhưng đàng sau sự sôi nổi ấy là một cuộc sống phóng khoáng mà hài hòa, với những

phong tục tập quán lâu đời của một nền văn hóa truyền thống đã thích nghi với cuộc sống

khai hoang mở đất ở một vùng đồng bằng sông nước, và sớm giao thoa với các nền văn hóa

trong khu vực và phương Tây.

Hàng trăm chùa chiền, hàng trăm ngôi đình thờ phụng các anh hùng đất nước và các tiền

hiền có công mở cõi vẫn quanh năm nhang khói. Các chứng tích của sự nghiệp giải phóng

thành phố và đất nước được trân trọng bảo tồn. Ngoài các lễ tết chính thức, người dân thành

phố tổ chức rất trọng thể nhiều lễ hội theo truyền thống "uống nước nhớ nguồn" như Lễ hội

Nghinh Ông, Ngày giỗ tổ nghề, Ngày Thầy thuốc, Ngày Nhà giáo, Ngày Báo hiếu, Ngày Phụ

nữ…

Các kiến trúc của Sài Gòn - Hòn ngọc Viễn Đông xưa được giữ gìn và tôn tạo, trở thành

những điểm tham quan lý thú. Bên cạnh đó là những công trình hiện đại phát huy từ cảm

hứng trong kiến trúc truyền thống Việt Nam. Ởû nơi đất hẹp người đông này, du khách sẽ bất

ngờ với những đại lộ rợp bóng cổ thụ trăm năm, những công viên rộng rực rỡ hoa lá, những

khu biệt thự thanh bình. Bên cạnh những tòa cao ốc mới ở trung tâm thành phố, khách sẽ có

dịp ghé thăm Chợ Lớn của người Hoa với những khu phố cổ nhộn nhịp, hoạt động thương

mại và sản xuất luôn nhộn nhịp ngày đêm.

Là trung tâm du lịch và cửa ngõ du lịch lớn nhất trong cả nước, thành phố Hồ Chí Minh

có hệ thống cơ sở vật chất và dịch vụ du lịch khá phát triển, từ những điểm vui chơi giải trí

cho đến khách sạn, nhà hàng.

Khí hậu thành phố dễ chịu, nắng không quá nóng và mưa không kéo dài nên mùa nào cũng

có thể là mùa du lịch.

Người dân thành phố, thân thiện và phóng khoáng, luôn mong được tiếp đón du khách từ

mọi phương trời.

Sơ lược về đặc điểm du lịch của thành phố

Để chuyến du lịch đến thành phố Hồ Chí Minh trọn vẹn, có những điểm tham quan tiêu

biểu mà bạn không thể bỏ qua.

Với hệ thống 11 bảo tàng, thành phố Hồ Chí Minh là nơi có số bảo tàng nhiều nhất so

với các tỉnh, thành trong cả nước. Nội dung trưng bày của các bảo tàng khá phong phú, và

không chỉ về lịch sử và văn hóa địa phương, mà của cả Nam bộ, quốc gia và khu vực Đông

Nam Á, cung cấp nhiều kiến thức lý thú.

Trên 1.000 ngôi chùa, đình, đền và miếu được xây dựng qua nhiều thời kỳ cũng là những

tài sản quý về văn hóa, kiến trúc và nghệ thuật. Bạn sẽ tìm thấy những chùa Phật giáo Nam

bộ tiêu biểu, những ngôi đình xưa gắn liền với lịch sử khẩn hoang mở đất. Bên cạnh đó là

những chùa "cách tân" lớn nhất và đẹp nhất trong cả nước, kết hợp nhuần nhuyễn giữa

phong cách hiện đại với kiến trúc chùa cổ truyền. Thành phố có đến nửa triệu người Hoa

sống tập trung nên số chùa Hoa cũng nhiều nhất so trong nước, kiến trúc đa dạng và

Page 23: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

22

phong phú, nhiều chùa đã được công nhận di tích lịch sử - văn hóa của thành phố và quốc

gia.

