1.1 Môi trƣờng đầu tƣthuvienso.cdtm.edu.vn/bitstream/CDTM/1650/1/TC-NH... · gia vào thị...
Transcript of 1.1 Môi trƣờng đầu tƣthuvienso.cdtm.edu.vn/bitstream/CDTM/1650/1/TC-NH... · gia vào thị...
1
CHƢƠNG 1 : MÔI TRƢỜNG ĐẦU TƢ VÀ THỊ
TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1 Môi trƣờng đầu tƣ
1.1.1 Khái niệm về môi trƣờng đầu tƣ
Bất kỳ một cá nhân hay một tổ chức nào cũng không
tồn tại một cách biệt lập mà thường xuyên tác động qua lại
với môi trường. Những sự thay đổi từ các yếu tố môi trường
xung quanh, có thể tạo ra những cơ hội, những thách thức
hoặc rủi ro ảnh hưởng đến quyết định đầu tư hoặc kết quả
đầu tư. Để trở thành một nhà đầu tư thành công, nhà đầu tư
phải dành nhiều thời gian để khảo sát, phân tích và dự đoán
các biến đổi của môi trường và coi đó là một công việc đầu
tiên và thường xuyên của mình. Việc nghiên cứu môi
trường sẽ cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin quan
trọng, làm cơ sở cho nhà đầu tư ra quyết định đầu tư, mang
lại hiệu quả đầu tư cao nhất. Vậy môi trường đầu tư là gì?
Môi trường đầu tư là tổng hợp các điều kiện, các yếu tố
bên trong cũng như bên ngoài thường xuyên tác động ảnh
hưởng đến quyết định và kết quả đầu tư. Môi trường đầu tư
có thể là các yếu tố về kinh tế, xã hội, pháp luật, tài chính,
cơ sở hạ tầng và các yếu tố liên quan khác có ảnh hưởng
đến hoạt động của nhà đầu tư ở các mặt: kết quả đầu tư,
phạm vi đầu tư, mục tiêu đầu tư và chiến lược đầu tư.
2
Trên thực tế, môi trường không đứng yên mà luôn luôn
vận động, biến đổi. Do đó khi nghiên cứu môi trường chúng
ta cần phải xem xét môi trường ở cả hai trạng thái tĩnh và
động.
Nghiên cứu môi trường đầu tư ở trạng thái tĩnh là việc
xác định một môi trường đầu tư chứng khoán gồm những
yếu tố gì tác động, tính chất và mức độ ảnh hưởng của từng
yếu tố đó đối với hoạt động đầu tư của nhà đầu tư và hiện
trạng các yếu tố của môi trường đầu tư.
Nghiên cứu môi trường đầu tư ở trạng thái động có ý
nghĩa quan trọng đối với việc hoạch định mục tiêu và chiến
lược đầu tư. Đó là việc dự đoán được xu hướng vận động và
biến đổi của từng loại yếu tố và từng loại môi trường đầu tư.
Nghiên cứu mối liên hệ tác động qua lại của các yếu tô môi
trường và các cấp độ môi trường.
1.1.2 Phân loại môi trƣờng đầu tƣ
Căn cứ vào phạm vi và cấp độ môi trường, môi
trường đầu tư có thể được phân thành các loại sau:
1.1.2.1 Môi trường bên ngoài:
Bao gồm các yếu tố khách quan, bên ngoài có ảnh
hưởng đến hoạt động đầu tư của nhà đầu tư. Môi trường bên
ngoài bao gồm: môi trường vĩ mô, môi trường vi mô, và
môi trường quốc tế:
3
a. Môi trường vĩ mô
Môi trường vĩ mô còn gọi là môi trường tổng quát, được
hình thành từ những điều kiện chung nhất của một quốc gia
nào đó. Môi trường vĩ mô là môi trường bao trùm lên hoạt
động của tất cả các tổ chức, các cá nhân, có ảnh hưởng trực
tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của tất cả các tổ chức, các
cá nhân. Nó được xác lập bởi các yếu tố vĩ mô như: các
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, tự nhiên, dân số
và kỹ thuật công nghệ.
Khi nghiên cứu môi trường vĩ mô nhà đầu tư cần chú ý
các đặc điểm của nó. Môi trường vĩ mô có ảnh hưởng lâu
dài đến các tổ chức và các cá nhân. Nhà đầu tư khó có thể
ảnh hưởng hoặc kiểm soát được môi trường vĩ mô - khó có
thể điều chỉnh được môi trường vĩ mô, trái lại phụ thuộc
vào môi trường vĩ mô. Mức độ tác động và tính chất tác
động của loại môi trường này khác nhau theo từng ngành,
theo từng doanh nghiệp, thậm chí khác nhau trong từng lọai
chứng khoán mà nhà đầu tư có ý định đầu tư. Sự thay đổi
của môi trường vĩ mô có tác động làm thay đổi cục diện của
môi trường vi mô và môi trường nội bộ. Mỗi yếu tố của môi
trường vĩ mô có thể ảnh hưởng đến nhà đầu tư một cách độc
lập trong mối liên kết với các yếu tố khác.
b. Môi trường vi mô:
Môi trường vi mô còn gọi là môi trường đặc thù, được
hình thành tùy thuộc vào những điều kiện sản xuất kinh
4
doanh trong từng ngành, và bởi đặc điểm hoạt động của
từng doanh nghiệp niêm yết trên thị trường. Nghiên cứu
môi trường vi mô là một nội dung hết sức quan trọng để nhà
đầu tư đưa ra quyết định nên lựa chọn đầu tư vào chứng
khoán nào để mang về hiệu quả cao nhất. Đây là loại môi
trường gắn trực tiếp với từng doanh nghiệp và phần lớn các
hoạt động và cạnh tranh của doanh nghiệp xảy ra trực tiếp
tại đây. Môi trường này thường bao gồm các yếu tố như:
nguồn nhân lực của doanh nghiệp, khả năng tài chính của
doanh nghiệp, năng lực của nhà quản trị doanh nghiệp...
c. Môi trường quốc tế
Vấn đề nghiên cứu môi trường quốc tế không chỉ đặt ra
với các công ty hoạt động trên thương trường nước ngoài
mà còn đặt ra cả đối với những công ty chỉ gắn với thị
trường trong nước và với những nhà đầu tư chứng khoán.
Có thể nói trong xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập ngày
nay thì không thể có một quốc gia nào lại không có mối
quan hệ với nền kinh tế thế giới, trái lại mối quan hệ phụ
thuộc giữa các quốc gia và cộng đồng kinh tế thế giới ngày
càng tăng. Trong bối cảnh như vậy chắc chắn rằng những
biến động của môi trường kinh doanh quốc tế sẽ có tác động
đến môi trường kinh doanh của các công ty hoạt động trong
nước và chắc chắn sẽ tác động đến nhà đầu tư.
1.1.2.2 Môi trường nội bộ (hoàn cảnh nội bộ):
5
Rủi ro lớn nhất và cũng là nguồn cội của mọi rủi ro
trong đầu tư chứng khoán chính là rủi ro từ sự sai lầm do
thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng tổng hợp, phân tích và phản
ứng thị trường nhạy bén, chính xác của bản thân nhà đầu
tư... Môi trường nội bộ bao gồm các yếu tố chủ quan của
nhà đầu tư có ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư. Cụ thể, môi
trường nội bộ gồm các yếu tố như: trình độ nhà đầu tư, khả
năng nghiên cứu, phân tích và phán đoán của nhà đầu tư,
năng lực tài chính của nhà đầu tư, khả năng ra quyết định
của nhà đầu tư …..
1.1.3 Sự cần thiết của việc nghiên cứu môi trƣờng đầu
tƣ
Những yếu tố của môi trường đầu tư có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán, đến giá cả chứng
khoán một cách trực tiếp hoặc gián tiếp mà mỗi người tham
gia vào thị trường nên hiểu, nên phân tích trước và trong cả
quá trình thực hiện quản lý đầu tư, hoặc kinh doanh của
mình và nó là tiền đề quan trọng để tạo điều kiện cho quyết
định đầu tư, kinh doanh, quản lý của nhà đầu tư mang lại
hiệu quả cao.
Đối với mỗi chủ thể khác nhau, việc nghiên cứu môi
trường đầu tư có tầm quan trọng khác nhau:
a. Đối với người đầu tư: Qua việc xem xét các yếu tố
của môi trường đầu tư người đầu tư có thể dự báo được khả
năng hình thành của giá cả, mức sinh lời dự kiến, khả năng
6
bảo toàn vốn và khả năng sản sinh rủi ro. Đây là những yếu
tố mà tất cả mọi người đầu tư đều rất quan tâm.
Môi trường đầu tư có thể tác động đến nhà đầu tư chứng
khoán theo hai hướng cơ bản:
- Hướng thuận lợi: tạo ra các cơ hội thuận lợi cho hoạt
động đầu tư, mang lại lợi nhuận càng cao.
- Hướng nghịch: rủi ro xảy ra và gây thiệt hại cho nhà
đầu tư
Trong kinh tế thị trường, chẳng có hoạt động đầu tư
kinh doanh nào lại không có rủi ro. Lợi nhuận càng cao, rủi
ro càng lớn... Đầu tư chứng khoán cũng chịu tác động của
quy luật này, nhưng ở mức sâu đậm và đa diện hơn. Thật
hiếm có hoạt động kinh doanh nào mà sự thành bại của nhà
đầu tư lại đòi hỏi và gắn liền với yêu cầu về tính đa dạng,
tính hệ thống, toàn diện, cập nhật và chính xác của các
thông tin có liên quan trực tiếp và gián tiếp như đầu tư
chứng khoán. Chân dung nhà đầu tư chứng khoán điển hình
là người luôn háo hức trước mọi tin đồn và hăng hái góp
phần vào tin đồn; luôn cảnh giác đề phòng và cũng rất nhẹ
dạ, cả tin; ranh ma và nhạy cảm. Và trong số họ, ai nắm
được thông tin tốt hơn cả thì sẽ dễ dàng chiến thắng và giảm
thiểu được nhiều rủi ro.
Nói cách khác, rủi ro trong kinh doanh chứng khoán có
nguồn gốc rất sâu đậm từ số lượng và chất lượng thông tin
mà nhà đầu tư cần để làm cơ sở đưa ra các quyết định đầu
7
tư. Rủi ro luôn rình rập ở mọi nơi và nhà đầu tư sẽ phải trả
giá sớm hay muộn, đắt hay rẻ, khi không nắm được các
thông tin chính xác nhất, đầy đủ và kịp thời nhất liên quan
đến môi trường đầu tư, chất lượng chứng khoán và tình hình
thị trường... Một báo cáo tài chính hoặc cáo bạch chưa được
kiểm toán, thẩm định bởi các tổ chức độc lập, chuyên
nghiệp, có uy tín và trình độ chuyên môn cao; một thông tin
đến chậm hoặc bị cắt xén, không chính xác về hoạt động
kinh doanh của công ty phát hành cổ phiếu, về môi trường
pháp lý và về các nhà đầu tư khác trên cùng “sân chơi”,
hoặc đơn giản là về tình hình thời tiết hay dịch bệnh nào
đó... đều có thể gây ra thiệt hại khôn lường cho nhà đầu tư
chứng khoán.Vì vậy việc nghiên cứu môi trường đầu tư là
cần thiết.
b. Đối với doanh nghiệp: Xem xét tổng quan các nhân tố
của môi trường đầu tư các nhà quản trị doanh nghiệp có thể
đánh giá thị trường, dự báo sự phát triển của thị trường, dự
báo các đối thủ cạnh tranh, những thuận lợi, khó khăn trong
quá trình kinh doanh và từ đó có quyết sách thích hợp làm
tăng giá trị doanh nghiệp.
c. Đối với nhà nước:
Nhà nước có nghĩa vụ vừa quản lý vừa xây dựng môi
trường đầu tư, nhằm mục tiêu:
- Giữ vững kỷ luật, kỷ cương của thị trường, đảm bảo
cho thị trường hoạt động theo quy chế và pháp luật.
8
- Tạo điều kiện để phát triển thị trường.
- Tạo động lực để các thành viên tham gia thị trường với
thái độ xây dựng.
- Ngăn ngừa những hành vi phá hoại, thao túng thị trường.
- Đạt mục tiêu cuối cùng là làm cho thị trường hoạt động
trung thực, công bằng và hiệu quả.
Để đạt được các mục tiêu đó, một trong những lĩnh vực
mà nhà nước cần quan tâm là môi trường vĩ mô của thị
trường. Hiểu rõ môi trường này nhà nước có thể:
- Có biện pháp quản lý thích hợp hơn
- Có các chính sách khuyến khích phát triển thích hợp
hơn
- Điều chỉnh kịp thời các quy chế, biện pháp phù hợp
với môi trường và sự biến đổi của môi trường.
Theo nhận định của Ngân hàng Thế giới (WB): nếu các
nước đang phát triển muốn đạt tỉ lệ tăng trưởng cao, việc
tự do hóa thương mại phải được bổ sung bằng một môi
trường đầu tư lành mạnh. Các thể chế, chính sách và qui
định quản lý của nhà nước đóng vai trò hệ trọng trong việc
khuyến khích đầu tư nước ngoài. Nếu chính phủ quá quan
liêu và tham nhũng, hoặc nếu cơ sở hạ tầng và các dịch vụ
tài chính kém hiệu quả, sẽ khó thuyết phục giới kinh
doanh đầu tư vào những cơ hội xuất khẩu tiềm năng, bởi
vì lợi nhuận thấp và không chắc chắn. Sở dĩ Trung Quốc
9
đã tăng trưởng rất nhanh trong thập niên vừa qua trong khi
các nước đang phát triển khác trì trệ là do Trung Quốc đã
tạo được một môi trường đầu tư đặc biệt hấp dẫn. Môi
trường đầu tư này đã giúp các doanh nghiệp không chỉ
gieo hạt đầu tư mà còn hái quả lợi nhuận. Những gương
thành công như vậy đã thu hút thêm các doanh nghiệp
khác đến Trung Quốc, góp phần làm tăng lượng đầu tư
nước ngoài cũng như số lượng các công ty xuất hàng
Trung Quốc ra thị trường thế giới.
d. Đối với nhà phân tích, bình luận:
Nếu hiểu rõ môi trường vĩ mô của thị trường thì nhà
phân tích, bình luận sẽ có căn cứ để đánh giá, phân tích thị
trường chính xác, sâu sắc hơn.
1.2 Môi trƣờng vĩ mô
1.2.1 Môi trƣờng kinh tế
Một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu của môi
trường đầu tư liên quan đến thị trường chứng khoán là môi
trường kinh tế. Đây là một yếu tố rất quan trọng thu hút sự
quan tâm của tất cả các nhà đầu tư. Sự tác động của các yếu
tố môi trường này có tính chất trực tiếp, và năng động hơn
so với một yếu tố khác của môi trường vĩ mô. Những diễn
biến của môi trường kinh tế vĩ mô bao giờ cũng chứa đựng
những cơ hội và đe doạ khác nhau đối với từng doanh
nghiệp trong các ngành khác nhau, và có ảnh hưởng tiềm
tàng đến các chiến lược của nhà đầu tư .
10
Có rất nhiều yếu tố của môi trường kinh tế vĩ mô.
Chúng ta xem xét môi trường kinh tế qua các mặt: Các chỉ
tiêu tổng hợp của nền kinh tế quốc dân GDP, GNP,. ., lạm
phát, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế, dự trữ
ngoại tệ, cân đối ngân sách nhà nước, nợ nước ngoài, tỷ giá
hối đoái và một số phân tích kinh tế vĩ mô khác:
a. Tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế (Chỉ tiêu GDP, GNP)
Tổng sản phẩm quốc nội thường được viết tắt là GDP
(từ cụm từ đầy đủ tiếng Anh Gross Domestic Product) là
một con số thống kê cho biết tổng mức thu nhập của toàn
nền kinh tế quốc dân và tổng mức chi tiêu trên đầu ra của
hàng hóa và dịch vụ. GDP là số đo về giá trị của hoạt động
kinh tế quốc gia. là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm
và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh
thổ trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một
năm. GDP là một trong những chỉ số cơ bản để đánh giá sự
phát triển kinh tế của một vùng lãnh thổ nào đó.
GDP có thể tính là tổng của các khoản tiêu dùng, hoặc
tổng của các khoản chi tiêu, hoặc tổng giá trị gia tăng của
nền kinh tế. Theo cách tính tổng tiêu dùng, các nhà kinh tế
học đưa ra một công thức như sau:
GDP = C + I + G + NX
11
Trong đó:
• C là tiêu dùng của tất cả các cá nhân (hộ gia đình)
trong nền kinh tế.
• I là đầu tư của các nhà kinh doanh vào cơ sở kinh
doanh. Đây được coi là tiêu dùng của các nhà đầu tư.
• G là tổng chi tiêu của chính phủ.
• NX là "xuất khẩu ròng" của nền kinh tế. Nó bằng
xuất khẩu - nhập khẩu
GDP danh nghĩa và GDP thực tế:
GDP danh nghĩa là một cách tính tổng sản phẩm nội
địa theo giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ tính theo
giá hiện hành. Sản phẩm sản xuất ra trong thời kỳ nào
thì lấy giá của thời kỳ đó. Trong khi GDP danh nghĩa
chỉ tổng số tiền chi phí cho GDP, thì GDP thực tế chỉ
việc điều chỉnh lại của con số này vì những lý do như sự
mất giá của đồng tiền để có thể ước lượng chuẩn hơn số
lượng thực sự của hàng hóa và dịch vụ tạo thành GDP.
GDP thứ nhất đôi khi được gọi là "GDP tiền tệ" trong
khi GDP thứ hai được gọi là GDP "giá cố định" hay
GDP "điều chỉnh lạm phát" hoặc "GDP theo giá năm
gốc"
12
Tổng sản lượng quốc gia hay Tổng sản phẩm quốc gia
thường được viết tắt GNP (Gross National Product), là một
chỉ tiêu kinh tế đánh giá sự phát triển kinh tế của một đất
nước, nó được tính là tổng giá trị bằng tiền của các sản
phẩm cuối cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm
ra trong một khoảng thời gian nào đó, thông thường là một
năm tài chính, không kể làm ra ở đâu (trong hay ngoài
nước)
Công thức tính tổng sản phẩm quốc gia
• C = Chi phí tiêu dùng cá nhân
• I = Tổng đầu tư cá nhân quốc nội
• G = Chi phí tiêu dùng của nhà nước
• X = Kim ngạch xuất khẩu ròng các hàng hóa và dịch
vụ
• M = Kim ngạch nhập khẩu ròng của hàng hóa và
dịch vụ
• NR= Thu nhập ròng từ các tài sản ở nước ngoài (thu
nhập ròng)
GNP = C + I + G + (X - M) + NR
13
GDP,GNP thường được dùng để đánh giá mức phát triển
kinh tế của cả nước, từng ngành, từng địa phương và từng
vùng lãnh thổ. Phân tích xu hướng của tổng sản phẩm quốc
nội, và tổng sản phẩm quốc dân nghĩa là số liệu về tốc độ
tăng trưởng của GDP và GNP hàng năm sẽ cho biết tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế và tốc độ tăng của thu nhập tính
bình quân đầu người, cho phép dự đoán dung lượng thị
trường của từng ngành và thị phần của doanh nghiệp. Phân
tích sự biến động của GDP trong quan hệ biến động với dân
số để xem xét mức tăng trưởng bình quân đầu người và từ
đó xem xét khả năng tích lũy của một quốc qia. Đánh giá
hiệu quả kinh tế, chi phí sản xuất và khả năng hoàn vốn đầu
tư ở từng ngành, từng khu vực kinh tế, đánh giá cơ cấu
ngành kinh tế….thông qua chỉ tiêu GDP, giúp nhà đầu tư
xem xét lựa chọn và đưa ra quyết định đầu tư. Do đó, để
đánh giá xu hướng phát triển chung của thị trường chứng
khoán, nhà đầu tư cũng cần phải xem xét đánh giá tốc độ
tăng trưởng GDP hoặc GNP .
GDP ở Việt Nam trong những năm (1995 - 2007) tăng
trưởng bình quân từ 7 - 10%, đây là mức tăng trưởng khá
cao. Chính điều này đã tác động, làm cho tốc độ tăng trưởng
của thị trường ở Việt Nam trong những năm qua là khá cao.
14
Bảng 1 - Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm từ 1997 - 2007 (%)
Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Dự
kiến
2008
GDP 8,15 5,76 4,77 6,79 6,89 7,08 7,34 7,79 8,44 8,17 8,44 7,0
(Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2006, tr 69)
Tốc độ tăng trưởng GDP thống kê qua các năm và ước tính
cho 2008
Thành tựu nổi bật nhất, cơ bản nhất của nền kinh tế Việt
Nam năm 2007 là kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Tổng sản phẩm trong nước
ước tăng 8,44%, đạt kế hoạch đề ra (8,0 - 8,5%), cao hơn
15
năm 2006 (8,17%) và là mức cao nhất trong vòng 11 năm
gần đây. Với tốc độ này, Việt Nam đứng vị trí thứ 3 về tốc
độ tăng GDP năm 2007 của các nước châu Á sau Trung
Quốc (11,3%) và Ấn Độ (khoảng 9%) và cao nhất trong các
nước ASEAN (6,1%). Tốc độ tăng trưởng GDP cả 3 khu
vực kinh tế chủ yếu đều đạt mức khá: Khu vực nông - lâm
nghiệp và thủy sản ước tăng 3,0%/ so với mức 3,32% cùng
kỳ 2006, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,33%
(riêng công nghiệp tăng 10,32%)/ so với mức 10,4% và
10,32% cùng kỳ và khu vực dịch vụ tăng 8,5%/ so với mức
8,29% của năm 2006. (tính theo giá so sánh năm 1994).
Nếu không có thiên tai, dịch bệnh lớn như vừa trải qua, tốc
độ tăng GDP chắc chắn còn cao hơn 8,5%. Cơ cấu kinh tế
theo giá thực tế chuyển dich theo hướng tích cực. Tỷ trọng
GDP khu vực nông - lâm nghiệp - thủy sản giảm còn dưới
20,0%/ so với 20,81% năm 2006, khu vực công nghiệp và
xây dựng tăng dần và chiếm trên 41,7% so với 41.56% và
khu vực dịch vụ tăng nhẹ, chiếm 38,30% so với 38,08%
trong 2 năm tương ứng. Nét mới trong năm 2007 là tỷ trọng
khu vực dịch vụ tăng cao và tốc độ tăng khá ổn định, quý
sau cao hơn quý trước, trong điều kiện có khó khăn nhiều
mặt, nhất là dịch vụ vận tải, du lịch, thương mại, tài chính
ngân hàng trong bối cảnh hội nhập WTO. Năm 2008, do tốc
độ tăng giá (CPI) tăng nhanh nên Quốc hội đã giảm mục
tiêu tăng trưởng so với năm 2007, theo đó mục tiêu Quốc
16
hội đề ra cho cả năm 2008 với tốc độ tăng tổng sản phẩm
trong nước chỉ là 7%
b. Lãi suất:
Lãi suất hiểu đơn giản là cái giá mà người đi vay
phải trả cho người có tiền cho vay. Khi phân tích nền kinh
tế nói chung để đi tới quyết định đầu tư vào thị trường
chứng khoán, nhất thiết phải xem xét đến lãi suất, yếu tố cơ
bản quyết định việc đầu tư. Lãi suất và xu hướng của lãi
suất trong nền kinh tế có ảnh hưởng tới xu thế của tiết kiệm,
tiêu dùng và đầu tư, và do vậy ảnh hưởng tới hoạt động của
các doanh nghiệp, các nhà đầu tư chứng khoán. Lãi suất
tăng sẽ hạn chế nhu cầu vay vốn để đầu tư mở rộng hoạt
động kinh doanh và đầu tư, ảnh hưởng đến mức lời của nhà
đầu tư, của các doanh nghiệp. Ngoài ra khi lãi suất tăng
cũng sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng
nhiều hơn, do vậy cũng sẽ làm cho nhu cầu tiêu dùng giảm
xuống.
Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến
việc phát hành và mua bán chứng khoán trên thị trường
chứng khoán. Nếu lãi suất mà ngân hàng trả cho người tiết
kiệm cao, điều này sẽ khiến cho người tiết kiệm thích gửi
tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất cao nhưng lại có rủi ro
thấp hơn là đầu tư vào chứng khoán. Sự thay đổi về lãi suất
trên thị trường tiền tệ có tác động rất lớn đến cung cầu, giá
cả các loại chứng khoán. Một số chứng khoán dài hạn có lãi
17
suất thả nổi thường căn cứ vào lãi suất tiền gửi ngắn hạn
của ngân hàng để điều chỉnh. Hoặc khi định giá chứng
khoán tại một thời điểm nào đó trên thị trường, nhà đầu tư
có thể tham khảo lãi suất ngân hàng được hình thành trên
thị trường tiền tệ.
Do lãi suất là yếu tố cơ bản quyết định việc đầu tư,
nhà đầu tư cần nghiên cứu kỹ mối quan hệ giữa lãi suất và
giá chứng khoán.
a. Mối quan hệ giữa lãi suất và giá trái phiếu:
Đây là mối quan hệ trực tiếp và ngược chiều nhau. Giá
của trái phiếu là giá trị hiện tại của các dòng tiền. Khi lãi
suất thị trường càng cao thì các dòng tiền bị chiết khấu với
lãi suất càng lớn, do vậy dẫn đến giá trái phiếu càng nhỏ.
Do đó, giữa lãi suất thị trường và lãi suất trái phiếu có mối
quan hệ tỷ lệ nghịch: khi lãi suất ngân hàng tăng cao hơn lãi
suất trái phiếu, giá trái phiếu sẽ sụt giảm và ngược lại, khi
lãi suất ngân hàng hạ thấp hơn lãi suất trái phiếu, giá trái
phiếu sẽ tăng.
b. Mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu:
Đây là mối quan hệ không trực tiếp và không hoàn toàn
diễn ra theo một chiều. Lý do ở chỗ, dòng tiền thu nhập của
cổ phiếu không cố định như của trái phiếu, mà chúng có thể
thay đổi cùng với lãi suất và mức thay đổi này có thể lớn
hơn hoặc nhỏ hơn thay đổi của lãi suất.
18
(1)Lãi suất tăng - giá cổ phiếu ổn định hoặc tăng: xảy ra
khi giá hàng hóa bán ra của các công ty có thể tăng, dẫn đến
thu nhập của công ty tăng lên cùng với lạm phát do chi phí
đầu vào tăng. Do vậy, giá cổ phiếu trong trường hợp này có
thể giữ ổn định vì lãi suất chiết khấu tăng và dòng thu nhập
tăng bù đắp được cho nhau.
(2) Lãi suất tăng - giá cổ phiếu giảm: xảy ra khi các dòng
thu nhập tương lai của công ty tăng không nhiều hoặc thậm
chí giảm, vì trước đó công ty phải huy động vốn với lãi suất
cao, đến khi hàng hóa được sản xuất và bán ra thì lại gặp
phải sự cạnh tranh gay gắt, trong khi sức mua lại có hạn, thu
nhập của công ty giảm sút, công ty không có khả năng tăng
giá hàng hóa để bù lại mức lạm phát. Khi lãi suất giảm thì
cũng có thể xảy ra các khả năng tương tự.
(3)Lãi suất tăng - giá cổ phiếu ổn định hoặc tăng: xảy ra
khi giá hàng hóa bán ra của các công ty có thể tăng, dẫn đến
thu nhập của công ty tăng lên cùng với lạm phát do chi phí
đầu vào tăng. Do vậy, giá cổ phiếu trong trường hợp này có
thể giữ ổn định vì lãi suất chiết khấu tăng và dòng thu nhập
tăng bù đắp được cho nhau.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, mối quan hệ giữa lãi suất
và giá cổ phiếu thường là quan hệ ngược chiều, nhất là
trong giai đoạn ngắn hạn, nhưng điều này không phải lúc
nào cũng đúng.
c. Mức độ lạm phát:
19
Bên cạnh lãi suất, yếu tố lạm phát cũng đóng vai trò
không kém vì nó dẫn đến sự khác nhau giữa lãi suất danh
nghĩa và lãi suất thực. Lạm phát cao hay thấp có ảnh hưởng
đến tốc độ đầu tư vào nền kinh tế. Ngoại trừ trường hợp lạm
phát nhỏ, lạm phát vừa phải (1 con số) có tác động tích cực
đến sự phát triển của nền kinh tế còn lại nói chung lạm phát
đều gây ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển của nền
kinh tế xã hội. Khi lạm phát quá cao sẽ không khuyến khích
tiết kiệm và tạo ra những rủi ro lớn cho nhà đầu tư, sức mua
của xã hội cũng bị giảm sút và làm cho nền kinh tế bị đình
trệ. Trái lại, thiểu phát cũng làm cho nền kinh tế bị trì trệ.
Việc duy trì một tỷ lệ lạm phát vừa phải có tác dụng khuyến
khích đầu tư vào nền kinh tế, kích thích thị trường tăng
trưởng.
Lạm phát là một chỉ tiêu luôn được nhà đầu tư quan tâm,
bởi vì lạm phát cao sẽ chứng tỏ nền kinh tế không ổn định,
lạm phát cao sẽ làm xói mòn kết quả sản xuất kinh doanh,
kết quả đầu tư. Cụ thể:
- Trong điều kiện lạm phát ở mức độ cao, giá cả hàng
hóa bị tăng liên tục, điều này làm cho sản xuất gặp
khó khăn. Qui mô sản xuất không tăng hoặc bị giảm
sút do nhu cầu phải bổ sung vốn đầu tư liên tục. Cơ
cấu nền kinh tế dễ bị mất cân đối vì sẽ có xu hướng
phát triển những ngành sản xuất có chu kỳ ngắn, thời
gian thu hồi vốn nhanh, còn những ngành sản xuất có
chu kỳ dài, thời gian thu hồi vốn chậm sẽ có xu
20
hướng bị đình đốn, phá sản. Bên cạnh đó việc đánh
giá hiệu quả sản xuất kinh doanh không còn chính
xác vì thước đo của đồng tiền bị thu hẹp, công tác
hạch tóan chỉ còn là hình thức.
- Người ta từ chối tiền trong vai trò là trung gian trao
đổi đồng thời chuyển sang đầu cơ tích trữ vàng, hàng
hóa đẩy khỏi tay mình những đồng tiền mất giá. Điều
này càng làm cho lưu thông tiền tệ bị rối lọan.
- Lạm phát xảy ra còn môi trường tốt để những hiện
tượng tiêu cực trong đời sống phát sinh như đầu cơ,
tích trữ gây cung – cầu hàng hóa giả tạo…
- Thị trường chứng khoán, tín dụng cũng bị rơi vào
khủng hoảng khi người dân không an tâm đầu tư
trong điều kiện lạm phát gia tăng. Lạm phát làm sức
mua của đồng tiền bị giảm, lưu thông của tiền tệ diễn
biến khác thường, tốc độ lưu thông của thị trường
tăng lên một cách đột biến hoạt động của hệ thống
tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng do nguồn
tiền gửi trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng, nhiều
ngân hàng bị phá sản do mất khả năng thanh toán và
thua lỗ trong kinh doanh dẫn đến hệ thống tiền tệ bị
rối loạn không thể kiểm soát nổi.
- Trong lĩnh vực đời sống xã hội: đại bộ phận tầng lớp
dân cư sẽ rất khó khăn và chật vật do phải chịu áp
lực từ sự gia tăng của giá cả
21
- …..
Như vậy, khi phân tích môi trường kinh tế vĩ mô, nhà
đầu tư không thể nào bỏ qua chỉ tiêu lạm phát. Mức độ lạm
phát vừa phải và ổn định là điều kiện hết sức quan trọng
nhằm đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng bền vững, là
điệu kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư nói chung và
phát triển thị trường chứng khoán nói riêng.
d. Cán cân thanh toán:
Cán cân thanh toán, hay cán cân thanh toán quốc tế,
ghi chép những giao dịch kinh tế của một quốc gia với phần
còn lại của thế giới trong một thời kỳ nhất định. Những giao
dịch này có thể được tiến hành bởi các cá nhân, các doanh
nghiệp cư trú trong nước hay chính phủ của quốc gia đó.
Đối tượng giao dịch bao gồm các loại hàng hóa, dịch vụ, tài
sản thực, tài sản tài chính, và một số chuyển khoản. Thời kỳ
xem xét có thể là một tháng, một quý, song thường là một
năm. Những giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người
cư trú trong nước tới người cư trú ngoài nước được ghi vào
bên tài sản nợ. Các giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía
người cư trú ở ngoài nước cho người cư trú ở trong nước
được ghi vào bên tài sản có.
Theo quy tắc mới do IMF đề ra năm 1993 về cán cân
thanh toán, cán cân thanh toán của một quốc gia bao gồm
bốn thành phần sau.:
(1) Tài khoản vãng lai
22
Tài khoản vãng lai bao gồm: Cán cân thương mại
hàng hóa, cán cân thương mại phi hàng hóa, các chuyển
khoản. Tài khoản vãng lai ghi chép những giao dịch về hàng
hóa và dịch vụ giữa người cư trú trong nước với người cư
trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của
người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước được
ghi vào bên "nợ". Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh
toán của người cư trú ngoài nước cho người cư trú trong
nước được ghi vào bên "có". Thặng dư tài khoản vãng lai
xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ.
Tài khoản vãng lai thặng dư khi quốc gia xuất khẩu
nhiều hơn nhập khẩu, hay khi tiết kiệm nhiều hơn đầu tư.
Ngược lại, tài khoản vãng lai thâm hụt khi quốc gia nhập
nhiều hơn hay đầu tư nhiều hơn. Mức thâm hụt tài khoản
vãng lai lớn hàm ý quốc gia gặp hạn chế trong tìm nguồn tài
chính để thực hiện nhập khẩu và đầu tư một cách bền vững.
Theo cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản
vãng lai tính bằng phần trăm của GDP lớn hơn 5, thì quốc
gia bị coi là có mức thâm hụt tài khoản vãng lai không lành
mạnh.
(2) Tài khoản vốn
Tài khoản vốn (còn gọi là cán cân vốn) là một bộ
phận của cán cân thanh toán của một quốc gia. Nó ghi lại tất
cả những giao dịch về tài sản (gồm tài sản thực như bất
động sản hay tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền
23
tệ) giữa người cư trú trong nước với người cư trú ở quốc gia
khác. Khi những tuyên bố về tài sản nước ngoài của người
sống trong nước lớn hơn tuyên bố về tài sản trong nước của
người sống ở nước ngoài, thì quốc gia có thặng dư tài khoản
vốn (hay dòng vốn vào ròng). Theo quy ước, dòng vốn vào
ròng phải bằng thâm hụt tài khoản vãng lai.
(3) Thay đổi trong dự trữ ngoại hối nhà nước
Mức tăng hay giảm trong dự trữ ngoại hối của ngân
hàng trung ương. Do tổng của tài khoản vãng lai và tài
khoản vốn bằng 0 và do mục sai số nhỏ, nên gần như tăng
giảm cán cân thanh toán là do tăng giảm dự trữ ngoại hối
tạo nên. Dự trữ ngoại hối có vai trò quan trọng trong việc ổn
định tiền tệ và nền tài chính quốc gia. Kinh nghiệm cuộc
khủng hoảng tài chính Thái Lan năm 1997 cho thấy: dự trữ
ngoại tệ thấp (cuối tháng 6/1997: 15tỷ USD) là một trong
những nguyên nhân làm cho đồng bath Thái lan bị “tấn
công” và khủng hoảng xảy ra.
(4) Mục sai số
Do khó có thể ghi chép đầy đủ toàn bộ các giao dịch
trong thực tế, nên giữa phần ghi chép được và thực tế có thể
có những khoảng cách. Khoảng cách này được ghi trong
cán cân thanh toán như là mục sai số.
Cán cân thanh toán quốc tế do quan hệ xuất nhập
khẩu quyết định. Những căn bệnh trong nền kinh tế có thể
nảy sinh do sự thâm thủng mậu dịch và trong chừng mực
24
nào đó làm thay đổi môi trường kinh tế nói chung. Cán cân
thanh toán quốc tế ảnh hưởng nhiều đến khả năng trả nợ,
khả năng cân bằng ngân sách trong nước, khả năng duy trì
ổn định thị trường hối đoái và khả năng tích lũy của cả quốc
qia. Vì vậy, nó tác động rất nhiều đến thị trường chứng
khoán, đến quyết định đầu tư chứng khoán.
e. Xu hướng của tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái (thường được gọi tắt là tỷ giá) là tỷ lệ
trao đổi giữa hai đồng tiền của hai nước. Cũng có thể gọi tỷ
giá hối đoái là giá của một đồng tiền này tính bằng một
đồng tiền khác. Thông thường tỷ giá hối đoái được biểu
diễn thông qua tỷ lệ bao nhiêu đơn vị đồng tiền nước này
(nhiều hơn một đơn vị) bằng một đơn vị đồng tiền của nước
kia.
Ví dụ: tỷ giá hối đoái giữa Đồng Việt Nam và Dollar
Mỹ là 16045 VND/USD hay giữa Yen Nhật và Dollar Mỹ
là 116,729 JPY/USD hay giữa Dollar Mỹ và Euro là
1,28262 USD/Euro. Đồng tiền để ở số lượng một đơn vị
trong các tỷ lệ như những ví dụ trên gọi là đồng tiền định
danh hay đồng tiền cơ sở.
Sự biến động của tỷ giá làm thay đổi những điều
kiện kinh doanh nói chung, tạo ra những cơ hội và đe doạ
khác nhau đối với các doanh nghiệp, đặc biệt nó có tác động
điều chỉnh quan hệ xuất nhập khẩu. Thông thường, chính
phủ sử dụng công cụ này để điều chỉnh quan hệ xuất nhập
25
khẩu theo hướng có lợi cho nền kinh tế. Sự thay đổi tỷ giá
hối đoái có thể ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động xuất
nhập khẩu và ảnh hưởng tới hoạt động của cả nền kinh tế.
f. Thu nhập thực tế tính bình quân đầu người
Xu hướng tăng giảm của thu nhập thực tế tính bình
quân đầu người cũng là một yếu tố có tác động trực tiếp đến
quy mô và tính chất của thị trường trong tương lai. Nếu
không có hàng hóa chứng khoán thì không có thị trường
chứng khoán và thị trường chứng khoán có phát triển hay
không phụ thuộc rất nhiều vào thu nhập bình quân đầu
người của người dân, phụ thưộc vào số tiền nhà đâu tư có
được dùng để đầu tư vào chứng khoán, phụ thuộc vào số
lượng người có thu nhập đủ để tích lũy và đầu tư vào thị
trường chứng khoán.
g. Hệ thống thuế và mức thuế:
Các điều khoản ưu đãi hay hạn chế của chính phủ với
các ngành được cụ thể hoá thông qua luật thuế. Sự thay đổi
của hệ thống thuế hoặc mức thuế có thể tạo ra những cơ hội
hoặc những nguy cơ đối với các doanh nghiệp, nó làm cho
mức chi phí hoặc thu nhập của nhà đầu tư thay đổi.
h.Các biến động trên thị trường tài chính:
Thị trường tài chính được coi là cơ sở hạ tầng, hệ
thống huyết mạch của nền kinh tế. Sự biến động của các chỉ
số trên thị trường tài chính có thể tác động, làm thay đổi giá
26
trị của các cổ phiếu. Qua đó làm ảnh hưởng chung đến nền
kinh tế cũng như tạo ra những cơ hội hoặc rủi ro đối với các
hoạt động đầu tư.
Thị trường tài chính là bộ phận quan hệ bậc nhất, chi
phối toàn bộ họat động kinh tế hàng hóa. Thị trường tài
chính phát triển góp phần thúc đẩy sự phát trịển kinh tế xã
hội của một quốc gia. Thị trường tài chính thể hiện sự nhạy
cảm mọi họat động của thị trường hàng hóa và dịch vụ. Có
quan điểm cho rằng Thị trường tài chính là yếu tố cơ bản
của kinh tế thị trường hiện đại. Thị trường tài chính ra đời
đã làm đa dạng hóa và phức tạp hóa mọi họat động tài
chính. Nó không chỉ nhận một cách thụ động các ảnh hưởng
của nền kinh tế. Vì thế, nó có những vai trò nhất định đối
với sự vận hành của nền kinh tế và là một công cụ đắc lực
giúp nhà nước quản lý nền kinh tế một cách có hiệu quả.
Kinh tế thị trường làm xuất hiện các quan hệ cung
cầu về hàng hóa và các quan hệ về tiền tệ. Các quan hệ này
càng phát triển tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu vận động nguồn
vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu càng mạnh mẽ. Thị trường tài
chính đóng vai trò nồng cốt trong quá trình luân chuyển
dòng vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ người tiết kiệm đến
người có nhu cầu sử dụng, được ví như nguồn cung cấp
năng lượng cho toàn bộ cơ thể kinh tế.
Một hệ thống thị trường tài chính hiệu quả nhằm giải
quyết các mục tiêu: cung ứng đủ và kịp thời vốn ngắn hạn,
27
trung hạn và dài hạn cho nền kinh tế; cung cấp các dịch vụ
tài chính để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của nền
kinh tế; cung ứng điều tiết hợp lý khối lượng tiền tệ cho lưu
thông kinh tế; sử dụng công cụ tiền tệ, lãi suất để kích thích
nền kinh tế phát triển.
Đứng ở góc độ nhà đầu tư, Thị trường tài chính là thị
trường để đầu tư tiền tệ vào các lọai tài sản tài chính có lãi.
Một thị trường tài chính hiệu quả sẽ là môi trường tốt để
đầu tư chứng khoán.
1.2.2. Môi trƣờng chính trị và pháp luật
Bao gồm hệ thống các quan điểm, đường lối chính
sách của chính phủ, hệ thống pháp luật hiện hành, các xu
hướng chính trị ngoại giao của chính phủ, và những diễn
biến chính trị trong nước, trong khu vực và trên toàn thế
giới. Có thể hình dung sự tác động của môi trường chính trị
và pháp luật đối với nhà đầu tư như sau:
Quan điểm, đường lối chính sách của chính phủ:
Chính phủ là cơ quan giám sát, duy trì, thực hiện pháp luật
và bảo vệ lợi ích cua quốc gia. Chính phủ có một vai trò to
lớn trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các chính
sách kinh tế, tài chính, tiền tệ, và các chương trình chi tiêu
của mình. Chính phủ vừa đóng vai trò là người kiểm soát,
khuyến khích, tài trợ, quy định, ngăn cấm, hạn chế, vừa
đóng vai trò là một nhà cung cấp các dịch vụ cho nhà đầu
tư, chẳng hạn như: cung cấp các thông tin vĩ mô, các dịch
28
vụ công cộng khác...Ngược lại, chính phủ có thể có chủ
trưởng “giảm nhiệt” của thị trường chứng khoán thì Chính
phủ có thể đề ra chính sách hạn chế cho vay của ngân hàng
đối vối đầu tư chứng khoán, hoặc tăng thuế thu nhập từ họat
động kinh doanh chứng khoán… Như vậy, để tận dụng
được cơ hội và giảm thiểu nguy cơ, nhà đầu tư phải nắm
bắt cho được những quan điểm, những quy định, những ưu
tiên, những quyết sach của chính phủ và cũng phải thiết lập
một quan hệ tốt đẹp… nhằm tạo ra một môi trường thuận
lợi cho hoạt động của đầu tư.
Hệ thống pháp luật hiện hành: đưa ra những quy
định cho phép hoặc không cho phép, hoặc những ràng buộc
đòi hỏi các nhà đầu tư phải tuân thủ. Vấn đề đặt ra đối với
nhà đầu tư là phải hiểu rõ tinh thần của pháp luật và chấp
hành tốt những quy định của pháp luật. Môi trường pháp lý
cũng là điều kiện rất cơ bản để thị trường chứng khoán hoạt
động an toàn, hiệu quả. Xu hướng phát triển chung, truyền
thống từ trước đến nay là cứ cho thị trường hoạt động và
phát triển trước và từ đó đúc rút ra kinh nghiệm và xây
dựng hệ thống pháp lý phù hợp. Xu hướng thứ hai là thiết
lập khung pháp lý cho thị trường chứng khoán trước, sau đó
thị trường mới đi vào hoạt động. Việt nam ta đang theo xu
thế sau, vì chúng ta đi sau nên có thể tận hưởng được kinh
nghiệm của các nước đi trước và rút ngắn được bước đi.
Môi trường pháp lý cũng là yếu tố rất quan trọng để thu hút
29
vốn đầu tư nước ngoài. Chúng ta nên xem xét môi trường
pháp lý theo các góc độ như sau:
- Hệ thống hành lang pháp lý của thị trường chứng
khoán được xây dựng như thế nào? có đủ để bảo vệ quyền
lợi chính đáng của người đầu tư không?
- Các luật pháp khác liên quan có trùng chéo, mâu
thuẫn không?
- Khả năng thực thi luật pháp thế nào?
- Những mặt khuyến khích, ưu đãi và hạn chế được
quy định trong hệ thống pháp luật
- Sự ổn định của hệ thống luật pháp, khả năng sửa
đổi và ảnh hưởng của chúng đến thị trường chứng khoán.
Các xu hướng chính trị và đối ngoại: chứa đựng
những tín hiệu và mầm mống cho sự thay đổi của môi
trường kinh doanh. Thị trường chứng khoán rất nhạy cảm
đối với các sự kiện chính trị. Do vậy các nhà đầu tư cần
phải nhạy cảm và phản ứng nhanh nhạy với những thay đổi
này. Những biến động phức tạp trong môi trường chính trị
và pháp luật sẽ tạo ra những cơ hội và rủi ro đối với các nhà
đầu tư, ví dụ một quốc gia thường xuyên có xung đột, nội
chiến xảy ra liên miên, đường lối chính sách không nhất
quán sẽ là một trở ngại lớn đối với nhà đầu tư. Xu thế hoà
bình, hợp tác, tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc đang
là xu thế chủ đạo hiện nay.