Người Pháp đã để lại nhiều công trình đẹp và đa dạng. Có thể nói hiếm có đô thị nào ở

Đông Nam Á lại có nhiều dạng kiến trúc, nhiều trường phái, phong cách nghệ thuật

phương Tây như Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh. Điển hình như trụ sở Ủy ban Nhân dân

Thành phố theo phong cách Đệ Tam Cộng hòa Pháp, Ngân hàng Nhà nước chịu ảnh

hưởng trào lưu Tân Nghệ thuật, Nhà Thiếu nhi với phong cách Tân Cổ điển, Nhà Rồng

phong cách Đông Dương, Bưu điện với trường phái Chiết Trung, nhà thờ Đức Bà với nghệ

thuật Rôman, nhà thờ Huyện Sĩ theo Tân Gôtic…

Mảng kiến trúc đương đại, đang bùng nổ, trăm màu trăm vẻ, tạo cho thành phố một diện

mạo vui mắt, trong đó có một số tòa nhà đẹp, có giá trị thẩm mỹ cao.

Nhưng điểm du lịch độc đáo nhất của thành phố vẫn là Địa đạo Củ Chi, một công trình

độc đáo trong lịch sử quân sự thế giới, biểu tượng của ý chí sắt đá và thông minh mưu trí

của quân dân thành phố trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Lẫy lừng không kém

là rừng ngập mặn Cần Giờ với những trận chiến phá tàu giặc trên cửa sông Sài Gòn, nay

là một điểm du lịch sinh thái tuyệt vời với những cánh rừng đước xanh vô tận.

Bảo Tàng

Hệ thống bảo tàng của thành phố Hồ Chí Minh gồm 11 bảo tàng cùng nhiều nhà lưu niệm,

nhà truyền thống, phòng truyền thống ở các quận, huyện.

Bảo tàng Lịch sử Việt Nam là bảo tàng lớn nhất, và cũng là bảo tàng đầu tiên của thành

phố, ra đời từ những năm đầu thế kỷ 20. Nhờ không ngừng sưu tầm và bảo quản được hiện

vật qua các thời kỳ, nên Bảo tàng Lịch sử đã có một bộ sưu tập phong phú gần 30.000 hiện

vật giá trị. ( Số2 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quận 1 )

Bảo tàng Hồ Chí Minh, nơi giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chủ tịch, thu hút

nhiều khách nội địa nhất. Trong khi đó, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh trưng bày về tội ác

dã man của quân xâm lược Mỹ đối với nhân dân Việt Nam, là địa chỉ không thể thiếu trong

chương trình tham quan của du khách nước ngoài. (65 Lý Tự Trọng, Quận 1)

Page 24: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

23

Ngoài ra còn có một số bảo tàng cũng thu hút nhiều du khách đến tham quan như”

Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh

28 Võ Văn Tần, quận 3

Bảo tàng Hồ Chí Minh – TP.HCM

1 Nguyễn Tất Thành, quận 4

Bảo tàng Tôn Đức Thắng

5 Tôn Đức Thắng, quận 1

Bảo tàng Chiến dịch Hồ Chí Minh

2 Lê Duẩn, quận 1

Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ

202 Võ Thị Sáu, quận 3

Bảo tàng Lực lượng Vũ trang miền Đông Nam bộ

247 Hoàng Văn Thụ, quận Tân Bình

Bảo tàng Mỹ thuật – TP.HCM

97A Phó Đức Chính, quận 1

Chùa Chiền

Có những ngôi chùa tiêu biểu của phong cách kiến trúc chùa Phật giáo cổ truyền ở Nam bộ

với khung cảnh thanh nhàn, nội thất u nhã, và hàng chục pho tượng thờ, cột, bao lam gỗ

chạm trổ tinh vi. Lại có những chùa xây dựng theo phong cách hiện đại nhưng lấy cảm hứng

từ kiến trúc truyền thống với nội thất cao rộng và sáng sủa, bài trí đơn giản, tôn nghiêm, kết

cấu bêtông cốt thép nhưng vẫn giữ dáng dấp cổ truyền.

Bên cạnh đó là hàng trăm ngôi đình thờ Thành Hoàng gắn liền với lịch sử khai hoang mở

đất. Hàng năm các đình tổ chức lễ kỳ yên vào mùa xuân, với các nghi thức tế lễ và ca múa

cúng thần long trọng. Đền thờ các vị anh hùng dân tộc như đền Hùng Vương, đền Trần Hưng

Đạo, Lăng Ông… không chỉ là những công trình kiến trúc đẹp mà còn là nơi tấp nập bá tánh

đi lễ cầu phước lộc an khang.

Trên 30 chùa Hoa, thực chất là miếu, gắn liền với lịch sử định cư của Sài Gòn – Chợ Lớn

xưa kia. Kiến trúc chùa Hoa với màu sắc rực rỡ, nhiều tác phẩm điêu khắc, hội họa sinh

động, thư pháp rồng bay phượng múa, mỗi chùa một sắc thái riêng theo phong tục tập quán

của năm nhóm ngôn ngữ Quảng Đông, Phước Kiến, Triều Châu, Hải Nam và Hẹ.

Chùa Phật giáo xưa: Chùa Giác Lâm

118 Lạc Long Quân, quận Tân Bình

Chùa Giác Viên

161/85/20 Lạc Long Quân, quận 11

Chùa Phụng Sơn

1408 Ba Tháng Hai, quận 11

Chùa Phật giáo mới: Chùa Vĩnh Nghiêm

339 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 3

Chùa Xá Lợi

89 Bà Huyện Thanh Quan, quận 3

Nam Thiên Nhất Trụ

511 Nguyễn Văn Bi, quận Thủ Đức

Đình:

Đình Phong Phú

Ấp Phong Phú, phường Tăng Nhơn Phú, quận 9

Page 25: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

24

Đình Phú Nhuận

18 Mai Văn Ngọc, quận Phú Nhuận

Đền: Đền Hùng Vương

2B Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận 1

Đền Trần Hưng Đạo

36 Võ Thị Sáu, quận 1

Lăng Ông Lê Văn Duyệt

1bis Phan Đăng Lưu, quận Bình Thạnh

Chùa Hoa: Chùa Ngọc Hoàng

73 Mai Thị Lựu, quận 1

Chùa Bà Thiên Hậu

710 Nguyễn Trải, quận 5

Nhị Phủ Miếu

264 Hải Thượng Lãn Ông, quận 5

Nhà Thờ

Các nhà thờ ở Sài Gòn chủ yếu xây dựng vào nửa sau thế kỷ 19. Nhìn chung, kiểu cách kiến

trúc theo lối Pháp của giai đoạn này vừa kết hợp phong cách Rôman, Gôtic quen thuộc thời

Trung cổ châu Âu. Có công trình xây dựng nhằm mục đích làm chỗ dựa tinh thần cho chính

quyền thực dân Pháp, có nơi là công trình tôn giáo đáp ứng nhu cầu tâm linh của tín đồ bản

xứ.

Nhà thờ có quy mô lớn nhất thành phố là nhà thờ Đức Bà xây dựng xong vào năm 1880,

còn gọi là nhà thờ Nhà nước vì do chính quyền thuộc địa Pháp bỏ tiền ra xây dựng, là nơi

diễn ra các cuộc lễ lạc chính thức, sau này mới chuyển về cho giáo phận Sài Gòn quản lý.

Vào thời đó, nhà thờ Đức Bà được xem là lớn nhất trong các thuộc địa Pháp. Ngôi nhà thờ

xây bằng gạch ngói Marseille, kính màu và khung sườn thép mang từ Pháp sang kết hợp với

đá xanh Biên Hòa. Các ô cửa cuốn tròn kiểu Rôman cùng cung vòm gãy kiểu Gôtic gợi nhớ

dạng thánh đường lớn ở Pari, Chartres, Reim.

Nhà thờ Tân Định nhỏ hơn, dành cho họ đạo người Việt, tiêu biểu của sự pha trộn nhiều

phong cách khác nhau của kiến trúc nhà thờ Pháp do được xây dựng và nới rộng trong nhiều

đợt. Nhà thờ Huyện Sĩ theo nguyên mẫu nhà thờ nhỏ ở Pháp. Nhà thờ Cha Tam ở Chợ Lớn

cũng thế, nhưng bên trong lại trang trí hoành phi liễn đối như đền miếu người Hoa.

Kiểu nhà thờ xây dựng vào thời kỳ sau này đã có nhiều nỗ lực đi tìm phong cách bản địa

hơn. Điển hình là nhà thờ Vườn Xoài dung hòa được tính cách hiện đại và nét cổ Việt, với

cửa tam quan, mái phủ lớn.