30
Chính phủ Việt Nam đã, đang và sẽ nỗ lực cải thiện
mạnh mẽ môi trường kinh doanh nhằm huy động tối đa các
nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Việt
Nam đang chuẩn bị các điều kiện thuận lợi nhất cho việc
thu hút ở mức cao nhất và sử dụng hiệu quả nhất dòng vốn
đầu tư nước ngoài đang tăng mạnh tại Việt Nam, trong đó
có việc thực hiện hiệu quả và đúng lộ trình các cam kết
song phương và đa phương trong quá trình hội nhập quốc
tế; tiếp tục hoàn thiện cơ chế thị trường, cải cách, đơn giản
hoá các thủ tục hành chính, hệ thống tài chính, ngân
hàng…. Việc nhà nước ta thực hiện chính sách ổn định môi
trường chính trị và "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các
nước" là một môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư.
1.2.3. Môi trƣờng văn hoá - xã hội
Bao gồm những chuẩn mực và giá trị mà những
chuẩn mực và giá trị này được chấp nhận và tôn trọng bởi
một xã hội hoặc một nền văn hoá cụ thể. Sự thay đổi của
các yếu tố văn hoá xã hội một phần là hệ quả của sự tác
động lâu dài của các yếu tố vi mô khác, do vậy nó thường
xảy ra chậm hơn so với các yếu tố khác. Một số những đặc
điểm mà các nhà đầu tư cần chú ý là sự tác động của các
yếu tố văn hoá - xã hội thường có tính dài hạn và tinh tế hơn
so với các yếu tố khác, thậm chí nhiều lúc khó mà nhận biết
được. Mặc khác, phạm vi tác động của các yếu tố văn hoá -
xã hội thường rất rộng: "nó xác định cách thức người ta
sống làm việc, sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm và dịch
31
vụ". Như vậy những hiểu biết về mặt văn hoá - xã hội sẽ là
những cơ sở rất quan trọng cho các nhà đầu tư trong quá
trình hoạc định chiến lược đầu tư của mình.
Các doanh nghiệp hoạt động trên nhiều quốc gia
khác nhau có thể bị tác động ảnh hưởng rõ rệt của yếu tố
văn hoá - xã hội và buộc phải thực hiện những chiến lược
thích ứng với từng quốc gia. Các khía cạnh hình thành môi
trường văn hoá - xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các hoạt
động kinh doanh và đầu tư . Môi trường văn hóa xã hội
cũng ảnh hưởng rất sâu rộng đến hiệu quả hoạt động của thị
trường chứng khoán. Khi nghiên cứu môi trường văn hóa xã
hội cần nghiên cứu những vấn đề sau:
(1) Những quan niệm về đạo đức, thẩm mỹ, về lối
sống, về nghề nghiệp;
(2) Những phong tục tập quán, truyền thống;
(3) Những quan tâm và ưu tiên của xã hội;
(4) Trình độ nhận thức, học vấn chung của xã hội;
(5) Tâm lý dân tộc;
(6) Ý thức của nhân dân trong tiết kiệm và đầu tư;
(7) Các “đối thủ” tham gia thị trường là ai? thủ đoạn,
tâm lý của họ ra sao? ….vv.
Trên thực tế, ngoài khái niệm văn hoá - xã hội còn
tồn tại khái niệm văn hoá của vùng, văn hoá của làng xã.
32
Chính những phạm trù này quyết định thị hiếu, phong cách
tiêu dùng, ý thức đầu tư và tiết kiệm ở từng khu vực sẽ khác
nhau.
Như đã phân tích ở trên, môi trường văn hoá - xã hội
trên thực tế có sự biến động, thay đổi. Do vậy, vấn đề đặt ra
đối với các nhà nhà đầu tư là không chỉ nhận thấy sự hiện
diện của nền văn hoá - xã hội hiện tại mà còn cần phải dự
đoán những xu hướng thay đổi của nó, đồng thời cần phải
nghiên cứu cả môi trường văn hóa của các đối thủ cạnh
tranh nước ngoài từ đó chủ động hình thành những chiến
lược đầu tư thích ứng.
Việt Nam có một nền văn hoá rất đa dạng, phong
phú và giàu bản sắc bởi đó là sự giao hòa văn hóa của 54
sắc tộc cùng tồn tại trên lãnh thổ. Bên cạnh đó, văn hóa Việt
Nam còn có một số yếu tố từ sự kết tinh giao thoa giữa nền
văn hoá Trung Quốc và Ấn Độ cùng với nền văn minh lúa
nước của người dân Việt Nam.
1.2.4. Môi trƣờng dân số
Môi trường dân số là một yếu tố rất quan trọng ảnh
hưởng đến các yếu tố khác của môi trường vĩ mô, đặc biệt
là yếu tố xã hội và yếu tố kinh tế. Những thay đổi trong môi
trường dân số sẽ tác động trực tiếp đến sự thay đổi của môi
trường kinh tế và xã hội và ảnh hưởng đến chiến lược kinh
doanh từng doanh nghiệp. Những thông tin của môi trường
dân số cung cấp những thông tin quan trọng cho các nhà
33
quản trị trong việc hoạch định chiến lược sản phẩm, chiến
lược thị trường, chiến lược tiếp thị, phân phối và quảng
cáo..., cung cấp cho nhà đầu tư phân tích dự báo được môi
trường đầu tư, tâm lý đám đông, tâm lý bầy đàn…
Những vần đề mà nhà đầu tư cần quan tâm đến môi
trường dân số bao gồm:
- Tổng số dân của xã hội, tỷ lệ tăng của dân số;
- Kết cấu và xu hướng thay đổi của dân số về tuổi tác,
giới tính, dân tộc, nghề nghiệp, và phân phối thu
nhập. Cơ cấu dân số trẻ và đang chuyển dần sang cơ
cấu dân số già tạo ra những cơ hội và thách thức đối
với sự phát triển kinh tế- xã hội.
- Tuổi thọ và tỷ lệ sinh tự nhiên;
- Các xu hướng dịch chuyển dân số giữa các vùng, Di
dân tự do và những biến động của lực lượng lao
động là những thách thức lớn đối với sự phát triển
bền vững của đất nước trong cả hiện tại và tương
lai....
1.2.5. Môi trƣờng tự nhiên
Điều kiện tự nhiên bao gồm vị trí địa lý, khí hậu,
cảnh quan thiên nhiên, đất đai, sông biển, các nguồn tài
nguyên khoáng sản trong lòng đất, tài nguyên rừng biển, sự
trong sạch của môi trường nước và không khí, ...
34
Có thể nói các điều kiện tự nhiên luôn luôn là một
yếu tố quan trọng trong cuộc sống của con người (đặc biệt
là các yếu tố của môi trường sinh thái), mặt khác nó cũng là
một yếu tố đầu vào hết sức quan trọng của nhiều ngành kinh
tế như: Nông nghiệp, công nghiệp khai khoáng, du lịch, vận
tải... Trong rất nhiều trường hợp, các điều kiện tự nhiên trở
thành một yếu tố rất quan trọng để hình thành lợi thế cạnh
tranh của các sản phẩm và dịch vụ.
Tuy nhiên, trong những thập niên gần đây, nhân loại
đang chứng kiến sự xuống cấp nghiêm trọng của các điều
kiện tự nhiên, đặc biệt là: sự ô nhiễm môi trường tự nhiên
ngày càng tăng; sự cạn kiệt và khan hiếm của các nguồn tài
nguyên và năng lượng; sự mất cân bằng về môi trường sinh
thái...
Những cái giá mà con người phải trả do sự xuống
cấp của môi trường tự nhiên là vô cùng to lớn, khó mà tính
hết được. Ngày nay dư luận của cộng đồng cũng như sự lên
tiếng của các tổ chức quốc tế về bảo vệ môi trường đang đòi
hỏi luật pháp của các nước phải khắt khe hơn, nhằm tái tạo
và duy trì các điều kiện của môi trường tự nhiên.
Trong bối cảnh như vậy, chiến lược kinh doanh của
các doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Một là, ưu tiên phát triển các hoạt động sản xuất
điều kiện hoặc dịch vụ nhằm khai thác tốt các điều kiện và
lợi thế của môi trường tự nhiên trên cơ sở bảo đảm sự duy
35
trì, tái tạo, đặc biệt nếu có thể, góp phần tăng cường hơn
nữa các điều kiện tự nhiên.
Hai là, phải có ý thức tiết kiệm và sử dụng có hiệu
quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt cần phải làm
cho các nhà quản trị có ý thức trong việc chuyển dần từ việc
sử dụng các nguồn tài nguyên không thể tái sinh trong tự
nhiên sang sử dụng các vật liệu nhân tạo.
Ba là, đẩy mạnh việc nghiên cứu phát triển công
nghệ, sản phẩm góp phần bảo vệ môi trường, môi sinh,
giảm thiểu tối đa những tác động gây ô nhiễm môi trường
do hoạt động của doanh nghiệp gây ra.
Việc nghiên cứu môi trường tự nhiên để ra quyết
định đầu tư không phải là một việc làm vô bổ nhất là trong
giai đoạn hiện nay khi mà cả thế giới đang phải đối phó
cùng lúc với ba mũi tấn công: khủng hoảng lương thực,
khủng hoảng nhiên liệu, và khủng hoảng tài chính. Khủng
hoảng lương thực và khủng hoảng nhiên liệu là hậu quả của
việc khai thác cạn kiệt môi trường tự nhiên. Do vậy một nhà
đầu tư khi phân tích môi trường tự nhiên sẽ biết mình nên
làm gì? Đầu tư vào những ngành nào có khả năng sinh lời
cao nhất, đồng thời bảo vệ môi trường tự nhiên của mình.
1.2.6. Môi trƣờng công nghệ
Đây là một trong những yếu tố rất năng động, chứa
đựng nhiều cơ hội và đe doạ đối với nhà đầu tư. Những áp
36
lực và cơ hội từ môi trường công nghệ đối với nhà đầu tư
chứng khoán,có thể là:
(1) Sự ra đời của công nghệ mới làm xuất hiện và
gia tăng việc tìm kiếm thông tin và ra quyết định đầu tư
(2) Sự ra đời của công nghệ mới càng tạo điều kiện
thuận lợi cho những nhà đầu tư mới tham gia vào thị
trường, điều đó kích thích thị trường hoạt động sối động
hơn
(3) Hệ thống máy móc, trang thiết bị, phương tiện
thông tin….có đảm bảo cho thị trường chứng khoán vận
hành tốt chưa..... Hiện tượng sập sàn, nghẽn mạch là những
sự cố xảy ra có thể ảnh hưởng đến nhà đầu tư chứng khoán.
Môi trường công nghệ phát triển, có nghĩa là thông tin từ sở
giao dịch chứng khoán và từ thị trường sẽ đến với nhà đầu
tư dễ dàng, thuận lợi và nhanh chóng…..
1.3 Môi trƣờng vi mô
Đây là một loại môi trường được hình thành tùy
thuộc vào đặc điểm của từng ngành, từng doanh nghiệp
niêm yết. Tác động của môi trường vi mô có ảnh hưởng
thường xuyên và trực tiếp đến sự thành bại của nhà đầu tư.
Những thông tin thu thập từ môi trường này có tác động
không nhỏ đến giá cả chứng khoán, đến nguồn cung và
nguồn cầu chứng khoán, tâm lý đám đông và đến tình thanh
khoản của thị trường chứng khoán. Do đó, nhà đầu tư cần
nghiên cứu kỹ môi trường đầu tư ở các khía cạnh sau:
37
(1) Môi trường cạnh tranh của các doanh nghiệp niêm yết
Khi nền kinh tế thị trường phát triển, sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật ngày càng tăng thị sư cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp ngày càng khốc liệt. Cạnh tranh có thể xảy ra
trong nội bộ ngành cũng có thể do sự xâm của sản phẩm
mới, sản phẩm thay thế. Để có thể thành công trong đầu tư
chứng khoán, nhà đầu tư nên tìm ra được nhựng điểm mạnh
và điểm yếu của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh
khốc liệt này.
(2) Nguồn nhân lực của các doanh nghiệp niêm yết
Con người là nguồn lực sáng tạo chủ yếu của xã hội.
Trong một tổ chức, nguồn lực con người là nguồn tài
nguyên quý giá nhất. Tài nguyên nhân lực chính là nguồn
độc nhất của doanh nghiệp không thể bắt chước hay sao
chép nguyên bản từ bất kỳ công ty nào khác. Tài nguyên
nhân lực cũng chính là nhân tố quan trọng để làm tăng giá
trị của công ty. Ưu thế về nguồn nhân lực chính là ưu thế
của doanh nghiệp. Có con người, các mặt khác của doanh
nghiệp như tiêu thụ, kỹ thuật, sáng tạo sản phẩm mới… sẽ
phát triển.
Có thể nói, nếu các doanh nghiệp niêm yết đầu tư
vào việc xây dựng một nguồn nhân lực vững mạnh của công
ty mình thì chắc chắn sẽ tạo ra ưu thế cạnh tranh hữu hiệu,
làm gia tăng giá trị doanh nghiệp.
38
Nhà đầu tư cần phải phân tích nguồn nhân lực và
chiến lươc đầu tư nguồn nhân lực của doanh nghiệp niêm
yết nhằm kỳ vọng vào sự tăng trưởng trong tương lai của
doanh nghiệp. Nhà đầu tư cần phân tích nguồn nhân lực của
các doanh nghiệp niêm yết ở các khía cạnh sau:
- Nhà quản trị và năng lực của nhà quản trị doanh
nghiệp
- Đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao, tích
cực, nhiệt tình đóng góp và sáng tạo
(3) Mối quan hệ của các doanh nghiệp niêm yết:
Trong giao dịch kinh doanh, thường tạo ra các mối
quan hệ giữa doanh nghiệp với cổ đông , khách hàng, đối
tác, và chính quyền địa phương. Một bản hợp đồng mới vừa
ký kết, một cái bắt tay của doanh nghiệp, một sự ủng hộ từ
phía chính quyền…. có thể làm thay đổi cách nhìn của nhà
đầu tư vào doanh nghiệp niêm yết đó, ảnh hường đến cung
cầu chứng khoán và làm tăng thị giá chứng khoán.
1.4 Môi trƣờng quốc tế
Bất cứ nền kinh tế của bất cứ quốc gia nào trên thế
giới cũng không thể tách rời nền kinh tế thế giới. Xu hướng
phân công lao động quốc tế, hợp tác quốc tế ngày càng phát
triển, làm cho quan hệ thị trường nội địa của các nước cũng
nhanh chóng thay đổi theo xu hướng phát triển của của thị
39
trường thế giới. Bởi vậy, điều kiện phát triển nói chung của
một quốc gia không thể thoát hẳn môi trường quốc tế.
Tính phụ thuộc lẫn nhau về nhiều mặt giữa các quốc
gia trong cộng đồng thế giới ngày càng rõ rệt. Vì vậy,
những sự thay đổi của môi trường đầu tư quốc tế chắc chắn
sẽ tác động làm thay đổi các điều kiện môi trường vĩ mô và
môi trường vi mô trong nước. Điều này cho thấy rằng muốn
dự báo môi trường đầu tư trong nước một cách chính xác,
các nhà quản trị còn phải xem xét trong một mức độ nhất
định những thay đổi của môi trường quốc tế có ảnh hưởng
đến môi trường đầu tư trong nước. Ví dụ, nền kinh tế Mỹ
chịu ảnh hưởng của yếu tố kinh tế toàn cầu như cán cân
thanh toán, sức mạnh tương đối của đồng đô la, hiện tượng
lạm phát trên toàn thế giới, hay sự kiện vùng vịnh đã làm
cho giá xăng dầu ở các nước tăng lên, vụ mất mùa cà phê ở
Brazil đã là cho giá cà phê ở Việt Nam tăng lên và làm cho
nhiều người sản xuất cà phê ở nước ta gặp thuận lợi...
Ngoài ra các nhà đầu tư không chỉ quan tâm sự tác
động của môi trường quốc tế đến các điều kiện của môi
trường vĩ mô trong nước mà còn phải tính đến cả những tác
động của nó đối với môi trường vi mô. Điều đó có nghĩa là
các yếu tố của môi trường vi mô như khách hàng, nhà cung
cấp, đối thủ cạnh tranh, các sản phẩm thay thế của những
doanh nghiệp niêm yết cần phải mở rộng ra trong phạm vi
quốc tế, không nên giới hạn ở những điều kiện trong nước.
40
Ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay khi Đảng và
Nhà nước ta chủ trương hội nhập với nền kinh tế thế giới,
mở rộng giao lưu và bình thường hoá quan hệ với các nước,
khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thì
chắc hẳn rằng những tác động ảnh hưởng của môi trường
kinh doanh quốc tế càng rõ rệt hơn bao giờ hết và nó càng
đòi hỏi nhà đầu tư trong nước phải dành một sự quan tâm
thỏa đáng cho môi trường quốc tế ngày càng sôi động này.
Tùy theo mức độ và tính chất quốc tế hoá, vấn đề
nghiên cứu môi trường quốc tế được đặt ra đối với từng
doanh nghiệp niệm yết khác nhau. Chúng ta nên xem xét
môi trường quốc tế trên các mặt sau:
- Tình hình tài chính quốc tế, tính hình tài chính
trong khu vực: Đang diễn biến ra sao? Có khả năng ảnh
hưởng đến quốc gia mình đang quan tâm hay không và ảnh
hưởng như thế nào?.
- Quan hệ ngoại giao của chính phủ: có được cộng
đồng quốc tế ủng hộ không?
- Sự ủng hộ của các tổ chức tài chính lớn như IMF,
WB, ADB… đối với chính phủ ra sao?
- Hợp tác kinh tế quốc tế thế nào? Quan hệ bạn hàng
quốc tế trong xuất, nhập khẩu ra sao? có biến đổi gì lớn
không?
41
- Những đối thủ cạnh tranh trên thương trường quốc
tế và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, quốc gia
mình quan tâm.
- Quan hệ nợ nần, giải quyết nợ, khả năng trả nợ của
quốc gia, doanh nghiệp. Khả năng quản lý nợ nước ngoài
của Chính phủ ra sao?
- Tình hình tham gia của bên nước ngoài vào thị
trường chứng khoán nội địa và ngược lại.
- Định mức tín nhiệm của quốc gia trên thị trường
quốc tế.
- Diễn biến của các thị trường chứng khoán trên thế
giới, nhất là các thị trường lớn như New York, Tokyo,
London, Hồng Kông, …
1.5 Môi trƣờng nội bộ
Môi trường nội bộ bao gồm các yếu tố và các điều
kiện bên trong, chủ quan của nhà đầu tư, nó thể hiện điểm
mạnh, điểm yếu của từng nhà đầu tư. Là một thành tố quan
trọng ảnh hưởng đến sự thành bại trong quyết định đầu tư.
Khi hoạch định kế hoạch đầu tư, nhà đầu tư không nên đề ra
những mục tiêu quá lớn vượt quá khả năng của mình, mà
phải xem xét nó trong hoàn cảnh nội bộ của mình, Cụ thể:
a. Kiến thức và kinh nghiệm về đầu tư
Mỗi một loại hình kinh doanh đều có đặc thù riêng và có
những thành phần tham gia khác nhau, nhưng đều có một
42
điểm chung là có nhà đầu tư và công việc bắt buộc trước khi
quyết định đầu tư là phải phân tích. Thị trường chứng khoán
cũng không ngoại lệ. Không phải bất cứ nhà đầu tư nào
cũng có khả năng tự mình phân tích. Trong xu thế người
người, nhà nhà đổ xô đi chơi chứng khoán. Dĩ nhiên mục
đích là để kiếm tiền và vì chứng khoán là hình thức siêu lợi
nhuận. Đó cũng là một trong những sai lầm lớn mà những
nhà đầu tư mới thường vấp phải. Một khi chưa trang bị đủ
cho mình hành trang kiến thức, sự hiểu biết nhất định thì
chắc chắn bạn sẽ rơi vào trạng thái không biết mình đang
làm gì. Kiến thức và kinh nghiệm đầu tư là thứ quan trọng
nhất. Sự may mắn chỉ hiện diện ở…sòng bạc mà thôi. Đối
với nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán thì đây đang là
vấn đề còn nóng hơn cả sức nóng của thị trường. Thị trường
chứng khoán là loại hình thị trường cao cấp nhất, nó không
phải là trò đỏ đen mà không ít người vẫn nhận định. Nó chỉ
thực sự là trò đỏ đen với những người mạo hiểm trong khi
chẳng có chút kiến thức nào.
b. Khả năng tài chính
Trước khi đầu tư, nhà đầu tư cần phải xác định rõ sẽ huy
động vốn ở đâu. Đây là nhân tố quan trọng nhất trong kế
hoạch đầu tư của nhà đầu tư, là một yếu tố được nhà đầu tư
quan tâm hàng đầu. Kế hoạch đầu tư có thực hiện được hay
không phụ thuộc vào năng lực tài chính của nhà đầu tư.
Nguồn tài chính hiện có có đủ để đáp ứng với nhu cầu đầu
tư hay không?. Ngoài nguồn lực sẳn có nhà đầu tư có khả
43
năng để huy động các nguồn lực từ bên ngoài hay không?.
Khả năng sử dụng và phân bổ các nguồn lực hiện có như thế
nào? ….Đó là hoàn cảnh nội bộ của từng nhà đầu tư góp
phần không nhỏ đến sự thành bại của nhà đầu tư.
1.6 Cơ sở hạ tầng của thị trƣờng chứng khoán
Thực ra chúng ta có thể xem cơ sở hạ tầng của thị
trường chứng khoán như là một bộ phận của môi trường tài
chính, nhưng do tầm quan trọng của thị trường chứng khoán
là môi trường đầu tư mà chúng ta nhắm đến nên, nên chúng
ta tách ra thành một phần riêng biệt. Chúng ta xem xét cơ sở
hạ tầng của thị trường chứng khoán trong quá trình đầu tư
theo các góc độ sau:
- Khung pháp lý của thị trường, các chính sách phát
triển và khả năng phát triển của nó.
- Hiểu biết và điều hành hệ thống tài chính, khả năng
quản lý của chính phủ
- Khối lượng hàng hoá của thị trường.
- Tính thanh khoản của thị trường
- Cơ sở vật chất của thị trường: địa điểm, mức tin
học hóa, cơ sở thông tin, phương pháp giao dịch, quy
trình giao dịch…..
- Cơ sở nguồn nhân lực của thị trường chứng khoán:
nhân lực quản lý, nhân lực tư vấn, nhân lực môi giới,
nhận lực giám sát và nhân lực đầu tư.
44
- Các chi phí trong quá trình giao dịch.
- Khả năng thanh toán, thời gian thanh toán.
- Hệ thống thanh toán bù trừ
- Hệ thống lưu ký chứng khoán
- Hệ thống kiểm toán.
- Hệ thống đánh giá và xác định mức tín nhiệm.
- Tính minh bạch thông tin…..
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƢƠNG 1
1. Hãy cho biết sự cần thiết của việc nghiên cứu môi
trường trong đầu tư chứng khoán?
2. Theo bạn môi trường đầu tư chứng khoán hiện nay và
sắp tới có những chuyển biến gì đáng lưu ý?