Nhà thờ Đức Bà Công xã Paris, Đồng Khởi, quận 1

Nhà thờ Tân Định 289 Hai Bà Trưng, quận 3

Nhà thờ Huyện Sĩ 1 Tôn Thất Tùng, quận 1

Nhà thờ Cha Tam

25 Học Lạc, quận 5

Nhà thờ Chợ Quán 120 Trần Bình Trọng, quận 5

Nhà thờ Vườn Xoài 413 Lê Văn Sỹ, quận 3

Page 26: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

25

Kiến Trúc

Kiến trúc thời Pháp để lại nhiều công thự đẹp, hài hòa với cảnh quan, trở thành một nét

thanh lịch riêng của thành phố.

Các công thự này rất đa dạng, gồm từ trụ sở các cơ quan hành chính của thành phố cho

đến các bảo tàng, nhà hát, trường học,… thuộc khá nhiều trường phái và phong cách nghệ

thuật khác nhau. Không ít những chi tiết của nghệ thuật Việt, Chăm, Khmer đã được đưa vào

trang trí. Đặc biệt có những công trình kết hợp hài hòa kiến trúc phương Tây với những yếu

tố bản địa thành một phong cách riêng gọi là kiến trúc Đông Dương, điển hình như Nhà

Rồng, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam hay trường Lê Hồng Phong.

Kiến trúc Sài Gòn trước năm 1975 cũng để lại một số công trình giá trị, trong đó nổi bật

trào lưu kiến trúc "nhiệt đới" nghĩa là chú ý đến yếu tố khí hậu nhiệt đới, cùng khuynh hướng

nỗ lực thể hiện văn hóa nghệ thuật dân tộc trong kiến trúc đương đại. Những công trình nổi

tiếng có Hội trường Thống Nhất, Thư viện Khoa học Tổng hợp, Ngân hàng Thương Tín, Viện

Trao đổi Văn hóa Pháp IDECAF, một số chùa Phật giáo,…

Thời mở cửa, kiến trúc Sài Gòn bùng nổ. Công trình mới đa dạng, từ những tòa nhà cao

tầng đến biệt thự, nhà phố theo công nghệ mới và nhiều ý tưởng mới. Cao ốc hàng chục tầng

được xây dựng khá nhiều, trong đó, cao nhất là tòa nhà Trung tâm Thương mại Sài Gòn, 33

tầng, cao 128m. Một số công trình đẹp, được đánh giá có tính nghệ thuật cao.

Kiến trúc thời Pháp:

Trụ sở UBND Thành phố

86 Lê Thánh Tôn, quận 1

Nhà hát Thành phố

7 Công Trường Lam Sơn, quận 1

Bưu điện Thành phố

Công xã Paris, Đồng Khởi, quận 1

Kiến trúc trước 1975: Hội trường Thống Nhất

106 Nguyễn Du, quận 1

Thư viện Khoa học Tổng hợp

67 Lý Tự Trọng, quận 1

Kiến trúc mới: Cao ốc The Metropolitan

61 Nguyễn Du, quận 1

Trung tâm Thương mại Sài Gòn

37 Lê Duẩn, quận 1

Điểm Du Ngoạn

Sông Sài Gòn như một dải lụa bạc uốn lượn qua thành phố.

Một chuyến du ngoạn trên sông không chỉ để ngắm cảnh, đón gió mát mà còn để có cái

nhìn bao quát về quá trình phát triển của vùng đất này: Từ những vạt dừa nước trên vùng đất

bồi chuyển sang những cao ốc đẹp của thời kỳ đổi mới; từ những bến ghe chất đầy nông sản

miền Tây đến cảng Sài Gòn lớn nhất Việt Nam đón tàu biển khắp thế giới; từ bến Nhà Rồng

là nơi Bác ra đi tìm đường cứu nước sang bến Bạch Đằng cho tàu du lịch trên sông…

Trên địa đầu tây bắc của thành phố là Địa đạo Củ Chi, căn cứ cách mạng với hệ thống

đường hầm như mạng nhện trong lòng đất, nổi danh cả trên thế giới. Quần thể địa đạo và

Đền Tưởng niệm Bến Dược bên sông Sài Gòn nay là một di tích lịch sử - văn hóa với phong

cảnh hữu tình, dòng sông thanh bình, vườn cây sum suê và đồng lúa xanh bát ngát.

Rừng ngập mặn Cần Giờ án ngữ cửa sông Sài Gòn, nguyên là căn cứ của lực lượng đặc

công với những trận diệt tàu giặc lẫy lừng, đã trơ trụi vì bom đạn và chất độc màu da cam.

Page 27: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

26

Nay những cánh rừng đước mênh mông đã được hồi sinh, trở thành Khu Dự trữ Sinh quyển

Thế giới, một điểm du lịch sinh thái hấp dẫn.

Bạn cũng sẽ ngạc nhiên về một điểm sinh thái khác cách không xa trung tâm thành phố là

vườn cò Thủ Đức, trong một vùng quê sông nước êm ả, thanh bình, nơi "đất lành chim

đậu".

Địa đạo Củ Chi

Ấp Phú Hiệp, xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi

Rừng ngập mặn Cần Giờ

Xã Lý Nhơn và Long Hòa, huyện Cần Giờ

Du thuyền trên sông Sài Gòn Xuất phát từ bến Bạch Đằng

Vườn cò Thủ Đức 124/31, khu phố Gò Công, phường Long Thạnh Mỹ, quận 9

Khách Sạn và Ẩm Thực

Thành phố Hồ Chí Minh hiện có 641 khách sạn với 17.646 phòng.

Hệ thống khách sạn bao gồm từ những khách sạn cao cấp do các tập đoàn quốc tế

hàng đầu như Accor, Furama, Mariot hay Shareton quản lý, các khách sạn đã có quá trình

hoạt động cả trăm năm mà dịch vụ được ngay cả các vị nguyên thủ quốc gia, các doanh nhân

tầm cỡ khen ngợi, được các tổ chức quốc tế về du lịch trao tặng nhiều giải thưởng và danh

hiệu về chất lượng cao cho đến các khách sạn bình dân đáp ứng nhiều nhu cầu linh động và

đa dạng của khách.

Phần lớn các khách sạn đều chiếm những vị trí đẹp nhất trong trung tâm thành phố,

gần các khu thương mại, cận kề sân bay, nhà ga, bến xe… Và đặc điểm chính là các khách

sạn đều có tính chuyên nghiệp cao, từ cơ sở vật chất và trang thiết bị cho đến các dịch vụ và

phong cách phục vụ. Mỗi khách sạn thường lựa chọn một ấn tượng riêng: Caravelle là khách

sạn thương nhân tuyệt hảo, Rex là "Ngôi nhà Việt Nam", Majestic với vẻ thanh lịch cổ điển

phương Tây, Bông Sen gây ấn tượng bằng ẩm thực "buffet gánh", Đệ Nhất nổi tiếng với dịch

vụ tiệc cưới… Ngay những khách sạn nhỏ cũng tạo phong cách như sự phục vụ tận tâm, thân

tình như trong gia đình, hay những dịch vụ đáp ứng mọi yêu cầu nho nhỏ của khách.

Ngành khách sạn của thành phố Hồ Chí Minh có thể tự hào khi so sánh với các nước

trong khu vực.

Là trung tâm của vùng đất phương Nam trù phú, sản vật dồi dào, nên món ăn Sài Gòn rất

đa dạng. Lại thêm là nơi hội tụ của cư dân từ mọi miền đất nước và cửa ngỏ tiếp xúc với thế

giới bên ngoài, nên thành phố đã tiếp nhận thêm các dòng ẩm thực của cả nước và thế

giới, chọn lọc tinh hoa thành một nền ẩm thực phong phú và hấp dẫn.

Ngày nay, người ta dễ dàng tìm thấy ở Sài Gòn vô số đặc sản Bắc, Trung, Nam hay

quốc tế, theo đúng nguyên bản cũng có, nhưng phổ biến hơn vẫn là những món đã được "Sài