3. Chính sách thuế thu nhập cá nhân của chình phủ sẽ ảnh
hưởng đến đầu tư chứng khoán như thế nào? Bạn hãy
phân tích.
4. Tại sao nói môi trường nội bộ lại ảnh hưởng trực tiếp
đầu nhà đầu tư chứng khoán?
5. Phân tích sự ảnh hưởng của môi trường quốc tế đến đầu
tư chứng khoán ở Việt Nam?
45
CHƢƠNG 2: RỦI RO VÀ MỨC SINH LỜI
TRONG ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN
Trước khi đầu tư chứng khoán, người đầu tư phải thẩm
định khả năng tài chính của mình và xác định mục tiêu đầu
tư chứng khoán. Tùy theo hoàn cảnh và khả năng tài chính
mà các nhà đầu tư tự chọn cho mình mục tiêu thích hợp: an
toàn vốn, tăng thu nhập, gia tăng vốn…Tối đa hóa lợi nhuận
luôn là mục tiêu hàng đầu của các nhà đầu tư, nhưng mục
tiêu đầu tư có đạt được như ý muốn hay không còn phụ
thuộc vào các rủi ro trong quá trình đầu tư. Rủi ro và tỷ suất
sinh lời luôn gắn liền với nhau và có mối quan hệ cùng
chiều, khi ra quyết định đầu tư có rủi ro cao thì tỷ suất sinh
lời yêu cầu phải cao. Tỷ suất sinh lời và rủi ro luôn có sự
đánh đổi lẫn nhau, khi ra quyết định đầu tư có rủi ro cao thì
lợi nhuận yêu cầu phải cao. Do vậy, việc nghiên cứu rủi ro
và mức sinh lời cũng như mối quan hệ giữa chúng là hết sức
cần thiết trước khi ra quyết định đầu tư.
2.1 Mức sinh lời trong đầu tƣ chứng khoán
2.1.1 Mức sinh lời tính bằng số tuyệt đối.
Ở các nước phát triển, có rất nhiều người đầu tư vào
chứng khoán. Có những nước có tới hơn 50% số dân trưởng
thành đầu tư vào chứng khoán. Đầu tư chứng khoán được
coi là một ngành kinh doanh đơn giản nhất với thủ tục đơn
giản nhất nhưng cũng phức tạp nhất (do có nhiều rủi ro).
46
Trên thị trường chứng khoán có các nhà đầu tư và các
nhà đầu cơ. Nhà đầu tư chứng khoán thường mua cổ phiếu
của các Công ty có triển vọng phát triển vào những thời
điểm có lợi, trên cơ sở phân tích của từng người rồi nắm
giữ chúng lâu dài, để hưởng cổ tức và hưởng lợi do giá cổ
phiếu lên cao khi Công ty ăn nên làm ra trong tương lai.
Trong khi đó, người đầu cơ chứng khoán tìm cách mua
những loại cổ phiếu mà họ nghĩ là sẽ sớm lên giá để rồi khi
thấy chênh lệch giá đủ lớn là lập tức bán đi để kiếm lời.
Ngoài ra, Thị trường chứng khoán cũng có những người
vừa đầu tư lại vừa đầu cơ cổ phiếu.
Đầu tư chứng khoán là việc với một khoản tiền đầu tư
ban đầu, nhà đầu tư sử dụng để mua chứng khoán nhằm
mục tiêu cuối cùng là để kiếm lời. Số tiền lời kiếm được
trong đầu tư chứng khoán là một con số tuyệt đối có được
từ hai nguồn:
- Cổ tức hoặc trái tức
- Chênh lệch giá
a. Cổ tức hoặc trái tức
Cổ tức (Dividends) được hiểu là phần lợi nhuận sau
thuế của công ty dành để chi trả cho các cổ đông (chủ
sở hữu công ty). Cổ tức là phần thu nhập mà mỗi cổ
đông thực nhận.
47
Cổ tức trả cho cổ phần phổ thông được xác định căn cứ
vào số lợi nhuận ròng đã thực hiện và khoản chi trả cổ
tức được trích từ nguồn lợi nhuận giữ lại của công ty.
Công ty cổ phần chỉ được trả cổ tức cho cổ đông khi
công ty đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài
chính khác theo quy định của pháp luật; trích lập các
quỹ công ty và bù đắp đủ lỗ trước đó theo quy định của
pháp luật và Điều lệ công ty; ngay sau khi trả hết số cổ
tức đã định, công ty vẫn phải bảo đảm thanh toán đủ các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến hạn.( Điều 93,
Luật Doanh Nghiệp Việt Nam, 2005)
Cổ tức có thể được chi trả bằng tiền mặt, bằng cổ
phần của công ty, bằng tài sản khác hoặc bằng việc mua
lại cổ phiếu quỹ. Nếu chi trả bằng tiền mặt thì phải được
thực hiện bằng đồng Việt Nam và có thể được thanh
toán bằng séc hoặc lệnh trả tiền gửi bằng bưu điện đến
địa chỉ thường trú của cổ đông. Cổ tức có thể được
thanh toán bằng chuyển khoản qua ngân hàng khi công
ty đã có đủ chi tiết về ngân hàng của cổ đông để có thể
chuyển trực tiếp được vào tài khoản ngân hàng của cổ
đông. Nếu công ty đã chuyển khoản theo đúng các
thông tin chi tiết về ngân hàng như thông báo của cổ
đông thì công ty không chịu trách nhiệm về các thiệt hại
phát sinh từ việc chuyển khoản đó.
Cổ tức trả cho cổ phần phổ thông được xác định theo
công thức sau:
48
D = EPS * tỷ lệ chi trả cổ tức
Với: D: Cổ tức trả cho cổ phần phổ thông
EPS: Thu nhập trên mỗi cổ phần phổ thông
EBIT: Thu nhập trước thuế và lãi vay
I: lãi vay
T: Thuế suất thuế TNDN
Rp: lợi tức cổ phần ưu đãi
Trái tức (tiền lãi trái phiếu) là tiền lãi công bố đối
với các loại trái phiếu khi nó được phát hành, là số tiền
mà nhà đầu tư trái phiếu nhận được khi đầu tư vào trái
phiếu. Thông thường trái tức được thanh toán theo định
kỳ 6 tháng, hoặc mỗi năm một lần. Khi mua trái phiếu,
nhà đầu tư trở thành chủ nợ của tổ chức phát hành – còn
gọi là bên vay (có thể là chính phủ, chính quyền địa
phương hoặc các công ty). Khi phát hành trái phiếu, dù
làm ăn thua lỗ chủ thể phát hành vẫn phải trả lãi theo lãi
suất (interest rate) đã xác định từ đầu, còn khi phát hành
cổ phần, việc chia lãi tùy theo thực tế kinh doanh của
doanh nghiệp.
(EBIT- I)(1-T) – Rp – Trích các quỹ và bù đắp đủ lỗ
trước đó
EPS = ------------------------------------------------------------------
Số lượng cổ phần phổ thông lưu hành
49
Trái tức đƣợc tính nhƣ sau:
Trái tức = Lãi suất trái phiếu * Mệnh giá trái phiếu
b. Chênh lệch giá: chênh lệch giữa giá mua và giá bán
chứng khoán. Khi nhà đầu tư bán chứng khoán, mức
chênh lệch giữa giá mua và giá bán gọi là chênh lệch
giá, lợi vốn hoặc lỗ vốn.
Vậy tổng mức sinh lời đối với khoản đầu tư vào chứng
khoán của nhà đầu tư chứng khoán được tính theo công
thức:
2.1.2 Mức sinh lời tính bằng số tƣơng đối
2.1.2.1 Mức sinh lời trong một năm
Mức sinh lời tính bằng số tương đối hay còn gọi là tỷ
suất sinh lời, là tỷ lệ phần trăm giữa tổng mức sinh lời thu
được trong năm so với giá mua (chi phí đầu tư)
Công thức tính như sau:
Đối với cổ phiếu:
Tổng mức sinh lời = cổ tức (trái tức) + chênh lệch giá
r = Pt – P0 + Dt
P0
50
Trong đó: r : mức sinh lời (tỷ suất sinh lời) trong thời
gian t
Pt: giá trị đầu tư ở thời điểm t
P0: giá trị đầu tư ở thời điểm 0
Dt: lượng cổ tức nhận được
Đối với trái phiếu:
Trong đó: Ct: lượng trái tức nhận được
Ví dụ: Có thông tin của một cổ phiếu như sau: giá mua
cổ phiếu là 100.000 đồng, trong năm công ty trả cổ tức cho
mỗi cổ phiếu là 5.000 đồng, cuối năm giá trị thị trường của
cổ phiếu là 110.000 đồng.
Mức sinh lời (Tỷ suất sinh lời) của cổ phiếu là:
r = [(110.000 – 100.000) + 5.000]/100.000 = 15%
2.1.2.2 Mức sinh lời trong nhiều năm
Giả sử Bạn đầu tư vào một loại cổ phiếu n năm, toàn bộ
cổ tức lại được tái đầu tư và cũng thu được tỷ suất sinh lời
bằng với tỷ suất sinh lời của vốn gốc. Mức sinh lời trong n
năm được tính như sau:
r = Pt – P0 + Ct
P0
51
Trong đó:
Rt : Mức sinh lời (tỷ suất sinh lời) trong n năm
r1, r2,…. rt : mức sinh lời từng năm từ năm 1 đến năm t
t = 1, 2,3,4,5….n
Ví dụ: Giả sử mức sinh lời trong khoảng thời gian 3 năm
lần lượt là: 11%, -5%, và 9%. Thì tổng mức sinh lời trong
3 năm là:
R3 = (1+0.11)*(1-0.05)*(1+0.09) – 1 =15%
2.1.2.3 Mức sinh lời lũy kế theo từng năm:
r = t
(1+r1)*(1+r2)…*(1+rt) - 1
Trong đó:
r : Mức sinh lời hàng năm
Ví dụ: Giả sử mức sinh lời trong khoảng thời gian 3 năm
lần lượt là: 11%, -5%, và 9%. Thì tổng mức sinh lời hàng
năm là:
r = 3
(1+0.11)*(1-0.05)*(1+0.09) - 1 = 4,8%
Rt = (1+r1)*(1+r2)*…*(1+rt) - 1
52
2.1.2.4 Mức sinh lời bình quân
Trong đó:
rbq : mức sinh lời bình quân năm
r1, r2,…. rt : mức sinh lời từng năm từ năm 1
đến năm t
2.2 Rủi ro trong đầu tƣ chứng khoán
2.2.1. Khái niệm rủi ro
Có nhiều khái niệm về rủi ro, khái niệm phổ biến nhất
xem rủi ro là khả năng xuất hiện các khoản thiệt hại tài
chính. Những chứng khoán nào có khả năng xuất hiện các
khoản lỗ lớn được xem như là có rủi ro lớn hơn những
chứng khoán có khả năng xuất hiện các khoản lỗ thấp hơn.
Rủi ro có thể đưa doanh nghiệp, nhà đầu tư vào con đường
phá sản.
Nói cách khác, rủi ro thể hiện tính không chắc chắn hay
tính nhạy cảm về những kết quả đạt được trong tương lai
của nhà đầu tư.Trong kinh tế thị trường, dường như không
có hoạt động đầu tư kinh doanh nào lại không có nguy cơ
rbq = (r1 + r2 +…+ rt)
t
53
gặp rủi ro. Lợi nhuận càng cao, rủi ro càng lớn, nhưng điều
ngược lại thì chưa hẳn đã đúng: lợi nhuận có thể thấp, song
rủi ro chưa chắc đã nhỏ đi… Đầu tư chứng khoán cũng
không nằm ngoài quy luật này, thậm chí, ở mức sâu đậm và
đa diện hơn.
Từ đó có thể đưa ra khái niệm rủi ro trong đầu tư chứng
khoán như sau:
Rủi ro là sự sai biệt giữa mức sinh lời thực tế với mức
sinh lời mong muốn. Rủi ro được xem là sự dao động của
mức sinh lời. Sự dao động càng lớn thì rủi ro càng cao và
ngược lại.
2.2.2. Phân loại rủi ro trong đầu tƣ chứng khoán
2.2.2.1 Rủi ro hệ thống
Trong đầu tư chứng khoán, những rủi ro do các yếu tố
nằm ngoài doanh nghiệp phát hành, không kiểm soát được
và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường và tất cả mọi
loại chứng khoán được gọi là rủi ro hệ thống hay là rủi ro
không phân tán được. Rủi ro hệ thống là những rủi ro từ bên
ngoài của một ngành công nghiệp hay của một doanh
nghiệp, chẳng hạn như chiến tranh, lạm phát, sự kiện kinh tế
và chính trị... Sự bấp bênh của môi trường kinh tế nói chung
như sự sụt giảm GDP, biến động lãi suất, tốc độ lạm phát
thay đổi... là những minh chứng cho rủi ro hệ thống, những
biến đổi này tác động đến sự dao động giá cả của các CK
trên thị trường.
54
Những chứng khoán chịu ảnh hưởng cao của rủi ro hệ
thống là những chứng khoán thường theo sát các diễn biến
kinh tế và những diễn biến trên thị trường chứng khoán.
Phần lớn các công ty trong những ngành công nghiệp cơ
bản và khai khoáng, những ngành có định phí lớn hay
những ngành liên quan đến sản xuất ô tô chịu ảnh hưởng rất
cao của rủi ro hệ thống, ví dụ ngành thép, cao su, kính,...
Loại rủi ro này có nguồn gốc từ sự thay đổi các nhân tố
vĩ mô làm ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường và tất cả mọi
loại chứng khoán. Đa dạng hóa đầu tư cũng không thể loại
bỏ loại rủi ro này.
Rủi ro hệ thống được chia làm 3 loại rủi ro chính:
a) Rủi ro thị trường
Trong rủi ro hệ thống trước hết phải kể đến rủi ro thị
trường. Rủi ro thị trường xuất hiện do phản ứng của các nhà
đầu tư đối với các hiện tượng trên thị trường. Các hiện
tượng này có thể là những sự kiện vô hình và hữu hình. Sự
kiện hữu hình là sự kiện thực xảy ra như các sự kiện kinh tế,
chính trị xã hội. Khi các sự kiện này xảy ra, các nhà đầu tư
sẽ phản ứng lại các sự kiện đó bằng cách tháo chạy khỏi các
khoản đầu tư và cuối cùng là lợi nhuận giảm. Còn sự kiện
vô hình là các sự kiện phát sinh do yếu tố tâm lý của thị
trường. Do tâm lý của các nhà đầu tư không vững vàng, nên
khi có các sự kiện hữu hình phát sinh, các nhà đầu tư lại có
những phản ứng vượt quá các sự kiện đó . Những sự sút
giảm đầu tiên trên thị trường là nguyên nhân gây sợ hãi đối
55
với các nhà đầu tư và họ sẽ cố gắng rút vốn. Phản ứng dây
chuyền này làm tăng số lượng bán, giá cả chứng khoán sẽ
rơi xuống thấp so với giá trị cơ sở.
b) Rủi ro lãi suất:
Giá cả chứng khoán thay đổi do lãi suất thị trường dao
động thất thường gọi là rủi ro lãi suất. Giữa lãi suất thị
trường và giá cả chứng khoán có mối quan hệ tỷ lệ nghịch.
Khi lãi suất thị trường tăng, người đầu tư có xu hướng bán
chứng khoán để lấy tiền gửi vào ngân hàng dẫn đến giá
chứng khoán giảm và ngược lại. Lãi suất còn ảnh hưởng
gián tiếp đến giá cổ phiếu. Khi lãi suất tăng làm giá cổ
phiếu giảm vì các nhà đầu cơ vay mua ký quỹ sẽ bị ảnh
hưởng. Nhiều công ty kinh doanh chứng khoán, nhà đầu tư
hoạt động chủ yếu bằng vốn đi vay thì với mức lãi suất tăng
cũng làm cho chi phí huy động vốn tăng.
Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn định trong giá trị thị
trường và số tiền thu nhập trong tương lai, nguyên nhân là
dao động trong mức lãi suất chung. Nguyên nhân cốt lõi của
rủi ro lãi suất là sự lên xuống của lãi suất Trái phiếu Chính
phủ, khi đó sẽ có sự thay đổi trong mức sinh lời kỳ vọng
của các loại chứng khoán khác, đó là các loại cổ phiếu và
trái phiếu công ty. Nói cách khác, chi phí vay vốn đối với
các loại chứng khoán không rủi ro thay đổi sẽ dẫn đến sự
thay đổi về chi phí vay vốn của các loại chứng khoán có rủi
ro.
56
c) Rủi ro sức mua:
Một yếu tố rủi ro hệ thống khác không kém phần quan
trọng là rủi ro sức mua. Rủi ro sức mua là tác động của lạm
phát tới các khoản đầu tư. Mức sinh lời thực tế của chứng
khoán đem lại là kết quả giữa mức sinh lời danh nghĩa sau
khi khấu trừ đi lạm phát. Như vậy, khi có tình trạng lạm
phát thì mức sinh lời thực thế giảm. Do đó, rủi ro sức mua
còn gọi là rủi ro về lạm phát, nó có những ảnh hưởng không
thuận lợi đến họat động sản xuất kinh của doanh nghiệp,
đến chứng khoán. Lạm phát làm cho giá cả các nguyên vật
liệu đầu vào tăng cao, chi phí doanh nghiệp tăng, doanh thu
giảm và cuối cùng lợi nhuận cũng giảm.
2.2.2.2 Rủi ro không hệ thống
Rủi ro phân tán được, tức rủi ro phi hệ thống là một
phần rủi ro đầu tư mà nhà đầu tư có thể loại bỏ được nếu
nắm giữ một số loại chứng khoán đủ lớn. Loại rủi ro này là
kết quả của những biến cố ngẫu nhiên hoặc không kiểm soát
được chỉ ảnh hưởng đến một công ty hoặc một ngành công
nghiệp nào đó. Các yếu tố này có thể là những biến động về
lực lượng lao động, năng lực quản trị, kiện tụng hay chính
sách điều tiết của chính phủ. Vì hầu hết các nhà đầu tư có
hiểu biết tối thiểu đều có thể loại bỏ rủi ro có thể phân tán
được bằng cách nắm giữ một danh mục đầu tư đủ lớn từ vài
chục đến vài trăm.
57
Rủi ro không hệ thống là rủi ro mà chỉ liên quan đến một
nhóm cổ phiếu nào đó. Ví dụ như: kiện tôm, cá ba sa của
Mỹ; phát hiện dư lượng chất kháng sinh hàng thủy sản xuất
khẩu sang Nhật của thủy sản Việt Nam thì rủi ro này chỉ
ảnh hưởng đến các doanh nghiệp trong ngành thủy sản,
động đất, bão lụt thường ảnh hưởng không tốt đến ngành
bảo hiểm nhưng lại tốt cho ngành sản xuất hàng tiêu dùng
Rủi ro không hệ thống là những yếu tố tác động gắn
liền với từng công ty riêng biệt như rủi ro kinh doanh hay
rủi ro tài chính của công ty đó, mà không ảnh hưởng đến
các công ty khác (trừ các công ty lớn). Để giảm thiểu rủi ro
loại này, nhà đầu tư thường đa dạng hoá danh mục của
mình. Do vậy rủi ro phi hệ thống còn được gọi là Rủi ro có
thể đa dạng hoá (diversifiable risks).
Rủi ro phi hệ thống được chia làm hai loại chính là rủi ro
kinh doanh và rủi ro tài chính.
a) Rủi ro kinh doanh
Rủi ro kinh doanh là những rủi ro xuất phát từ môi
trường họat động kinh doanh của doanh nghiệp. Những thay
đổi trong tình trạng hoạt động của doanh nghiệp có thể làm
cho lợi nhuận của doanh nghiệp và cổ tức của nhà đầu tư sụt
giảm. Nói cách khác, nếu lợi nhuận dự kiến tăng 10% hàng
năm trong những năm tiếp theo, rủi ro kinh doanh sẽ cao
hơn nếu như lợi nhuận tăng tới 14% hay giảm xuống 6% so
với lợi nhuận nằm trong khoảng 9-11%.
58
Rủi ro kinh doanh được cấu thành bởi yếu tố bên ngoài
và yếu tố nội tại trong công ty, nên rủi ro kinh doanh cũng
được chia thành 2 loại:
Rủi ro kinh doanh nội tại Rủi ro kinh doanh nội tại phát
sinh trong quá trình vận hành hoạt động của công ty. Mỗi
công ty có một loại rủi ro nội tại riêng và mức độ thành
công của mỗi công ty thể hiện qua hiệu quả hoạt động, như:
+ Năng lực và quyết định quản trị
+ Trình độ lao động
+ Đình công
+ Nguồn cung ứng nguyên liệu,…
Rủi ro kinh doanh bên ngoài là rủi ro xảy ra nằm ngoài
sự kiểm soát của công ty và làm ảnh hưởng đến tình trạng
hoạt động của công ty. Rủi ro bên ngoài phụ thuộc vào các
yếu tố môi trường kinh doanh cụ thể của mỗi công ty. Các
yếu tố bên ngoài có thể là:
+ Những quy định của chính phủ về kiểm soát môi
trường
+ Những tác động cạnh tranh của nước ngoài,…
+chi phí tiền vay đến sự cắt giảm ngân sách
+ mức thuế nhập khẩu tăng
+ sự suy thoái của chu kỳ kinh doanh. ..
+ Các chính sách chính trị cũng là một phần của rủi
ro bên ngoài, các chính sách tiền tệ và tài khoá có thể
làm ảnh hưởng đến thu nhập thông qua tác động về chi
phí và nguồn vốn.
59
Rủi ro kinh doanh tiềm ẩn trong bản thân mỗi doanh
nghiệp. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có
rủi ro như nhau, mức độ thành công của doanh nghiệp tùy
thuộc vào năng lực của mỗi doanh nghiệp đối phó với rủi ro
đó như thế nào.
b) Rủi ro tài chính
Rủi ro về tài chính là những rủi ro liên quan đến
việc doanh nghiệp tài trợ cho các họat động trong doanh
nghiệp. Người ta thường tính toán rủi ro tài chính bằng việc
xem xét cấu trúc vốn của một công ty. Sự gia tăng các
khỏan nợ trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp làm cho
doanh nghiệp bị áp lực về các khoản lãi vay, nghĩa vụ thanh
toán các khỏan nợ và nghĩa vụ thanh toán các khoản lãi vay.
Nếu doanh nghiệp mất khả năng thanh toán có thể đứng trên
bờ vực phá sản. Trong điều kiện nền kinh tế hội nhập, các
doanh nghiệp trong và ngoài nước đều có cơ hội cạnh tranh
bình đẳng như nhau. Doanh nghiệp nào có nền tảng phát
triển vững chắc, có chiến lược kinh doanh hiệu quả thì có
thề tồn tại được trên thương trường, ngược lại có thể bị thâu
tóm, phá sản…. trong điều kiện như thế , rủi ro làm cho các
khách hàng không có khả năng thanh toán, doanh nghiệp
không thể thu hồi các khỏan nợ, doanh nghiệp có thể rơi
vào tình trạng mất khả năng thanh toán, dẫn đến nguy cơ vỡ
nợ, phá sản
60
Rủi ro tài chính là rủi ro có thể tránh được trong phạm vi
mà các nhà quản lý có toàn quyền quyết định vay hay
không vay. Một công ty không vay nợ chút nào sẽ không có
rủi ro tài chính.