Gòn hóa" để hương vị thêm phong phú, đậm đà. Chất Sài Gòn thường thể hiện ở vị ngọt,

nhiều rau xanh và nhiều thủy hải sản tươi sống. Chẳng hạn như món canh chua Sài Gòn đã

kết hợp cả cái chua- mặn của miền Bắc, cái cay nồng ớt tươi của miền Trung và cái ngọt xởi

lởi của miền Nam. Món bún bò Huế được "cải biên" để bớt cay, thêm ngọt, thêm béo và

thêm rau. Món bò bít tết của phương Tây thì mỏng hơn, chín hơn, nhiều gia vị hơn và kèm

rau sống, đồ chua nhiều hơn…

Khuynh hướng gần đây tìm về những món dân dã chốn đồng quê, món ăn của thời

khẩn hoang mở cõi. Kể cả thực đơn của các nhà hàng sang trọng nay có cả món chuột đồng

rô ti, châu chấu chiên giòn, lươn hấp trái bầu, ếch xào lăn, cá rô kho tộ, cá bống dừa

kho tiêu… Món lẫu sành điệu phải đủ hai mươi mấy thứ rau đồng nội như cù nèo, tai tượng,

càng cua, bông so đũa, bông điên điển… Món nướng thì nào là nướng than hồng, nướng trui,

nướng mọi, nướng lu, nướng đất sét… Và người Sài Gòn vẫn không ngừng sưu tầm để bổ

Page 28: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

27

sung vào thực đơn của mình những món ăn đã một thời bị quên lãng cũng như những món

mới từ khắp bốn phương trời.

Cho nên thật không có gì quá đáng khi nói rằng ẩm thực Sài Gòn thuộc loại hàng đầu

trong cả nước. Xin đừng quên thưởng thức những món ngon Sài Gòn khi đến với thành phố

này.

Vui Chơi Giải Trí

Cùng với sự phát triển kinh tế, mức sống được nâng cao, hoạt động vui chơi giải trí ngày

càng được quan tâm hơn để đáp ứng nhu cầu thư giãn, nghỉ ngơi của người dân thành phố

sau những giờ lao động căng thẳng. Sự phát triển về du lịch nảy sinh yêu cầu phục vụ du

khách cũng đã góp phần làm phong phú thêm lĩnh vực dịch vụ này.

Có thể thấy các hoạt động vui chơi giải trí của thành phố khá đa dạng và luôn có sự đổi

mới, sáng tạo, chất lượng phục vụ không ngừng được nâng cao. Không lâu sau chính sách

mở cửa, các điểm vui chơi đã nhanh chóng nắm bắt các công nghệ giải trí hiện đại của thế

giới, từ các trò chơi cảm giác mạnh, trò chơi cảm giác ảo, trò chơi dưới nước, kỹ thuật

ánh sáng laser cho đến những tạp kỹ xuất xứ từ những miền đất lạ như xiếc cá heo, xiếc cá

voi… Ngay các quán cà phê, karaoke hay bar, discotheque cũng không ngừng nâng cấp

trang thiết bị âm thanh, ánh sáng, tạo phong cách và không khí riêng.

Bên cạnh đó là xu hướng quay về với thiên nhiên và phát huy văn hóa dân tộc. Cùng

với việc mở rộng nội ô thành phố, đã có thêm một số công viên và khu du lịch mới với không

gian xanh và thoáng đãng, với kiến trúc và trang trí dân gian, là những điểm nghỉ ngơi,

thư giãn thú vị.

Các sân khấu ca nhạc hàng đêm vẫn thu hút đông khán giả. Bên cạnh Hà Nội, thành phố

Hồ Chí Minh là nơi có các sân khấu kịch nói, nhạc thính phòng, múa rối nước biểu diễn

thường xuyên. Cơ sở vật chất cho hoạt động thể dục thể thao khá đa dạng, nổi lên trong giai

đoạn gần đây là hồ bơi, sân quần vợt, bowling, golf và nhiều câu lạc bộ sức khỏe.

Khám Phá Vùng Phụ Cận

Khám phá vùng phụ cận

Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm điểm của khu vực phía Nam, nằm trên giao điểm của

những quốc lộ trọng yếu nối những vùng du lịch hấp dẫn, mỗi nơi một vẻ độc đáo riêng.

Đồng bằng sông Cửu Long nằm về phía tây nam, với những đặc trưng thú vị của miền sông

nước mênh mang, kênh rạch chằng chịt.

Tây Ninh, ở phía tây bắc, với cảnh rừng núi hữu tình, văn hóa đặc sắc và bề dày truyền

thống cách mạng hào hùng.

Bà Rịa Vũng Tàu, xuôi hướng đông nam, được biết đến với hàng loạt bãi biển đẹp trải dài

men theo đồi núi.