Tổng rủi ro = Rủi ro hệ thống + Rủi ro phi hệ thống
2.2.2 3. Xác định mức bù rủi ro
Một trong những phương pháp định lượng rủi ro và
xác định mức sinh lời kỳ vọng là sử dụng mức lãi suất
không rủi ro cộng với mức bù của từng loại rủi ro một.
Công thức được xác định như sau:
r = i + p + b + f + m + o
Trong đó:
r: mức sinh lời kỳ vọng
i: mức lãi suất không rủi ro
p: mức bù rủi ro sức mua
b: mức bù rủi ro kinh doanh
f: mức bù rủi ro tài chính
m: mức bù rủi ro thị trường
o : mức bù rủi ro khác
Đầu tiên, chúng ta xác định mức lãi suất không rủi ro
(thông thường lãi suất tín phiếu Kho bạc được coi là lãi suất
không rủi ro), sau đó xác định mức bù rủi ro cho mỗi loại
61
rủi ro. Tổng số rủi ro liên quan đến chứng khoán bao gồm
rủi ro hệ thống và rủi ro không hệ thống. Trong đó, rủi ro
không hệ thống có thể được loại trừ thông qua việc đa dạng
hoá đầu tư, còn rủi ro hệ thống thì không thể loại trừ bằng
cách đa dạng hoá.
2.3 Đánh giá rủi ro và mức sinh lời kỳ vọng
2.3.1 Mức sinh lời kỳ vọng
Mức sinh lời kỳ vọng là giá trị tỷ suất sinh lợi mà khả
năng đạt được nhiều nhất. Khi rủi ro xuất hiện sẽ làm thay
đổi tỷ suất sinh lời. Việc xác định Mức sinh lời kỳ vọng (tỷ
suất sinh lời mong đợi) là cần thiết nhằm đo lường khoảng
cách giữa mong đợi và thực tế, giá trị nhà đầu tư nhận được
càng lệch xa so với giá trị mong đợi thì rủi ro càng lớn.
* Theo phân phối xác suất, tỷ suất sinh lời kỳ vọng
được tính theo công thức:
ii prr
Trong đó:
r i: mức sinh lời ở tình trạng kinh tế i
pi: xác suất xảy ra tình trạng kinh tế i
Ví dụ : có thông tin về mức sinh lời của 2 cổ phiếu A, B
tương ứng với từng trình trạng kinh tế như sau:
62
Tình trạng
kinh tế Xác suất
Mức sinh lời
A B
Xấu 0,25 16% 28%
Bình thường 0,5 20% 20%
Tốt 0,25 24% 12%
Mức sinh lời mong đợi của 2 cổ phiếu A, B là:
rA = 0,25*16% + 0,5*20% + 0,25*24% = 20%
rB = 0,25*28% + 0,5*20% + 0,25*12% = 20%
Theo phân phối thực nghiệm, Mức sinh lời
kỳ vọng được tính theo công thức:
n
rr
i
Trong đó:
ri : mức sinh lời năm thứ i
n : số năm
Ví dụ : có thông tin về mức sinh lời của 2 cổ phiếu C,
D qua các năm nhƣ sau:
63
Năm Mức sinh lời cổ
phiếu C
Mức sinh lời cổ
phiếu D
2004 5% 20%
2005 10% 10%
2006 15% 8%
2007 20% 6%
Mức sinh lời kỳ vọng của 2 cổ phiếu C, D là:
rC = (5% + 10% + 15% + 20%)/ 4 = 12,5%
rD = (20% + 10% + 8% + 6%)/ 4 = 11%
2.3.2 Đo lƣờng rủi ro
Rủi ro mang đến sự bất ổn về những kết quả mà nhà đầu
tư mong đợi trong tương lai. Biên độ dao động của kết quả
đạt được càng lớn thì rủi ro càng cao. Hai phương pháp đo
lường rủi ro phổ biến là phân tích độ nhạy, phương pháp độ
lệch chuẩn và hệ số biến động .
2.3.2.1 Phân tích độ nhạy
Phân tích độ nhạy là phương pháp đánh giá rủi ro bằng
cách dự đoán mức sinh lời trong trường hợp xấu nhất;
trường hợp mong đợi (có khả năng xảy ra nhất) và trường
hợp tốt nhất cho một chứng khoán.
Trong trường hợp này rủi ro của một chứng khoán có
thể được đo bởi “khoảng cách” giữa mức sinh lời tốt nhất
64
và mức sinh lời trong những trường hợp xấu nhất. Khoảng
cách càng lớn, rủi ro càng cao.
Ví dụ 4: có thông tin về mức sinh lời mong đợi của 2
chứng khoán A, B trong từng trường hợp như sau:
Chứng khoán
A
Chứng
khoán B
Đầu tư ban đầu 10.000 10.000
Mức sinh lời
Xấu nhất 13% 7%
Bình thường 15% 15%
Tốt nhất 17% 23%
Khoảng cách 4% 16%
Dựa vào khoảng cách cho thấy chứng khoán A ít rủi ro hơn
chứng khoán B. Chứng khoán A được ưu tiên lựa chọn hơn
so với chứng khoán B vì cả hai chứng khoán đều có mức
sinh lời mong đợi có khả năng xảy ra cao nhất là 15%
nhưng chứng khoán A có rủi ro thấp hơn (khoảng cách nhỏ
hơn).
Tuy nhiên, phương pháp phân tích độ nhạy có hạn chế là
chưa cho phép nhà đầu tư xác định mức độ dao động để làm
cơ sở cho sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro.
65
n
i =1
2.3.2.2. Phƣơng pháp độ lệch chuẩn
a. Khái niệm độ lệch chuẩn
Đo lường rủi ro trong mức sinh lời của một dự án đầu tư
là tính toán mức dao động trong mức sinh lời bằng cách sử
dụng thước đo phương sai và độ lệch chuẩn.
Độ lệch tiêu chuẩn của mộ dự án đầu tư là thước đo độ
phân tán về mức sinh lời ở từng tình trạng kinh tế hoặc từng
năm so với mức sinh lời mong đợi.
Độ lệch chuẩn là căn bậc hai của phương sai.
b. Phương pháp xác định độ lệch tiêu chuẩn.
* Theo phân phối xác suất
Phương sai của mức sinh lời là tổng bình phương
khoảng cách chênh lệch giữa mức sinh lời thực tế và mức
sinh lời mong đợi ở từng tình trạng kinh tế.
Phƣơng sai:
ii prr22
Tìm độ lệch tiêu chuẩn ( ) bằng căn bậc hai của phương
sai (2)
66
Độ lệch tiêu chuẩn:
i
n
i
i prr 2
1
)(
Ví dụ : trở lại ví dụ về 2 cổ phiếu A, B
Tình trạng
kinh tế Xác suất
Mức sinh lời
A B
Xấu 0,25 16% 28%
Bình thường 0,5 20% 20%
Tốt 0,25 24% 12%
Ta tính được mức sinh lời mong đợi của cả 2 cổ phiếu A, B
là 20%.
Độ lệch chuẩn của A, B:
Độ lệch tiêu chuẩn i
n
i
i prr 2
1
)(
Vậy:
A= 222 20)-0,25(24% 20%)-0,5(20% 20%)-0,25(16%
= 2,83%
B= 222 20)-0,25(12% 20%)-0,5(20% 20%)-0,25(28%
= 5,66%
67
B > A , do vậy, đầu tư vào cổ phiếu B rủi ro hơn đầu
tư vào cổ phiếu A.
* Theo phân phối thực nghiệm:
Nếu chúng ta biết được mức sinh lời qua các năm thì độ
lệch chuẩn được tính đơn giản hơn. Trường hợp này, độ
lệch chuẩn bằng căn bậc hai của phương sai – bằng căn bậc
hai của tổng bình phương các khoảng lệch giữa mức sinh
lời qua các năm và mức sinh lời kỳ vọng chia cho n – 1.
Độ lệch tiêu chuẩn =
Ví dụ : trở lại ví dụ về 2 cổ phiếu C, D
Năm Mức sinh lời cổ
phiếu C
Mức sinh lời cổ
phiếu D
2004 5% 20%
2005 10% 10%
2006 15% 8%
2007 20% 6%
Kết quả từ ví dụ 3 cho ta mức sinh lời ký vọng của 2 cổ
phiếu C và D như sau:
rC= 12,5%
rD = 11%
( ri - r )2
n - 1
68
Vậy, áp dụng công thức ta tính được độ lệch chuẩn của
C và D là:
C =
= 6,45%
D =
= 6,22%
2.3.2.3. Phƣơng pháp đo lƣờng rủi ro bằng hệ số biến
động
Trong trường hợp hai dự án đầu tư có mức sinh lời
mong đợi khác nhau thì không thể dựa vào độ lệch chuẩn để
kết luận dự án nào rủi ro hơn mà phải sử dụng hệ số biến
động. Hệ số biến động (CV) là thước đo rủi ro trên mỗi mức
sinh lời mong đợi. Hệ số biến động được tính bằng cách lấy
độ lệch tiêu chuẩn chia cho mức sinh lời mong đợi của dự
án đầu tư.
CV =
Ví dụ : trở lại trường hợp 2 cổ phiếu C và D. Nếu nhìn
vào độ lệch chuẩn C > D và ta chọn đầu tư cổ phiếu D là
(5%-12,5%)2 + (10%-12,5%)
2 + (15%-12,5%)
2 + (20%-12,5%)
2
4-1
(20%-11%)
2 + (10%-11%)
2 + (8%-11%)
2 + (6%-11%)
2
4-1
r
69
không chính xác vì cổ phiếu C có tỷ suất sinh lợi mong đợi
cao hơn cổ phiếu D.
Hợp lý hơn ta tính hệ số biến động của mỗi cổ phiếu:
CVC = C / rC = 6,45/12,5 = 0,516
• CVD = D / rD = 6,22/11 = 0,565
CVD > CVC: như vậy, mặc dù cổ phiếu C có độ lệch
chuẩn rộng hơn nhưng thực sự cổ phiếu D mang nhiều tính
rủi ro hơn.
Tóm lại:
- Khi so sánh hai phương án có cùng mức sinh lời kỳ
vọng, phương án nào có độ lệch tiêu chuẩn lớn hơn, phương
án đó mang tính rủi ro cao hơn
- Khi so sánh hai phương án có mức sinh lời kỳ vọng
khác nhau, tính hệ số biến động. Phương án nào có hệ số
biến động cao hơn, phương án đó mang tính rủi ro cao hơn
2.4 Phân tích và quản lý rủi ro
Việc quan trọng nhất trong phân tích và quản lý rủi ro là
phải xây dựng được quy trình quản lý rủi ro. Thông thường,
quản lý rủi ro được chia thành 5 bước:
Bước 1: Nhận dạng rủi ro
70
Đây là bước đầu tiên nhằm tìm hiểu cặn kẽ về bản chất
của rủi ro. Cách đơn giản và trực tiếp nhất là liệt kê từng
nhân tố và các biến cố có thể gây ra rủi ro.
Cách làm rõ bản chất của rủi ro là:
- Thứ nhất: Nhận dạng những tác nhân kinh tế có thể
gây ra rủi ro, ví dụ yếu tố lãi suất, lạm phát, tỷ giá hối đoái,
tăng trưởng kinh tế...
- Thứ hai: Tìm hiểu xem chiều hướng có thể gây ra rủi
ro, ví dụ việc Ngân hàng Trung ương tăng lãi suất tác động
đến giá cả chứng khoán như thế nào
- Thứ ba: Kiểm tra lại xem biểu hiện rủi ro đang phân
tích có phụ thuộc vào biến cố nào khác hay không, chẳng
hạn công ty có biểu hiện rủi ro trong trường hợp không
được tín nhiệm của khách hàng...
Bước 2: Ước tính, định lượng rủi ro
Bước này sẽ đo lường mức độ phản ứng của công ty đối
với các nguồn gốc rủi ro đã xác định ở trên. Cụ thể, dùng
một phương pháp giả định nếu có nhân tố rủi ro thì công ty
được gì và mất gì.
Bưóc3: Đánh giá tác động của rủi ro
Để đánh giá rủi ro người ta thường làm bài toán chi phí
và lợi tức. Đôi khi, việc quản lý rủi ro tiêu tốn nhiều nguồn
lực của công ty như tiền bạc và thời gian, do đó cần phải
cân nhắc xem liệu việc quản lý rủi ro như vậy có thực sự
71
đem lại lợi ích lớn hơn chi phí bỏ ra để thực hiện nó hay
không.
Bước 4: Đánh giá năng lực của người thực hiện
chương trình bảo hiểm rủi ro
Để quản lý rủi ro có hai chiến lược:
- Thứ nhất: Dựa vào một tổ chức tài chính chuyên
nghiệp, thuê họ thiết kế một giải pháp quản lý rủi ro cụ thể,
thích hợp với chiến lược quản lý của công ty.
- Thứ hai: Tự công ty đứng ra thực hiện phòng chống
rủi ro bằng cách sử dụng các công cụ CK phái sinh như
chứng quyền, chứng khế, quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn,
hợp đồng tương lai... đồng thời xây dựng một đội ngũ nhân
viên của công ty có khả năng lập và thực hiện hàng rào
chống rủi ro. Vấn đề này đòi hỏi nhân viên công ty vừa phải
thiết kế đúng lại vừa phải thực hiện tốt chương trình phòng
chống rủi ro bởi quản lý rủi ro cần phải được theo dõi
thường xuyên và điều chỉnh kịp thời với sự biến đổi của
thời gian.
Bước 5: Lựa chọn công cụ và quản lý rủi ro thích hợp
Đây là bước mấu chốt cuối cùng trong việc xây dựng
chiến lược quản lý rui ro. Trong bước này nhà quản lý phải
chọn một giải pháp cụ thể. Chẳng hạn, đối với các công cụ
trên thị trường hối đoái, người ta có thể sử dụng hợp đồng
tương lai, hợp đồng quyền chọn, swap... làm công cụ phòng
72
chống rủi ro, công cụ này có ưu điểm là có tính thanh khoan
cao và có hiệu quả về giá. Tuy nhiên, công cụ này không
linh động, không khắc phục được rủi ro cố hữu mà chi phí
theo dõi lại khá tốn kém.
Bài đọc thêm
Thƣớc đo của lợi nhuận là rủi ro
Trong giới đầu tư chứng khoán, không ai không biết
đến cái tên George Soros, một nhà đầu tư cổ phiếu mà
sự sắc sảo và tài dự đoán khuynh hướng thị trường tiền
tệ đã làm ông trở nên nổi tiếng không chỉ trên thị trường
chứng khoán mà còn trong những lĩnh vực đầu tư khác.
Vậy đâu là bí quyết thành công của những người như
Soros?
Tỷ suất lợi nhuận dài hạn của Soros lên tới gần 30%
/năm trong vài thập kỷ liên tiếp. Nhưng rất nhiều lần,
Soros đã thua lỗ hàng trăm triệu USD chỉ trong vòng
chưa đầy một tuần lễ. Những thất bại như vậy có thể làm
cho nhiều nhà đầu tư nản chí và bỏ cuộc, nhưng Soros
vẫn vững vàng, chấp nhận rủi ro hiện tại và chờ đợi
những cơ hội trong tương lai. Bản lĩnh của nhà đầu tư
chứng khoán huyền thoại là ở chỗ đó.
Đầu tư chứng khoán là một hình thức kinh doanh dài
hạn với lãi suất vượt xa tất cả các dạng đầu tư khác, cụ
thể là từ năm 1926 đến năm 1999, thị trường chứng
73
khoán Mỹ có lãi suất trung bình 11,4%/năm. Loại hình
đầu tư hấp dẫn tiếp theo là trái phiếu với lãi suất vào
khoảng 5,1%/năm. Nếu năm 1926 bạn đầu tư 100 USD
vào cổ phiếu, bạn sẽ thu về được 264.600 USD vào năm
1999, trong khi đó, 100 USD đầu tư vào trái phiếu chỉ
mang lại cho bạn 3.800 USD.
Lợi nhuận của “trò chơi chứng khoán” rất lớn nhưng đi
kèm theo đó lại là rủi ro khôn lường. Trong giới đầu tư
chứng khoán, nhiều nhà đầu tư có thể thu lời hàng triệu
USD sau mỗi năm quyết toán, thế nhưng cũng không ít
người đã phải ngậm ngùi nhìn vốn liếng “đội nón ra đi”.
Chấp nhận rủi ro
Các khoản đầu tư có xác xuất rủi ro cao lại thường
mang đến lợi nhuận nhiều hơn các khoản đầu tư an toàn.
Bên cạnh đó, các nhà đầu tư thường chấp nhận rủi ro để
đổi lấy tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Có nhiều ý kiến cho
rằng đầu tư cổ phiếu chẳng khác nào tham gia vào “canh
bạc đỏ đen”, song vẫn có rất nhiều người lao vào như
“con thiêu thân”. Sự thật không hoàn toàn như vậy. Mấu
chốt vấn đề ở đây là các nhà đầu tư cần tỉnh táo, bình
tĩnh trước những rủi ro và phải biết chấp nhận rủi ro để
hướng tới lợi nhuận lớn hơn.
Lợi nhuận và rủi ro là bạn song hành. Các nhà đầu tư
hiểu rất rõ điều này và họ chấp nhận gắn mình với thị
trường chứng khoán, bởi lẽ, như Warren Buffet, nhà đầu
tư huyền thoại tại phố Wall và là người giàu thứ hai trên
74
thế giới, đã nói: "Không thể chỉ đơn giản đem tiền đi gửi
ngân hàng, vì như vậy là quá thụ động trong đầu tư.
Hơn nữa, khả năng sinh lợi trong đầu tư chứng khoán
đủ hấp dẫn để các nhà đầu tư chấp nhận rủi ro”.
Một chuyên gia tài chính đã phân tích: Với mức lãi
suất tiền gửi tiết kiệm của các ngân hàng hiện nay, nếu
muốn có 1 USD tiền lời thì nhà đầu tư phải bỏ ra 14,5
USD vốn. Nhưng nếu đầu tư vào cổ phiếu, dựa trên các
chỉ số đánh giá khả năng sinh lợi của cổ phiếu, triển
vọng phát triển của các công ty niêm yết, trị giá cổ phiếu
hiện tại… thì trung bình các nhà đầu tư chỉ cần bỏ ra 8 -
9 USD đã có thể thu được 1 USD tiền lời. Ngoài ra, vốn
đầu tư còn tăng lên theo giá trị tích lũy hằng năm của
công ty. Sự bất ổn về giá cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán trong những khoảng thời gian cực ngắn khiến các
nhà đầu tư trung bình phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn.
Họ không thể dự đoán được lúc nào cổ phiếu sẽ xuống
giá hay lên giá, cũng như không biết thông tin nào sẽ tác
động trực tiếp tới giá cổ phiếu. Ngược lại, những nhà
đầu tư xuất sắc sẽ biết lợi dụng tính bất ổn này để thu lợi
cho riêng mình, chẳng hạn như tìm mua những cố phiểu
giá thấp, sau đó bán ngay khi giá lên mà không “ngâm”
chờ đợi giá tiếp tục cao nữa để rồi một ngày nào đó phải
gánh chịu thua lỗ khi cổ phiếu xuống giá.
Hạn chế rủi ro
Theo Warren Buffet, một danh mục đầu tư đa dạng sẽ
75
chứa đựng ít rủi ro hơn một danh mục đầu tư chỉ tập
trung vào một hay một ít loại đầu tư. Đa dạng hoá đầu tư
nghĩa là dàn trải tiền của bạn ra các loại đầu tư khác
nhau, làm giảm nguy cơ rủi ro, bởi vì nếu giá một số cổ
phiếu bạn đang sở hữu đi xuống thì bạn cũng phải không
chịu thiệt hại nhiều, bởi luôn có một số cổ phiếu khác
tăng giá trong danh mục đầu tư của bạn.
Mark Hasek, một nhà đầu tư khá nổi tiếng tại Wall
Street cho biết: “Để hạn chế rủi ro, điều quan trọng đối
với một nhà đầu tư chứng khoán là phải xác định được
chi phí cơ hội. Nói cách khác, nhà đầu tư phải xác định
được đỉnh điểm của từng loại cổ phiếu, từ đó đưa ra
quyết định mua hay không mua, giá nào thì mua được,
giá nào thì bán ra có lời và giá nào thì nên "án binh bất
động".
Để làm được điều này, nhà đầu tư phải có khả năng
phân tích cần thiết và sự hiểu biết nhất định về loại cổ
phiếu đó, phải thường xuyên cập nhật tất cả các thông
tin, các báo cáo tài chính liên quan đến tình hình hoạt
động của công ty đó.
Ngoài ra, việc xác định các tiêu chí để tìm ra các cổ
phiếu có khả năng tăng trưởng tốt cũng rất quan trọng
trong việc hạn chế rủi ro. Goerge Soros tiết lộ kinh
nghiệm của mình: “Có nhiều yếu tố để xác định đâu là
loại cổ phiếu tăng trưởng, ví dụ như thu nhập trên mỗi
76
cổ phần, hay tỷ lệ lợi tức trên vốn cổ phần gia tăng liên
tiếp trong 3- 5 năm... Các công ty tăng trưởng nói chung
đều có bảng cân đối tài sản rõ ràng, minh bạch, với mức
vốn cổ phần ít nhất phải gấp đôi tổng số nợ”. Ngoài
những số liệu về thu nhập và doanh số của công ty, nhà
đầu tư cần phải đánh giá xem liệu công ty đó có thể duy
trì được nhịp độ tăng trưởng cao hay không, hoặc trong
tương lai có thể tự chủ về tài chính hay cần phải vay
mượn từ bên ngoài...
Việc đánh giá mức độ tăng trưởng của cổ phiếu còn
phụ thuộc vào các tiêu chí và quan điểm cá nhân của
mỗi nhà đầu tư. Tuy nhiên, có một điều không thể phủ
nhận là nếu nắm giữ được cổ phiếu tăng trưởng thì nhà
đầu tư sẽ có nhiều cơ hội thu lời từ cổ tức và hưởng lợi
do chênh lệch giá cổ phiếu trong tương lai. Khi rủi ro ít
đi, các nhà đầu tư có thể yên tâm hơn phần nào.
Trong các lý thuyết tài chính và kinh tế, giả thuyết
nổi tiếng nhất có lẽ là Bƣớc đi ngẫu nhiên (Random
Walk). Giả thuyết này coi thị trường chứng khoán là một
quy trình ngẫu nhiên. Theo đó, tiền bạc không tự nhiên
sinh ra và cũng không tự nhiên mất đi trên thị trường
chứng khoán mà nó chỉ chuyển giao từ nhà đầu tư này
sang nhà đầu tư khác mà thôi, hay nói cách khác thị
trường chứng khoán là kẻ chiết khấu một cách rất hiệu
quả tiền bạc của các nhà đầu tư để chuyển cho nhà đầu
tư khác. Vì vậy, giá chứng khoán hiện tại phản ánh lợi
77
nhuận của một số người và cũng cho thấy những rủi ro
thiệt hại của một số người khác.
Dường như, không ai có thể kiếm lời bằng một lãi
suất quá cao trong suốt thời gian dài mà không phải chịu
một rủi ro nào, cũng như không ai có thể phủ nhận thực
tế rằng, thị trường chứng khoán là một kẻ chiết khấu tiền
bạc của bạn trong tương lai để chuyển cho người khác.
Chỉ có điều là bạn chấp nhận mức chiết khấu đó bao
nhiêu để vẫn thu được lợi nhuận phù hợp với mục tiêu
của bạn.
(Theo Wall Street Journal)
78
BÀI TẬP CHƢƠNG 2
Bài tập 1:
Năm ngoái , bạn mua 500 cổ phiếu của công ty T với giá
37.000 VNĐ/cổ phiếu. Bạn đã nhận được tổng số cổ tức
trong năm là 10.000.000. Hiện tại bạn đã bán cổ phiếu của
công ty T là với giá 38.000VNĐ.
a. Bạn có mức lãi vốn là bao nhiêu?
b. Tổng mức sinh lời của bạn là bao nhiêu?
c. Tỷ lệ cổ tức là bao nhiêu?
d. Tỷ suất sinh lời trong năm là bao nhiêu?
Bài tập 2:
Khả năng xảy ra tình trạng kinh tế ở 4 mức độ là như
nhau trong năm sau. Mức sinh lời đối với cổ phiếu AAB
tương ứng với các tình trạng kinh tế được dự báo như sau:
Tình trạng kinh tế Mức sinh lời cổ phiếu
AAA
1 14%
2 6%
3 9%
4 4%
Yêu cầu:
a. Tính lợi nhuận kỳ vọng của cổ phiếu AAA?
b. Tính phương sai của lợi nhuận kỳ vọng của cổ phiếu
AAA?
79
c. Tính độ lệch chuẩn của lợi nhuận kỳ vọng của cổ
phiếu AAA?
d. Tính độ hệ số biến đổi CV của cổ phiếu AAA?
Bài tập 3:
Giả sử ta có số liệu về mức sinh lời trong khoảng
thời gian 5 năm của cổ phiếu phổ thông và tín phiếu kho
bạc
Năm Cổ phiếu phổ
thông
Tín phiếu kho bạc
2003 21.4 10.8
2004 6.3 7.7
2005 32.2 9.9
2006 18.5 6.2
2007 22.5 8.9
Yêu cầu:
a. Tính mức bù rủi ro của cổ phiếu trong từng năm
b. Tính mức bù rủi ro bình quân của cổ phiếu trong
khoảng thời gian 5 năm
80
Bài tập 4:
Giả sử khả năng xảy ra tình trạng kinh tế ở các tình trạng
kinh tế và mức sinh lời của hai loại cổ phiếu SAM và REE
như sau:
Tình trạng
Kinh tế
Cổ phiếu SAM Cổ phiếu REE
Xác
suất
Mức sinh lời
kỳ vọng
Xác
suất
Mức sinh
lời kỳ vọng
Phát đạt
Bình thường
Khó khăn
0.3
0.4
0.3
100%
15%
-50%
0.4
0.3
0.3
20%
15%
10%
Yêu cầu: a. Tính lợi mức sinh lời kỳ vọng đối với mỗi loại cổ
phiếu?
b. Tính phương sai của mức sinh lời kỳ vọng đối với
mỗi loại cổ phiếu?
c. Tính độ lệch chuẩn của mức sinh lời kỳ vọng đối với
mỗi loại cổ phiếu?
d. Tính độ hệ số biến đổi CV đối với mỗi loại cổ phiếu?
e. Cổ phiếu nào có mức độ rủi ro cao hơn? Vì sao?
81
CHƢƠNG 3: LÝ THUYẾT THỊ TRƢỜNG
HIỆU QUẢ VÀ MÔ HÌNH ĐỊNH GIÁ
TÀI SẢN VỐN
3.1 LÝ THUYẾT THỊ TRƢỜNG HIỆU QUẢ
3.1.1 THỊ TRƢỜNG HIỆU QUẢ
a.Khái niệm
Thị trường hiệu quả là thị trường tài chính trong đó
giá hiện tại của tài sản tài chính phản ánh đầy đủ mọi thông
tin có liên quan, nghĩa là giá thị trường của những chứng
khóan riêng biệt thay đổi rất nhanh theo thông tin mới xuất
hiện
b.Ba hình thức của thị trƣờng hiệu quả
Các thay đổi giá cả trong quá khứ có thể được sử dụng để
dự đoán các thay đổi giá cả tương lai, các nhà đầu tư có thể
tạo ra tỷ suất sinh lợi dễ dàng. Nhưng trong các thị trường
cạnh tranh hòan tòan, việc thu được tỷ suất sinh lợi cao dễ
dàng sẽ không kéo dài. Khi các nhà đầu tư cố gắng tận dụng
thông tin về giá cả quá khứ, giá cả điều chỉnh ngay lập tức
cho đến khi siêu tỷ suất sinh lợi từ việc nghiên cứu các
chuyển động giá cả trong quá khứ biến mất. Kết quả là tất
cả thông tin về giá cả quá khứ sẽ được phản ánh trong giá
cổ phiếu ngày hôm nay, không phải trong giá ngày mai.
82
Các nhà kinh tế thường định nghĩa ba mức độ của thị trường
hiệu quả, được phân biệt bởi mức độ thông tin đã phản ánh
trong giá chứng khoán.
Mức độ thứ nhất- hình thức hiệu quả yếu, giá cả phản
ánh thông tin đã chứa đựng trong hồ sơ giá cả quá khứ. Nó
được gọi là hình thức hiệu quả yếu. Nếu các thị trường hiệu
quả ở mức yếu, thì không thể tạo được các siêu tỷ suất sinh
lợi liên tục bằng cách nghiên cứu tỷ suất sinh lợi quá khứ.
Mức độ thứ hai-hình thức hiệu quả vừa phải, đòi hỏi giá
cả phản ánh không chỉ giá cả quá khứ mà còn phản ánh tất
cả thông tin đã công bố khác. Đây được gọi là hình thức
hiệu quả vừa phải của thị trường. Nếu các thị trường hiệu
quả ở mức vừa phải, giá cả sẽ điều chỉnh ngay lập tức trước
các thông tin công cộng như là việc công bố tỷ suất sinh lợi
vừa qua, một phát hành cổ phiếu mới, một đề nghị sáp nhập
hai công ty, v.v…
Mức độ thứ ba- hình thức hiệu quả mạnh, trong đó giá cả
phản ánh tất cả các thông tin có thể có được bằng cách phân
tích tỉ mỉ về công ty và về nền kinh tế.
Có hai loại phân tích đầu tư có thể giúp làm cho thị trường
có hiệu quả. Nhiều nhà phân tích nghiên cứu việc kinh
doanh của công ty và cố gắng phát hiện thông tin về khả
83
năng sinh lợi sẽ làm rõ giá trị của cổ phiếu. Các nhà phân
tích này được gọi là nhà phân tích cơ bản. Các nỗ lực cạnh
tranh lẫn nhau giữa các nghiên cứu cơ bản sẽ có khuynh
hướng bảo đảm rằng giá cả phản ánh tất cả thông tin có liên
quan và các thay đổi là không thể dự đoán được. Các nhà
phân tích khác nghiên cứu hồ sơ giá cả và tìm kiếm các
khuynh hướng hay các chu kỳ. Các nhà phân tích này được
gọi là nhà phân tích kỹ thuật. Các nỗ lực trong nghiên cứu
kỹ thuật sẽ bảo đảm rằng giá cả hiện tại phản ánh tất cả
thông tin trong chuỗi giá cả quá khứ và các thay đổi giá
tương lai không thể dự báo được từ giá cả quá khứ.
Các thị trƣờng hiệu quả: chứng cứ
Hình 3.1 Mỗi điểm trong các biểu đồ rãi rác này cho thấy tỷ
suất sinh lợi trong các tuần lễ kế tiếp của bốn chỉ số thị
trường chứng khoán giữa tháng 8/1987 và tháng 7/1998.
Các điểm rãi rác rộng cho thấy rằng hầu như không có
tương quan giữa tỷ suất sinh lợi trong một tuần và tỷ suất
sinh lợi trong tuần kế tiếp. Bốn chỉ số này là FTSE 100
(Anh), chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones (Mỹ),
DAX (Đức), và CAC 40 (Pháp).
84
Để thử nghiệm hình thức yếu của giả thuyết, các nhà nghiên
cứu đã đo lường khả năng sinh lợi của một vài quy luật giao
dịch được sử dụng bởi các nhà phân tích kỹ thuật – là
những người công bố rằng đã tìm thấy các mẫu mực trong
giá cả cổ phiếu. Họ cũng áp dụng các thử nghiệm thống kê .
Thí dụ, trong hình 3.1, chúng ta đã dùng cùng thử nghiệm
85
đó để tìm kiếm mối liên hệ giữa tỷ suất sinh lợi thị trường
chứng khoán trong các tuần lễ kế tiếp.
Hình 3.2 Tỷ suất sinh lợi trên bình thường tích lũy, %
Hình 3.2 Thành quả của các cổ phiếu của các công ty mục
tiêu so với thành quả của thị trường. Giá của cổ phiếu mục
tiêu tăng vọt vào ngày công bố, nhưng từ đó trở đi, không
có chuyển động giá bất thường nào. Công bố về việc sáp
nhập có vẽ như đã được phản ánh đầy đủ vào giá cổ phiếu
trong ngày công bố.
86
Để phân tích hình thức hiệu quả vừa phải của giả thuyết thị
trường hiệu quả, các nhà nghiên cứu đã đo lường xem giá cả
chứng khoán đáp ứng nhanh đến mức nào đối với các mục
tin tức khác nhau, như là một công bố tỷ suất sinh lợi hay cổ
tức, tin về một vụ sáp nhập, hay tin tức kinh tế vĩ mô. Hình
3.2 minh họa việc công bố các tin tức như vậy được phản
ánh ngay lập tức vào giá cả chứng khoán như thế nào. Đồ
thị cho thấy chuyển động tăng giá của một mẫu gồm 194
doanh nghiệp là mục tiêu của các nỗ lực sáp nhập. Trong
hầu hết các cuộc sáp nhập, doanh nghiệp mua lại sẵn sàng
chi trả một chênh lệch giá lớn so với giá thị trường hiện
hành của doanh nghiệp bị mua lại; vì vậy khi một doanh
nghiệp trở thành mục tiêu của một nỗ lực sáp nhập, giá cổ
phiếu của nó tăng trước dự báo về chênh lệch giá sáp nhập.
Hình 3.2 cho thấy rằng vào ngày công chúng được biết về
nỗ lực sáp nhập (ngày 0 trong biểu đồ), giá cổ phiếu của
mục tiêu tiêu biểu tăng rất cao. Giá chứng khoán điều chỉnh
ngay tức khắc: Sau chuyển động giá lớn vào ngày công bố,
việc tăng giá ngưng lại và không có chuyển biến thêm nào
khác trong giá cổ phiếu dù tăng hay giảm. Như vậy trong
vòng ngày hôm đó thì giá cổ phiếu mới phản ánh rõ rệt độ
lớn (ít nhất là trung bình) của chênh lệch giá sáp nhập.
Khi một doanh nghiệp thông báo thu nhập mới nhất của
mình hay công bố một thay đổi cổ tức, phần chính của điều
87
chỉnh giá cả xảy ra trong vòng từ 5 đến 10 phút sau khi
thông báo.
Hình 3.3 cung cấp một số so sánh tương đối thô sơ, vì các
quỹ hỗ tương thường chuyên về các khu vực riêng biệt của
thị trường, như là các cổ phiếu có bêta thấp hay cổ phiếu
của các doanh nghiệp lớn, có thể có tỷ suất sinh lợi dưới
trung bình. Để kiểm soát các chênh lệch như vậy, mỗi quỹ
cần được so sánh với một danh mục chuẩn của các chứng
khoán tương tự. Nghiên cứu của Mark Carhart đã làm điều
này, nhưng thông điệp vẫn không thay đổi: tỷ suất sinh lợi
các qũy thu được thấp hơn các danh mục chuẩn sau chi phí
và chỉ vừa bằng các mức chuẩn trước chi phí.
Hình 3.3 Tỷ suất sinh lợi hàng năm bình quân của 1.493
quỹ hỗ tương Mỹ và chỉ số thị trường 1962 – 1992. Lưu ý
rằng các quỹ hỗ tương có thành quả thấp hơn thị trường
trong khoảng phân nửa số năm.
88
(Nguồn: N.M. Carhart, “về tính bền trong thành quả của
quỹ hỗ tương”, Tạp chí tài chính 52, (3/1997).
Chứng cứ này về hình thức hiệu quả mạnh đã chứng tỏ một
cách đủ thuyết phục rằng nhiều quỹ được quản lý một cách
chuyên nghiệp đã từ bỏ việc theo đuổi thành quả cao. Họ
chỉ “mua chỉ số”, tức tối đa hóa việc đa dạng hóa và tối
thiểu hóa chi phí quản lý danh mục. Các chương trình hưu
bổng doanh nghiệp hiện đầu tư trên một phần tư của vốn cổ
phiếu Mỹ họ đang nắm giữ vào các quỹ chỉ số.
89
3.1.2 CÁC BẤT THƢỜNG CÓ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI
GIÁM ĐỐC TÀI CHÍNH
Các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng giả thuyết thị trường
hiệu quả là một mô tả khá tốt của thực tế. Các nhà đầu tư đã
từng chứng kiến tỷ suất sinh lợi cao một cách trên bình
thường của chứng khoán của các doanh nghiệp nhỏ. Chẳng
hạn khi quan sát trên thị trường chứng khoán Mỹ từ năm
1926, cho thấy kết quả đầu tư 1$ năm 1926 vào cổ phiếu
của các doanh nghiệp hoặc lớn hoặc nhỏ. Đến năm 1997, 1$
đã đầu tư vào các cổ phiếu doanh nghiệp nhỏ đã tăng giá lên
đến 5.520$, trong khi đầu tư vào các doanh nghiệp lớn chỉ
đáng giá 1.828$. Dù các doanh nghiệp nhỏ có hệ số bêta
cao hơn, chênh lệch trong hệ số này không đủ lớn để giải
thích chênh lệch trong tỷ suất sinh lợi.
3.1.2.1 Lý do của các bất thường
Điều này có thể giải thích từ một trong ba lý do sau đây:
Thứ nhất, có thể là các nhà đầu tư đã yêu cầu một tỷ suất
sinh lợi cao hơn từ các doanh nghiệp nhỏ để đền bù cho
thêm một yếu tố rủi ro nào đó đã không được ghi lại trong
mô hình định giá tài sản vốn đơn giản. Đó là lý do tại sao
chúng ta cần phải nêu lại câu hỏi là liệu hiệu ứng doanh
nghiệp nhỏ có là chứng cứ chống lại mô hình CAPM không.
90
Thứ hai, thành quả cao hơn của các doanh nghiệp nhỏ có
thể chỉ là một trùng hợp ngẫu nhiên. Ngược lại, chúng ta có
thể thấy từ các chứng cứ trên là tỷ suất sinh lợi cao của cổ
phiếu doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ chỉ giới hạn trong một thời
kỳ tương đối ngắn.Cho đến đầu thập niên 1960, cổ phiếu
doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp lớn là ngang nhau. Một
khoảng cách rộng đã mở ra trong hai thập kỷ kế tiếp nhưng
thu hẹp lại trong thập niên 1980 khi hiệu ứng doanh nghiệp
nhỏ được biết đến lần đầu tiên. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào
các năm gần đây, chúng ta có thể cho rằng có một hiệu ứng
doanh nghiệp lớn.
Thứ ba, có một ngoại lệ quan trọng của lý thuyết thị
trường hiệu quả, một ngoại lệ đã cung cấp cho các nhà đầu
tư một cơ hội để tạo tỷ suất sinh lợi cao một cách có thể tiên
đoán trước qua một thời kỳ dài hai thập kỷ. Nếu các bất
thường như vậy cung ứng các mức tỷ suất sinh lợi dễ dàng,
chúng ta sẽ mong đợi tìm thấy một số các nhà đầu tư sẵn
sàng tận dụng chúng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong khi
nhiều nhà đầu tư cố gắng khai thác các bất thường đó, đáng
ngạc nhiên là rất khó làm giàu bằng cách này.
3.1.2.2 Bài toán phát hành mới
Khi các doanh nghiệp lần đầu tiên phát hành cổ phiếu ra
công chúng, các nhà đầu tư thường đổ xô đến mua.Tính
91
trung bình, những người đủ may mắn để mua được cổ phiếu
thực hiện được một lãi vốn ngay lập tức. Tuy nhiên,
Loughran và Ritter, là người đã nghiên cứu các phát hành
mới giữa 1970 và 1990, tìm thấy rằng các món lãi sớm này
đã biến thành lỗ. Các phát hiện của họ được tóm lược trong
hình 3.4.
Tổng cộng trong 5 năm theo sau việc phát hành ra công
chúng ban đầu các cổ phiếu đã thực hiện có thành quả tệ
hơn khoảng 30% so với một danh mục cổ phiếu của các
doanh nghiệp có quy mô tương tự.Loughran và Ritter tiếp
tục theo dõi các phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp
đã giao dịch ngoài công chúng trước đây và tìm thấy các
thành quả dưới tiêu chuẩn tương tự trong vòng 5 năm sau
phát hành.
Hình 3.4 Tỷ suất sinh lợi từ 4.753 cung ứng ra công chúng
từ 1970 đến 1990 trong mỗi kỳ 5 năm theo sau phát hành,
đối chiếu với tỷ suất sinh lợi từ một mẫu các doanh nghiệp
tương ứng không phát hành.
92
Nguồn: “Bài toán phát hành mới” của R.Loughran và J.R.
ritter, Tạp chí tài chính 50 (1995)
3.1.2.3 Bài toán công bố tỷ suất sinh lợi
Bài toán công bố tỷ suất sinh lợi được tóm lược trong hình
3.5 cho thấy thành quả cổ phiếu theo sau công bố tỷ suất
sinh lợi tốt hay xấu ngoài mong đợi trong vòng các năm
1974 đến 1986. Có khoảng 10% cổ phiếu của các doanh
nghiệp có tin tức tỷ suất sinh lợi tốt nhất có thành quả vượt
trội thành quả của các cổ phiếu có tin tức xấu nhất hơn 4%
trong vòng hai tháng theo sau công bố. Có vẻ như các nhà
đầu tư đã không nhận biết ngay lập tức ý nghĩa đầy đủ của
việc công bố tỷ suất sinh lợi và chỉ nhận ra khi có thêm
thông tin. Vẫn không thể phán đoán gì về các nghiên cứu
này về các bất thường dài hạn.
93
Hình 3.5 Các thu nhập cao trên bình thường tích lũy của cổ
phiếu của các doanh nghiệp trong thời gian 60 ngày tiếp
theo một công bố tỷ suất sinh lợi quý. 10% cổ phiếu với tin
tức bố tỷ suất sinh lợi tốt nhất (nhóm 10) vượt quá cổ phiếu
của các doanh nghiệp có tin tức xấu nhất (nhóm 1) hơn
10%.
Tỷ suất sinh lợi trên bình thường tích lũy.
Nguồn: “Chuyển biến sau công bố bố tỷ suất sinh lợi: đáp
ứng giá cả chậm trễ hay phần bù rủi ro”
Hiện nay, khuynh hướng phản ứng thái quá này có thể
đúng, nhưng nó không giúp giải thích bài toán dài hạn khác
của chúng ta, các phản ứng dưới mức của các nhà đầu tư
trước các công bố tỷ suất sinh lợi.
94
Cuộc khủng hoảng năm 1987
Vào ngày thứ hai, 19 tháng 10 năm 1987, chỉ số công
nghiệp trung bình Down Jones (Dow) sụt 23% trong một
ngày. Ngay sau sụp đổ này, mọi người đều giật mình và đưa
ra 2 câu hỏi : “Ai là người có tội” và “Giá cả có phản ánh
các giá trị cơ bản không?”.
Nhóm bị nghi ngờ đầu tiên bao gồm các nhà mua bán song
hành chỉ số, là những người mua bán các hợp đồng giao chỉ
số và các cổ phiếu bao gồm các chỉ số thị trường, để hưởng
chênh lệch giá. Vào ngày thứ hai đen tối đó, các hợp đồng
giao sau sụp đổ trước nhất và nhanh nhất vì các nhà đầu tư
tìm thấy rằng dễ rút khỏi thị trường tài chính bằng các hợp
đồng giao sau hơn là bằng cách bán cổ phiếu cá nhân. Điều
này đẩy giá các giao dịch giao sau xuống thấp hơn chỉ số thị
trường chứng khoán Những người mua bán song hành đã
cố gắng kiếm tiền bằng cách bán cổ phiếu và mua hợp đồng
giao sau, nhưng họ thấy khó tìm được các báo giá cập nhật
các cổ phiếu mà họ muốn giao dịch. Như vậy, các thị
trường giao sau và cổ phiếu đã không kết nối trong một thời
gian.
Nhóm nghi can thức hai là các nhà đầu tư định chế lớn đang
cố gắng thực hiện các kế hoạch bảo hiểm danh mục. Bảo
hiểm danh mục nhằm mục đích đặt một sàn trên giá trị của
95
một danh mục vốn cổ phiếu bằng cách tăng dần việc bán cổ
phiếu và mua các chứng khoán nợ ngắn hạn an toàn khi giá
cổ phiếu sụt. Như vậy áp lực bán làm sụt giá cổ phiếu trong
ngày thứ hai đen tối đã đưa đến các nhà bảo hiểm danh mục
càng bán nhiều hơn.
Một vài nhà bảo hiểm danh mục có thể bị cho là vi phạm
trật tự công cộng, nhưng tại sao cổ phiếu lại sụt giá khắp thế
giới khi bảo hiểm danh mục chỉ đáng kể ở Mỹ? Hơn nữa,
nếu việc bán chủ yếu do chiến thuật bảo hiểm danh mục hay
chiến thuật giao dịch châm ngòi, hẵn chúng đã chuyển tải ít
thông tin cơ bản, và giá đáng lẽ đã phải tăng lên trở lại sau
khi các hỗn loạn của ngày thứ hai đen tối đã tiêu tan.
Ý tưởng giá thị trường là ước tính tốt nhất giá trị nội tại có
vẽ ít thuyết phục hơn trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng.