"Thành phố Hoa" Đà Lạt, ngược hướng đông bắc, nổi tiếng là một địa điểm nghỉ mát tuyệt

vời với khí hậu mát mẻ, không khí trong lành và cảnh thiên nhiên thơ mộng.

Page 29: 11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh

11TC_DL1 – 115074015 – VŨ TUYẾN MINH TỔNG QUAN DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG KHOA QTDL

28

- PHẦN V -

CẢM NHẬN VỀ SÀI GÒN TRONG TÂM TRÍ TÔI

Chẳng hiểu sao tôi rất thích những cơn mưa Sài Gòn, mưa không quá dài, quá lâu,

chỉ đủ cho những tâm hồn xa quê trào dâng nỗi nhớ, rồi bình yên mưa tạnh, nắng lấp lánh về

trả lại một Sài Gòn sôi động, tràn trề nhựa sống như vốn sinh ra đã thế. Mưa làm duyên cho

thành phố một nét rất lạ, rất riêng, để dù ta có đi xa tới đâu cũng sẽ nhớ về nơi ấy, nhớ về Sài

Gòn với những cơn mưa “đặc biệt” đến thân quen.

Sài Gòn không chỉ lãng mạn với mưa, Sài Gòn còn nồng nàn bởi nắng. Nắng Sài Gòn

không chói chang, gay gắt, nắng chỉ thắp lên thành phố một màu rực rỡ, rực rỡ tựa màu

nóng của những trái tim yêu. Thật tuyệt biết bao khi ta dạo bước trong lòng Sài Gòn giữa

những tán cây, nghe tiếng gió lao xao tí tách qua kẽ

lá, nghe giọt nắng bình minh xuyên qua ô cửa nhỏ,

chợt thấy lòng rộn rạo những xốn xang.

Sài Gòn đâu chỉ là những con sông đen

ngầu mùi nước bẩn hôi thiu, đâu chỉ là những ngả

đường kẹt xe đầy khói bụi. Sài Gòn là niềm hi vọng

với những đứa con nghèo xa quê mang theo niềm

tin vào tương lai tốt đẹp, là bao dung ôm những trái

ngang, đau đớn của cuộc đời. Một góc Sài Gòn là

đô thị phù hoa, một góc kia là tình người chứa chan

biển mặn, một góc gần bên ta là những mảnh đời

đang khó khăn vật lộn: với cuộc mưu sinh vất vả

của cuộc đời… Một góc yên bình gom tất cả thế

nhân.

Sài Gòn đáng yêu lắm! Nó đơn giản và

khoáng đạt, không bao giờ cần cái văn vẻ “màu mè

ba lá hẹ”, không cần các suy nghĩ tự tôn ra vẻ triết

gia hướng nội, để phải miệt thị kẻ khác quan điểm.

Sài Gòn nhìn cuộc sống trong veo như cái không

gian bao la, phóng khoáng đang bảo bọc nó hàng

ngàỵ.

Ta bắt gặp Sài Gòn qua ánh nhìn chứa chan tình cảm của đứa bạn thân, qua lời

giảng của cô về một thời Sài Gòn chiến tranh gồng mình đau thương chống trả. Ta lại bắt

gặp một Sài Gòn trầm tư suy nghĩ, sau một ngày ồn ào, sôi động đã đi qua.

Sài Gòn lãng mạn. Sài Gòn là thế đấy, muôn người muôn mặt, đa dạng vô cùng! Sài

Gòn như cô gái thẳng tính nhưng tình cảm, đôi khi làm vấn vương ai đó.

Sài Gòn là vậy đó, ít nhất là từ cái nhìn của tôi. Sài Gòn dễ thương khôn tả, khoáng

đạt và bao dung, rộng rãi và hào phóng. Người Sài Gòn sống nhanh nhất nước, không sợ cái

mới, ghét cái lỗi thời, sống rất thực tế.

Hai mươi mấy năm, tôi sinh ra và lớn lên ở đây, Sài Gòn như thấm vào tim vào

máu và đã cho tôi rất nhiều cảm xúc... Không thể diễn tả hết tình yêu bằng lời bởi Sài Gòn

trong ta có quá nhiều nặng nợ.

HẾT

P/s: Bài làm có sử dụng nguồn tài liệu từ các trang web sau:

http://vi.wikipedia.org

http://www.hochiminhcity.gov.vn