Có thể giá hoặc quá cao trước ngày thứ hai đen tối hoặc
quá thấp sau đó. Có thể lý thuyết các thị trường hiệu quả lại
là một hình thức khác của tổn thất khác của cuộc khủng
hoảng
Biến cố tháng 10 năm 1987 nhắc nhở chúng ta việc định giá
cổ phiếu thường từ đầu đặc biệt khó đến thế nào. Thí dụ,
trong tháng 1 năm 2003 chúng ta muốn kiểm tra xem các cổ
phiếu thường có được định giá phải chăng không. Ít nhất
việc đầu tiên chúng ta có thể làm là sử dụng công thức tăng
96
trưởng không thay đổi . Cổ tức mong đợi hàng năm của chỉ
số công nghiệp Standard and Poor’s vào khoảng 16,7. Giả
dụ cổ tức này được mong đợi tăng với một tốc độ đều đặn
10%/năm và các nhà đầu tư đòi hỏi một tỷ suất sinh lợi
hàng năm 11,4% từ các cổ phiếu thường. Công thức tăng
trưởng không thay đổi cho ta giá trị của chỉ số bằng:
PV(chỉ số) = D
= 16,7
= 1.193 r – g 0,114 – 0,10
Trong đó,
D: cổ tức
r: lãi suất mong đợi
g: tốc độ tăng trưởng
Chỉ số giữa tháng 01/2003. Có thể tăng trưởng cổ tức có
khả năng thực hiện chỉ bằng 9.6%/năm. Điều này sẽ đưa
đến một điều chỉnh giảm 22% trong ước tính của chúng ta
về mức đúng của chỉ số, từ 1.193 xuống 928!.
PV(chỉ số) = D
= 16,7
= 928 r – g 0,114 – 0,096
97
Nói cách khác, một sụt giá giống như trong ngày thứ hai
đen tối có thể đã xảy ra vào tháng 01/2003 nếu các nhà đầu
tư đột nhiên trở nên kém lạc quan khoảng 0,4% về tăng
trưởng cổ tức tương lai.
Khó khăn của việc định giá cổ phiếu từ đầu có hai hậu quả
quan trọng.
Thứ nhất, các nhà đầu tư hầu như luôn luôn định giá một cổ
phiếu thường tương ứng với giá ngày hôm qua hay giá của
ngày hôm nay của các chứng khoán có thể so sánh. Nói
cách khác, họ thường cho là giá ngày hôm qua đúng, điều
chỉnh tăng hay giảm trên cơ sở của thông tin ngày nay. Nếu
thông tin đến một cách suôn sẽ, thì khi thời gian trôi qua,
các nhà đầu tư trở nên càng lúc càng tin rằng mức thị trường
ngày hôm nay là đúng. Tuy nhiên, khi các nhà đầu tư mất
tin tưởng vào chuẩn mực giá ngày hôm qua, có thể có một
thời kỳ giao dịch rối loạn và giá cả biến động trước khi một
chuẩn mực mới được thiết lập.
Thứ hai, giả thuyết giá cổ phiếu luôn luôn bằng giá trị nội
tại hầu như không thể kiểm chứng chứng là vì khó tính toán
giá trị nội tại mà không tham khảo giá cả.
Nếu một trong hai công ty công bố tỷ suất sinh lợi tỷ suất
sinh lợi cao hơn ngoài mong đợi, chúng ta có thể tin rằng
98
giá cổ phiếu có thể đáp ứng ngay tức khắc và không thiên
vị. Nói cách khác, giá sau đó sẽ được định đúng tương ứng
với giá trước đó. Các bài học quan trọng nhất của thị trường
hiệu quả đối với giám đốc tài chính doanh nghiệp liên quan
đến hiệu quả tương đối.
3.1.2.4 Các bất thƣờng thị trƣờng và giám đốc tài chính
Nếu cổ phiếu của chúng ta thực sự được định giá cao, chúng
ta có thể giúp các cổ đông hiện tại của mình bằng cách bán
thêm cổ phiếu và sử dụng số tiền này để đầu tư vào các
chứng khoán thị trường vốn khác. Nhưng chúng ta đừng
bao giờ phát hành cổ phiếu để đầu tư vào một dự án cung
ứng một tỷ suất tỷ suất sinh lợi thấp hơn mức mà chúng ta
có thể kiếm được bằng cách khác trong thị trường vốn. Một
dự án như vậy sẽ có một NPV âm. Chúng ta luôn luôn có
thể làm tốt hơn là đầu tư vào một dự án có NPV âm: Công
ty của chúng ta có thể ra mua cổ phiếu thường ở thị trường.
Trong một thị trường hiệu quả, các vụ mua như vậy luôn
luôn có NPV bằng 0.
Ngược lại biết rằng cổ phiếu chúng ta bị định giá thấp.
Trong trường hợp này, rõ ràng là không thể giúp các cổ
đông hiện hữu của chúng ta bằng cách bán thêm cổ phiếu
“rẻ” để đầu tư vào các cổ phiếu khác được định giá phải
chăng. Nếu cổ phiếu của chúng ta bị định giá đủ thấp, có thể
99
có lợi ngay cả khi phải hy sinh một cơ hội đầu tư vào một
dự án NPV dương, hơn là cho phép các nhà đầu tư mới mua
cổ phiếu của công ty chúng ta bằng mộ giá thấp. Các giám
đốc tài chính tin rằng cổ phiếu của công ty họ bị định giá
thấp có thể do dự một cách hợp lý trong việc phát hành
thêm cổ phiếu, nhưng thay vào đó, họ có thể tài trợ kế
hoạch điều động đến lựa chọn tài trợ nhưng không ảnh
hưởng đến các quyết định đầu tư thực tế của doanh nghiệp.
3.1.3 BÀI HỌC CỦA THỊ TRƢỜNG HIỆU QUẢ:
Bài học 1: Thị trường không có trí nhớ
Theo hình thức yếu của giả thuyết thị trường hiệu quả,
chuỗi các thay đổi giá cả trong quá khứ không chứa đựng
thông tin về thay đổi giá trong tương lai. Các nhà kinh tế đã
diễn tả cùng ý kiến này một cách chính xác hơn khi nói rằng
thị trường không có trí nhớ.
Đôi khi một giám đốc tài chính sẽ có thông tin nội bộ cho
thấy là cổ phiếu của doanh nghiệp được định giá cao hay
định giá thấp. Thí dụ có một vài tin tức tốt mà chúng ta biết
trong khi thị trường không biết, là cổ phiếu của doanh
nghiệp được định giá thấp. Giá cổ phiếu sẽ tăng nhanh khi
tin tức được tiết lộ. Vì vậy, nếu công ty bán cổ phiếu với giá
100
hiện tại, công ty đang cung ứng một giá hời cho các cổ đông
mới với phần thiệt do các cổ đông hiện hữu gánh chịu.
Bài học 2: Hãy tin vào giá thị trường
Trong một thị trường hiệu quả, chúng ta có thể tin vào giá
cả, vì giá cả chứa đựng tất cả thông tin có sẵn về giá trị của
mỗi chứng khoán. Điều này có nghĩa là trong một thị trường
hiệu quả, không có cách nào để hầu hết các nhà đầu tư đạt
được một tỷ suất sinh lợi cao hơn liên tục. Để làm được như
vậy, chúng ta không chỉ cần biết nhiều hơn bất cứ người
nào khác, mà còn cần biết nhiều hơn tất cả mọi người khác.
Thông điệp này rất quan trọng cho một giám đốc tài chính
chịu trách nhiệm về chính sách tỷ giá hối đoái hay về mua
và bán nợ của doanh nghiệp
Các tài sản của công ty cũng có thể chịu tác động trực tiếp
của niềm tin của ban giám đốc vào các kỹ năng đầu tư của
mình. Thí dụ, một công ty có thể mua một công ty khác đơn
giản chỉ vì ban giám đốc nghĩ rằng cổ phiếu của công ty kia
được định dưới giá. Khoảng phân nữa trường hợp cổ phiếu
của công ty bị mua lại, qua nhận thức sau đó hóa ra bị định
dưới giá. Nhưng phân nữa các trường hợp kia là được định
giá cao. Tính trung bình thì giá trị sẽ đúng
101
Bài học 3: Hãy đọc sâu
Nếu thị trường hiệu quả, giá cả chứa đựng tất cả thông tin
có sẵn. Vì vậy, chỉ cần chúng ta biết cách đọc sâu, giá cổ
phiếu có thể cho chúng ta biết nhiều về tương lai. Thí dụ,
chúng ta đã cho thấy thông tin trong các báo cáo tài chính
của một công ty có thể giúp giám đốc tài chính ước tính xác
suất phá sản như thế nào. Nhưng đánh giá của thị trường về
chứng khoán của công ty cũng có thể cung cấp thông tin
quan trọng về các triển vọng của công ty. Như vậy, nếu các
trái phiếu của công ty đang cung ứng một tỷ suất sinh lợi
đáo hạn cao hơn trung bình, chúng ta có thể suy diễn rằng
công ty có thể đang gặp vấn đề.
Còn một thí dụ khác: Giả dụ các nhà đầu tư tin rằng lãi suất
sẽ tăng trong năm tới. Trong trường hợp này, họ sẽ thích
chờ trước khi cung cấp các khoản vay dài hạn, và một
doanh nghiệp nào đó muốn vay dài hạn hôm nay sẽ phải
đưa ra một mức lãi suất cao hơn. Nói cách khác, lãi suất dài
hạn sẽ phải cao hơn lãi suất 1 năm. Chênh lệch giữa lãi suất
dài hạn và ngắn hạn cho chúng ta biết đôi chút về điều mà
các nhà đầu tư kỳ vọng sẽ xảy ra cho lãi suất ngắn hạn trong
tương lai.25
Thí dụ: Viacom đặt giá mua Paramount
102
Trong tháng 9/1993, công ty giải trí Viacom công bố đặt giá
8,2 tỷ đô la để mua hữu nghị công ty Paramount. Tuần lễ
kế tiếp QVC đã xướng một giá khác để mua Paramount là
9,5 tỷ đô la. Đó là mở đầu của cuộc chiến giành mua kéo
dài 5 tháng mà cuối cùng Viacom là người chiến thắng.
Khi Viacom công bố mức đặt giá, cổ phiếu của công ty này
sụt 6,8%, trong khi chỉ số của Standard & Poor’s sụt 0,4%.
Theo chứng cứ quá khứ, một thay đổi trong chỉ số thị
trường đã tác động đến cổ phiếu của Viacom theo mô hình
CAMP như sau:
Tỷ suất sinh lợi mong đợi của Viacom = α + β x tỷ suất tỷ
suất sinh lợi thị trường
= 0,01 + 0,78 x tỷ suất tỷ suất sinh lợi thị
trường
Hệ số α bằng 0,1 cho ta biết là khi thị trường không thay
đổi, cổ phiếu của Viacom tăng trung bình 0,1%/ngày. Hệ số
β bằng 0,78 cho thấy rằng mỗi 1% tăng trong số chỉ số thị
trường làm tăng thêm 0,78% cho tỷ suất sinh lợi của
Viacom. Vì thị trường sụt 0,4% vào lúc Viacom đưa ra đặt
giá, chúng ta sẽ mong đợi một cách thông thường là giá cổ
phiếu sẽ thay đổi 0,01+0,78x(-0,4) = -0,3%. Vì vậy, cổ
103
phiếu của Viacom đã cung cấp một tỷ suất sinh lợi không
bình thường bằng - 6,5%
Tỷ suất sinh lợi không bình thường = tỷ suất sinh lợi thực tế
- tỷ suất sinh lợi mong đợi = (-6,8) – (0,3) = -6,5%
Tổng giá trị của cổ phiếu của Viacom ngay trước khi đưa ra
mức đặt giá vào khoảng 7,9 tỷ đô la. Vì vậy sụt giảm không
bình thường trong giá trị của cổ phiếu của Viacom là 0,065
x 7,9 tỷ hay 515 triệu đô la.
Để thấy thành quả của cổ phiếu Viacom qua một thời kỳ
phần nào dài hơn, chúng ta có thể tích lũy các tỷ suất sinh
lợi không bình thường mỗi ngày. Như vậy, nếu cổ phiếu
Viacom cung ứng một tỷ suất sinh lợi không bình thường
+5% ngày này và +6% ngày kế tiếp, lợi nhuận không bình
thường tích lũy qua hai ngày của công ty sẽ bằng 1,05 x
1,06 – 1 = 0,113 hay 11,3%. Hình 3.6 cho thấy thành quả
không bình thường tích lũy của cổ phiếu Viacom trước và
sau khi đặt giá mua Paramount. Chúng ta có thể thấy là tỷ
suất sinh lợi không bình thường từ ngay trước khi đưa ra đặt
giá ban đầu đến sau khi mua lại thành công là khoảng -50%.
Điều này tương ứng với một sụt giảm bốn tỷ đô la trong giá
trị của cổ phiếu của Viacom. Khi giá cổ phiếu sụt giảm, các
nhà đầu tư của Paramount trở nên ít “mặn mà” hơn với cổ
phiếu của Viacom mà họ được cung ứng. Để chiến thắng
104
trong cuộc chiến này, Viacom đã phải tăng số tiền mặt cung
ứng và phải bảo đảm mua lại cổ phiếu từ các cổ đông của
Paramount nếu giá cổ phiếu sụt dưới một mức ấn định.
Lưu ý hai điểm trong thí dụ . Thứ nhất, đáp ứng không nhiệt
tình của thị trường trước đặt giá đáng lẽ đã ban cho ban
quản lý công ty thấy rằng các nhà đầu tư xem việc mua lại
đề nghị là một giao dịch tồi của Viacom. Hình 3.6 cho thấy
rằng, khi Viacom chiến đấu để giành quyền kiểm soát
Paramount, cổ phiếu tiếp tục sụt giảm và thông điệp cho
ban quản lý trở nên lớn hơn và rõ hơn một cách tương ứng.
Dĩ nhiên, hẵn các giám đốc của Viacom cũng có thể có
thông tin khác mà các nhà đầu tư thiếu và có thể quyết định
đúng khi vẫn tiếp tục việc mua lại. Điểm chúng ta muốn nói
ở đây đơn giản là giá cổ phiếu của Viacom đã cung cấp một
tóm lược có giá trị về ý kiến của nhà đầu tư.
Hình 3.6 Tỷ suất sinh lợi không bình thường tích lũy của cổ
phiếu Viacom quanh thời điểm của cuộc chiến giành quyền
sáp nhập Paramount. Tỷ suất sinh lợi không bình thường âm
theo sau đặt giá của Viacom cho thấy rằng các nhà đầu tư
xem việc mua lại này như một đầu tư có NPV âm.
Lợi nhuận không bình thường không tích lũy, %
105
Thứ hai, thí dụ của chúng ta minh họa một cách thức rất dễ
để tính toán tỷ suất sinh lợi bình thường của một cổ phiếu.
Chúng ta sẽ gặp nhiều tình huống khi chúng ta đưa ra câu
hỏi một loại quyết định tài trợ cụ thể nào đó tác động thế
nào đến giá trị của doanh nghiệp. Để trả lời, chúng ta sẽ chú
trọng vào phần của tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu mà không
do các biến động của thị trường. Chúng ta gọi phần này là
tỷ suất sinh lợi không bình thường của cổ phiếu doanh
nghiệp. Nhớ rằng:
Tỷ suất sinh lợi không bình thường = tỷ suất sinh lợi
thực tế - tỷ suất sinh lợi mong đợi có chú ý đến tỷ suất
sinh lợi thị trường.
106
Để đo lường tỷ suất sinh lợi mong đợi, chúng ta có thể
xem cổ phiếu của doanh nghiệp đã đáp ứng thế nào
trong quá khứ trước các biến động thị trường.
Bài học 4: Không có các ảo tưởng tài chính
Trong một thị trường hiệu quả, không có các ảo tưởng tài
chính. Các nhà đầu tư chỉ quan tâm một cách thực tế đến
các dòng tiền của doanh nghiệp và phần của các dòng tiền
này mà học có quyền hưởng.
Thí dụ: Cổ tức cổ phiếu và các chia nhỏ cổ phiếu. Chúng ta
có thể minh họa bài học thứ tư này bằng cách xem xét tác
động của cổ tức cổ phiếu và chia nhỏ cổ phiếu. Mỗi năm
hàng trăm công ty gia tăng số cổ phiếu đang lưu hành, hoặc
bằng cách chia nhỏ số cổ phiếu hiện hữu hoặc bằng cách
phân phối thêm cổ phiếu dưới hình thức cổ tức. Việc này
không tác động đến dòng tiền tương lai của công ty hay tỷ
lệ của các dòng tiền này dành cho mỗi cổ đông. Thí dụ, giả
dụ giá cổ phiếu của Chaste Manhattan đang được bán với
giá 210$/cổ phiếu. Một chia nhỏ cổ phiếu ba cho một sẽ
thay thế mỗi cổ phiếu đang lưu hành bằng ba cổ phiếu mới.
Chaste có thể sắp xếp việc này bằng cách in hai cổ phiếu
mới cho mỗi cổ phiếu nguyên thủy và phân phối các cổ
phiếu mới này cho các cổ đông như một “món quà tặng,
không mất tiền”. Sau khi chia nhỏ, chúng ta sẽ mong đợi giá
107
bán mỗi cổ phiếu là 210/3 = 70$. Cổ tức mỗi cổ phiếu, thu
nhập mỗi cổ phiếu và tất cả các biến số từng cổ phiếu khác
sẽ bằng 1/3 mức trước đây.
Hình 3.7 tóm lược các kết quả của một cuộc nghiên cứu cổ
điển về chia nhỏ cổ phiếu trong suốt thời gian từ 1926 đến
1960.30
Nó cho thấy thành quả không bình thường tích lũy
của các cổ phiếu quanh thời điểm chia nhỏ sau khi điều
chỉnh theo gia tăng số cổ phiếu.31
Lưu ý phần gia tăng giá
trước khi chia nhỏ. Công bố chia nhỏ hẵn đã xảy ra trong
tháng hoặc hai tháng sau cùng hoặc của thời kỳ này. Điều
này có nghĩa là quyết định chia nhỏ vừa là hậu quả của mộ
gia tăng giá cả vừa là nguyên nhân của một gia tăng giá cả
tiếp theo. Có vẻ như các cổ đông không thuộc loại cứng đầu
như chúng ta đã tưởng. Hình như họ quan tâm cả hình thức
lẫn chất lượng. Tuy nhiên, trong suốt năm kế tiếp, hai phần
ba của các công ty chia nhỏ cổ phiếu đã công bố gia tăng
trên trung bình trong cổ tức tiền mặt. Thông thường một
công bố như vậy sẽ tạp nên một gia tăng bất thường trong
giá cổ phiếu, nhưng trong trường hợp các công ty chia nhỏ
cổ phiếu, điều này không xảy ra ở bất kỳ thời điểm nào sau
khi chia nhỏ. Giải thích rõ ràng của điều này là việc chia
nhỏ cổ phiếu được kèm theo một hứa hẹn rõ rệt hay hàm ý
về gia tăng cổ tức, và việc tăng giá vào thời điểm chia nhỏ
không liên quan gì đến một sự ưa chuộng chia nhỏ như vậy,
108
mà chỉ liên quan đến thông tin mà người ta cho rằng việc
chia nhỏ cổ phiếu này chuyển tải.
Hình 3.7 Tỷ suất sinh lợi không bình thường tích lũy vào
thời điểm chia nhỏ cổ phiếu. (Tỷ suất sinh lợi được điều
chỉnh theo gia tăng trong số cổ phiếu). Lưu ý gia tăng trước
khi chia nhỏ và việc không có các thay đổi bất thường sau
khi chia nhỏ.
Thay đổi trong giá cổ phiếu, %
Nguồn: “Điều chỉnh giá cổ phiếu trước thông tin mới” của
E.Fama, L.Fished, M.Jensen và R.Roll, Tạp chí kinh tế quốc
tế 10 (1/1969)
109
Hành vi này không hàm ý là các nhà đầu tư thích cổ tức gia
tăng cho lợi ích riêng của mình, vì các công ty chia nhỏ cổ
phiếu có vẻ thành công một cách khác thường theo các cách
khác. Thí dụ, Asquith, Healy, và Palepu đã tìm thấy rằng
chia nhỏ cổ phiếu thường đi sau các gia tăng cao trong tỷ
suất sinh lợi.32
Các gia tăng tỷ suất sinh lợi cao như vậy
thường chỉ có tính tạm thời, và các nhà đầu tư đã đúng khi
xem xét chúng với một sự nghi ngờ. Tuy nhiên, chia nhỏ cổ
phiếu có vẻ như đã cung cấp cho các nhà đầu tư một bảo
đảm rằng trong trường hợp gia tăng trong tỷ suất sinh lợi là
thường xuyên thực sự.
Thí dụ: Các thay đổi kế toán. Có các trường hợp khác các
giám đốc có vẻ như cho rằng các nhà đầu tư thường có ảo
tưởng tài chính. Thí dụ, một vài doanh nghiệp dành một
lượng đáng kể công sức, mưu trí cho công tác “tác động”
đến tỷ suất sinh lợi báo cáo cho các cổ đông (báo cáo tỷ suất
sinh lợi ma), qua một hế thống “kế toán sáng tạo”, tức là
bằng cách chọn các phương pháp kế toán ổn định hàng hóa
và gia tăng tỷ suất sinh lợi báo cáo. Có thể các doanh
nghiệp này làm như vậy vì ban giám đốc tin rằng các cổ
đông chấp nhận các con số qua giá trị danh nghĩa của
chúng.33
110
Một cách nữa mà các công ty có thể tác động đến tỷ suất
sinh lợi báo cáo của mình là tính chi phí các hàng hóa đã lấy
ra khỏi kho hàng. Các công ty có thể chọn lựa giữa hai
phương pháp. Theo phương pháp FIFO (nhập trước xuất
trước), doanh nghiệp trừ chi phí của hàng hóa đã đưa vào
kho hàng trước. Theo phương pháp LIFO (nhập sau xuất
trước) các công ty trừ chi phí của hàng hóa mới nhất vừa
nhập vào kho. Khi lạm phát cao, chi phí của hàng hóa mua
trước tiên thường thấp hơn giá hàng hóa mua sau cùng. Vì
vậy, tỷ suất sinh lợi tính theo FIFO có vẻ cao hơn tỷ suất
sinh lợi LIFO.
Bây giờ, nếu như đây chỉ là vấn đề trình bày, sẽ không có
hại gì khi chuyển từ LIFO sang FIFO.Nhưng cơ quan thuế
qui định rằng phương pháp được dùng để báo cáo cho cổ
đông phải được dùng để tính thuế của doanh nghiệp. Vì
vậy, chi trả thuế ngay thấp hơn do việc dùng phương pháp
LIFO cũng đưa đến tỷ suất sinh lợi thấp hơn.
Nếu các thị trường hiệu quả, các nhà đầu tư sẽ hoan nghênh
một chuyển đổi sang kế toán LIFO, ngay cả khi nó làm
giảm tỷ suất sinh lợi. Biddle và Lindahl, người đã nghiên
cứu vấn đề này, kết luận rằng đây chính là điều xảy ra, vì
vậy việc chuyển sang phương pháp LIFO thường đi kèm
theo với một gia tăng bất thường trong giá cổ phiếu.34
Có vẻ
111
như các cổ đông nhìn đàng sau các con số và chú trọng đến
số tiền thuế tiết kiệm được.
Bài học 5: Phương án tự làm lấy
Trong một thị trường hiệu quả, các nhà đầu tư sẽ không trả
tiền cho người khác để nhờ làm việc mà tự họ cũng làm
được tốt như vậy. Như chúng ta sẽ thấy, nhiều cuộc tranh
luận trong tài trợ doanh nghiệp tập trung vào việc các cá
nhân có thể sao chép hay tái tạo các quyết định tài chính
doanh nghiệp tốt như thế nào. Thí dụ, các công ty thường
biện minh các sáp nhập trên cơ sở là chúng mang đến một
doanh nghiệp đa dạng hóa hơn và do đó ổn định hơn.
Nhưng nếu các nhà đầu tư có thể nắm giữ cổ phiếu của cả
hai công ty, tại sao họ lại phải cám ơn các công ty về sự đa
dạng hóa này? Thường thì việc đa dạng hóa dễ hơn và rẻ
hơn cho họ hơn là cho các công ty.
Giám đốc tài chính cần hỏi cùng câu hỏi khi xem xét liệu
phát hành nợ tốt hơn hay phát hành cổ phiếu thường tốt
hơn. Nếu doanh nghiệp phát hành nợ, doanh nghiệp sẽ tạo
ra đòn bẩy tài chính. Kết quả là cổ phiếu sẽ rủi ro hơn và sẽ
phải cung ứng một tỷ suất tỷ suất sinh lợi mong đợi cao
hơn. Nhưng các cổ đông có thể đạt được đòn bẩy tài chính
mà không cần doanh nghiệp phát hành nợ: họ có thể vay
tiền cho riêng họ. Vì vậy, vấn đề của giám đốc tài chính là
112
quyết định xem liệu công ty có thể phát hành nợ rẻ hơn là
cá nhân cổ đông không.
Bài học 6: Đã xem một cổ phiếu, hãy xem tất cả
Tính co giãn của cầu đối với bất cứ một vật phẩm nào đo
lường phần trăm thay đổi trong số lượng cầu cho mỗi phần
trăm tăng thêm của giá cả. Nếu vật phẩm có các sản phẩm
thay thế tương lai, tính co giãn sẽ âm; nếu không, nó sẽ gần
zero. Thí dụ, cà phê là một hàng hóa ổn định, có tính co
giãn của cầu khoảng -0,2. Nghĩa là một thay đổi 5% trong
giá cà phê làm thay đổi doanh số khoảng -0,2 x 0,05 = -
0,01; nói cách khác, nó chỉ làm giảm mức cầu khoảng 1%.
Người tiêu dùng thường xem các nhãn hiệu cà phê khác
nhau như là các sản phẩm thay thế gần hơn của nhau.
Các nhà đầu tư không mua một cổ phiếu vì các tính chất
độc đáo của nó; mà vì nó cung ứng một triển vọng tỷ suất
sinh lợi phải chăng so với rủi ro cỉa nó. Điều này có nghĩa là
các cổ phiếu, hầu như là các thế phẩm tuyệt đối. Vì vậy,
mức cầu đối với cổ phiếu một công ty sẽ có tính co giãn
cao. Nếu tỷ suất sinh lợi triển vọng của nó quá thấp so với
rủi ro, sẽ không ai muốn nắm giữ cổ phiếu này. Nếu ngược
lại, mọi người sẽ tranh nhau mua.
113
Giả dụ chúng ta muốn bán một lượng lớn cổ phiếu. Vì cầu
có tính co giãn, thông thường chúng ta kết luận rằng chúng
ta chỉ cần cắt giảm nhẹ giá để bán cổ phiếu của mình.
Không may là mọi việc sẽ không nhất thiết diễn ra như vậy.
Khi chúng ta bán cổ phiếu, các nhà đầu tư khác có thể nghi
ngờ là chúng ta muốn vất bỏ nó vì một lý do nào đó mà họ
không biết. Vì vậy, họ sẽ điều chỉnh lại đánh giá của họ về
giá trị của cổ phiếu của chúng ta theo chiều hướng đi xuống
nghĩa là giá cổ phiếu sẽ giảm nhiều hơn. Cầu thì vẫn co
giãn, nhưng toàn bộ đường cong cầu sẽ đi xuống. Cầu co
giãn không ngụ ý là chúng ta có thể bán một lượng lớn cổ
phiếu sát với giá thị trường cho đến khi nào chúng ta có thể
thuyết phục các nhà đầu tư khác rằng chúng ta không có
thông tin riêng.
Sau đây là một trường hợp hỗ trợ cho quan điểm này: Trong
tháng 6/1977, Ngân hàng Anh Quốc đã đưa ra bán các cổ
phiếu của BP mà họ nắm giữ với giá 845 xu/cổ phiếu. Ngân
hàng sở hữu gần 67 triệu cổ phiếu của BP, vì vậy tổng giá
trị của số cổ phiếu họ nắm giữ là 564 triệu bảng Anh, hay
khoảng 970 triệu đô la. Đây là một số tiền khổng lồ mà
ngân hàng đề nghị công chúng tìm kiếm để mua cổ phiếu
BP.
114
Bất cứ ai muốn đặt mua cổ phiếu BP đã có khoảng gần hai
tuần để làm việc này. Ngay trước công bố của ngân hàng,
giá cổ phiếu BP là 912 xu. Trong hai tuần kế tiếp, giá sụt
xuống 898 xu, phần lớn ngang với thị trường vốn cổ phiếu
Anh. Vì vậy, vào ngày đặt mua cuối cùng chiết khấu do
ngân hàng đề nghị chỉ là 6%. Để đổi lại chiết khấu này, bất
kỳ người dự mua nào cũng phải tăng số tiền mặt cần thiết,
chấp nhận rủi ro là giá của cổ phiếu BP sẽ sụt giảm trước
khi biết kết quả của việc đăng ký mua, và đã phải chuyển
cho Ngân hàng Anh số cổ tức kế tiếp của BP.
Nếu cà phê Maxwell House được cung ứng với một chiết
khấu 6%, mức cầu sẽ không quá lớn. Nhưng chiết khấu của
cổ phiếu BP đủ để đưa số đăng ký mua cổ phiếu lên đến 4,6
tỷ đô la, gấp 4,7 lần số lượng cung ứng.
Chúng tha thừa nhận rằng trường hợp này có tính bất
thường về một phương diện nào đó nhưng một nghiên cứu
quan trọng của Myron Scholes về một mẫu lớn các cung
ứng lần thứ hai đã xác nhận khả năng của thị trường hấp thụ
một khối lượng lớn cổ phiếu. Tác động bình quân của các
cung ứng này là một sụt giảm nhẹ trong giá cổ phiếu, nhưng
sụt giảm này hầu như độc lập với số lượng cung ứng. Ước
tính của Scholes về độ co giãn của cầu cho cổ phiếu một
công ty là -3000. Dĩ nhiên, con số này không chắc chắn sẽ
115
chính xác, và một vài nhà nghiên cứu đã lập luận rằng cầu
không co giãn nhiều như nghiên cứu của Scholes cho thấy. 35
Tuy nhiên, có vẻ như có một sự nhất trí rộng rãi với quan
điểm chung là chúng ta có thể bán số lượng lớn cổ phiếu
với giá sát với giá thị trường, miễn là các nhà đầu tư khác
không suy diễn là chúng ta có một thông tin nào đó.
Ở đây, một lần nữa, chúng ta gặp phải một mâu thuẫn rõ rệt
với thực tế. Nhiều doanh nghiệp có vẽ tin rằng độ co giãn
của cầu không chỉ thấp mà còn thay đổi theo giá cổ phiếu,
vì vậy khi giá tương đối thấp, cổ phiếu mới chỉ có thể bán
được với một suất chiết khấu lớn ở thị trường chứng khoán
Mỹ. Các ủy ban điều phối tiểu bang và liên bang là những
cơ quan ấn định mức giá của các công ty điện thoại, các
công ty điện, và các công ty dịch vụ công ích địa phương,
đôi khi cho phép các tỷ suất tỷ suất sinh lợi cao hơn một
cách đáng kể để đền bù cho “áp lực” giá cả của các công ty
này. Áp lực này là sụt giảm trong giá cổ phiếu, được cho là
sẽ xảy ra khi cổ phiếu mới được cung ứng ra công chúng.
Tuy nhiên, Paul Asquith và Divid Mullins, là người đã tìm
kiếm chứng cứ của áp lực này, tìm thấy rằng phát hành cổ
phiếu mới của các công ty dịch vụ công ích đã chỉ đẩy giá
cổ phiếu của các công ty này xuống khoảng 0,9%.36
Chúng
ta sẽ trở lại chủ đề áp lực này khi trình bày về phát hành cổ
phiếu.
116
3.2 Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM)
Mô hình định giá tài sản vốn (Capital Asset Pricing
Model CAMP) là cốt lõi của lý thuyết kinh tế tài chính hiện
đại. Nhà kinh tế học Henry Markowitz là người đầu tiên đặt
nền móng cho lý thuyết đầu tư hiện đại vào năm 1952.
Mười hai năm sau, hai nhà kinh tế học William Sharpe,
John Lintner và Jan Mossin tiếp tục phát triển mô hình
CAMP lên một đỉnh cao mới.Mô hình cho chúng ta khả
năng dự đoán được mối quan hệ giữa rủi ro và lợi suất ước
tính. Việc nghiên cứu mô hình định giá tài sản CAMP có
những ý nghĩa quan trọng như sau:
- Cung cấp cho chúng ta một lãi suất chuẩn để đánh giá và
lựa chọn phương án đầu tư có hiệu quả cao.
- Giúp chúng ta có thể phán đoán được lợi suất kỳ vọng
đốivới những tài sản chưa giao dịch trên thị trường. Ví dụ,
nó giúp chúng ta có thể định giá được cổ phiếu lần đầu tiên
phát hành ra thị trường. Ảnh hưởng của một quyết định đầu
tư với thu nhập của nhà đầu tư được thể hiện trên giá cổ
phiếu của công ty như ra sao?
Mặc dù trên mô hình CAMP không luôn luôn đúng trong
mọi trường hợp nhưng nó vẫn được coi là phương pháp phổ
biến nhất vì cho kết quả chính xác trong nhiều ứng dụng
phân tích.
3.2.1- Những giả định kinh tế cho thị trƣờng vốn
117
Những lý thuyết về kinh tế là sự sự giải thích thực tiễn. Do
vậy, chúng cần dựa trên một số những giả định. Mặc dù có
một số giả định được đưa ra là không thực tế nhưng những
giả định này làm đơn giản hoá việc tính toán. Trong mô
hình định giá tài sản CAMP, các giả định được phân ra làm
hai loại : Giả định về thị trường vốn và giả định về tâm lý
của các nhà đầu tư
* Những giả định về tâm lý của các nhà đầu tƣ
+ Giả định 1 : Các nhà đầu tư khi đưa ra quyết định của
mình đều dựa trên việc phân tích hai yếu tố: lợi suất ước
tính và rủi ro của chứng khoán.
Giả định này cho chúng ta biết những nguyên nhân dẫn tới
quyết định đầu tư. Một nguyên tắc quan trọng trong việc lựa
chọn các phương án đầu tư là mức độ rủi ro càng cao thì lợi
nhuận càng lớn để bù đắp cho các rủi ro mà nhà đầu tư phải
chịu.Vì vậy,các nhà đầu tư này được gọi là những nhà đầu
tư thận trọng.
+ Giả định 2: Các nhà đầu tư sẽ tìm cách giảm rủi ro bằng
việc đầu tư vào nhiều chứng khoán khác nhau trong tập hợp
danh mục đầu tư của mình
+ Giả định 3: Trong một khoảng thời gian nhất định các
quyết định đầu tư được đưa ra và kết thúc. Khoảng thời gian
này không nhất thiết phải được cố định. Nó có thể được tính
bằng 6 tháng, 1 năm, 2 năm ... .
118
+ Giả định 4: Các nhà đầu tư có cùng một kỳ vọng về các
thông số đầu vào được sử dụng để tạo lập danh mục đầu tư
hữu hiệu Markowitz . Chúng là các thông số : mức lợi suất,
độ rủi ro hay các quan hệ tương hỗ.
* Những giả định về thị trƣờng vốn
+ Giả định 1: Thị trường vốn là thị trường cạnh tranh hoàn
hảo. Nghĩa là trên thị trường có rất nhiều người bán và
nhiều người mua. Không có một nhà đầu tư riêng lẻ nào có
thể chi phối được thị trường. Do vậy, họ không lũng đọan
được thị trường.Giá cả trên thị trường chỉ chịu ảnh hưởng
của quan hệ cung cầu.
+ Giả định 2: Không có các loại phí giao dịch trên thị
trường hay bất cứ một sự trở ngại nào trong việc cung và
cầu của một loại chứng khoán.
+ Giả định 3: Trên thị trường tồn tại các loại chứng khoán
không có rủi ro mà nhà đầu tư có thể đầu tư. Mặt khác, nhà
đầu tư có thể vay với lãi suất bằng lãi suất không rủi ro đó.
Nói cách khác, lãi suất vay và lãi suất cho vay bằng nhau và
bằng lãi suất không rủi ro.
* Danh mục đầu tƣ thị trƣờng (Market Portfolio)
Danh mục đầu tư thị trường là một danh mục đầu tư
bao gồm tất cả những tài sản có rủi ro trên thị trường và mỗi
119
tài sản trong danh mục này chiếm một tỷ lệ đúng bằng giá
thị trường của tài sản đó trong tổng giá trị của toàn bộ thị
trường.
Ví dụ : Nếu giá trị của VNM chiếm 2% toàn bộ tài
sản có nguy cơ rủi ro thì trong danh mục đầu tư thị trường,
giá trị cổ phiếu của VNM sẽ chiếm 2%.
Nếu một nhà đầu tư nắm trong tay danh mục đầu tư
thị trường sẽ dùng 2% của tổng số tiền định dùng vào đầu tư
các chứng khoán có nguy cơ rủi ro để đầu tư vào cổ phiếu
của công ty VNM.
Để việc nghiên cứu được đơn giản, khi nhắc đến khái
niệm tài sản có nguy cơ rủi ro (Risky Assets) thường được
hiểu là các cổ phiếu.
* Đường thị trường vốn (the Capital Market Line –
CML)
Mô hình định giá tài sản vốn CAMP của Markowitz,
căn cứ vào khả năng chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư ã
cung cấp cho cho chúng ta nguyên tắc chọn danh mục đầu
tư tối ưu, Áp dụng mô hình trên, nếu thị trường tồn tại loại
chứng khoán phi rủi ro ( với lãi suất phi rủi ro – Risk – free
Rate – RF) và giả thiết rằng cá nhân nhà đầu tư có thể vay
không hạn chế trên cơ sở lãi suất này (giả thuyết 3 của thị
trường vốn) thì kết quả về lý thuyết lựa chọn danh mục đầu
tư sẽ được mô tả như hình 3.1
120
Tỷ suất sinh lợi mong đợi
Đường CML
M
Pb
Rf Đường Markowit
Độ lệch chuẩn
Hình 3.1
Trên hình 3.1, đường CML tiếp tuyến với đường
cong Markowitz tại M. phiá bên trái của M biểu hiện sự kết
hợp đầu tư của những tài sản có khả năng rủi ro và tài sản
có lãi suất an toàn. Còn phiá bên phải của M biểu hiện
phương án mua những tài sản có khả năng rủi ro mà những
tài sản này được mua bằng tiền đi vay với lãi suất an toàn.
Chúng ta hãy so sánh giữa hai danh mục đầu tư : một
nằm trên đường thẳng PB và một nằm trên đường cong PA .
Hai danh mục đầu tư này có cùng khả năng rủi ro như nhau.
Pa
121
PB là sự kết hợp của phương án đầu tư giữa tài sản có
lãi suất an toàn và danh mục đầu tư tối ưu M. PB hưá hẹn
đem lại lãi suất cao hơn PA . Những nhà đầu tư không thích
rủi ro nhất định sẽ lựa chọn danh mục PB hiệu quả hơn PA .
Thực tế điều này rất đúng cho bất kỳ điểm nào nằm trên
đường thẳng đó chỉ duy nhất trừ điểm M vì nó nằm trên
đường cong tối ưu cuả Markowitz.
Chúng ta có thể khẳng định về lý thuyết lựa chọn
danh mục đầu tư ;nhà đầu tư sẽ chọn những danh mục đầutư
nằm trên đường cong tối ưu trong mô hình của Markowitz.
Vấn đề lựa chọn danh mục trong số đó phụ thuộc vào khả
năng chấp nhận rủi ro của mỗi nhà đầu tư. Trường hợp nhà
đầu tư có thể cho vay và đi vay theo lãi suất phi rủi ro (RF)
thì họ sẽ chọn một trong các danh mục đầu tư nằm trên
đường thẳng CML.
* Xây dựng công thức cho đƣờng CML:
Để rút ra công thức cho đường CML, chúng ta giả
thuyết rằng nhà đầu tư tạo dựng một danh mục đầu tư bao
gồm chứng khoán phi rủi ro (RF) với tỷ trọng vốn đầu tư
WF và danh mục thị trường M với tỷ trọng đầu tư WM.
a) Tỷ suất sinh lợi mong đợi của danh mục đầu tư :
Tỷ suất sinh lợi mong đợi của một danh mục gồm hai tài
sản rủi ro và tài sản phi rủi ro.Đây là bình quân tỷ trọng của
hai tỷ suất sinh lợi :
122
p
R = Wf Rf + WMRM
Trong đó : p
R là tỷ suất sinh lợi mong đợi của danh mục
đầu tư
Wf là tỷ trọng đầu tư vào tài sản phi rủi ro
WM là tỷ trọng đầu tư vào danh mục thị trường gồm
các tài sản rủi ro
Rf là tỷ suất sinh lợi của tài sản phi rủi ro
RM là tỷ suất sinh lợi của của các tài sản rủi ro
Ta có : Wf + WM = 100% = 1 hay là Wf = 1 - WM
Do đó : p
R = (1 – WM) Rf + WMRM = Rf + WM(RM – Rf)
(3.1)
b) Độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư :
Phương sai của danh mục đầu tư :
22
,
222 2 MMMfMfffp WWWW
Tài sản phi rủi ro có độ lệch chuẩn bằng 0.
2
p = 22
MMW
MMp W = (1 – Wf) M (3.2)
Như vậy độ lệch chuẩn của danh mục kết hợp giữa một tài
sản phi rủi ro với các tài sản rủi ro là tỷ lệ tuyến tính của độ
lệch chuẩn danh mục các tài sản rủi ro.
123
Từ (3.2) M
p
MW (3.3)
Thay (3.3) vào (3.1)
Ta có : p
R = Rf + M
p (RM – Rf) = Rf +(RM – Rf) M
p (3.4)
Phương trình (3.4) được biểu diễn bằng đường thẳng có tên
gọi là đƣờng thị trƣờng vốn CML (The capital market
line).(Hình 3.1) (Hình 3.2)
c) Kết hợp rủi ro và tỷ suất sinh lợi - Đường thị trường
vốn CML (The Capital Market Line) :
Vì cả tỷ suất sinh lợi và độ lệch chuẩn tỷ suất sinh lợi của
một danh mục là kết hợp tuyến tính. Hình 3.2
Dọc theo đường thẳng Rf - A chúng ta có thể đạt
được bất kỳ điểm nào bằng việc đầu tư một tỷ lệ danh mục
vào tài sản phi rủi ro Wf (tín phiếu kho bạc) và phần còn lại
(1 – Wf =WM) sẽ đầu tư vào danh mục tài sản rủi ro ở điểm
A trên đường biên hiệu quả. Các tập hợp có thể của danh
mục kết hợp có ưu thế hơn tất cả các danh mục tài sản rủi ro
trên đường hiệu quả bên dưới điểm A vì một danh mục nào
đó nằm trên đường Rf – A có cùng phương sai nhưng lại có
tỷ suất sinh lợi cao hơn tỷ suất sinh lợi của danh mục nằm
dưới điểm A trên đường biên hiệu quả ban đầu.
Tương tự, chúng ta có thể đạt được bất kỳ điểm nào
trên đường Rf – B bằng cách đầu tư vào các kết hợp tài sản
124
phi rủi ro và danh mục tài sản rủi ro ở tại điểm B. Theo đó,
các kết hợp tiềm năng này có ưu thế hơn tất cả các danh
mục nằm dưới điểm B trên đường biên hiệu quả ban đầu (kể
cả đường Rf – A). Chúng ta có thể vẽ các đường thẳng khác
từ Rf đến đường biên hiệu quả Markowitz ở các điểm ngày
càng cao hơn cho đến khi chúng ta đạt đến một điểm mà ở
đó đừơng thẳng này sẽ tiếp xúc với đường biên hiệu quả,
thể hiện ở điểm M trên hình 3.2. Tập hợp các danh mục
nằm trên đường Rf – M có ưu thế hơn tất cả các danh mục
nằm dưới điểm M. Chẳng hạn như chúng ta có thể đạt được
một kết hợp rủi ro và tỷ suất sinh lợi giữa điểm Rf và điểm
M (điểm C) bằng cách đầu tư một nửa vào tài sản phi rủi ro
(có nghĩa là cho vay tiền với lãi suất phi rủi ro Rf) và đầu tư
nửa kia vào danh mục tài sản rủi ro ở điểm M.
Các khả năng có thể có của rủi ro – tỷ suất sinh lợi trong
trƣờng hợp có sử dụng đòn bẩy. Một nhà đầu tư có thể
muốn đạt được một tỷ suất sinh lợi cao hơn tại điểm M
nhưng phải chấp nhận mức độ rủi ro cao hơn. Cách thứ nhất
là đầu tư vào một trong số số các danh mục tài sản rủi ro
trên đường biên hiệu quả nằm xa danh mục tại điểm M
chẳng hạn như danh mục tại điểm D. Cách thứ hai là sử
dụng đòn bẩy tài chính bằng cách đi vay ở lãi suất phi rủi ro
và đầu tư số tiền này vào danh mục tài sản rủi ro M.
Như vậy cả tỷ suất sinh lợi và rủi ro đều tăng theo đường
thẳng tuyến tính Rf – M ban đầu và mở rộng về phía bên
phải. Các điểm nằm trên đường mở rộng này có ưu thế hơn
mọi điểm nằm trên đường biên hiệu quả Markowitz. Do đó,
125
chúng ta có được một đường hiệu quả mới : đó là đường
thẳng từ Rf tiếp xúc với điểm M. Đường thẳng này được
xem là đường thị trường vốn CML và được thể hiện trong
hình 3.2 với phương trình đã được xét ở trên là :
pR = Rf + (RM – Rf)
M
p phản ánh quan hệ giữa rủi ro và tỷ
suất sinh lợi của danh mục đầu tư gồm tài sản phi rủi ro và
danh mục tài sản rủi ro.
Vì đường CML là đường thẳng đi lên, nên tất cả các danh
mục trên đường CML có tương quan dương hoàn toàn với
nhau. Mối tương quan dương này ngược lại với các quan sát
của chúng ta vì tất cả các danh mục trên đường CML là kết
hợp danh mục tài sản rủi ro M và một tài sản phi rủi ro. Bạn
có thể đầu tư một phần vào tài sản phi rủi ro (tín phiếu kho
bạc) (có nghĩa là bạn cho vay với lãi suất phi rủi ro Rf) và
phần còn lại đầu tư vào danh mục tài sản rủi ro M, hoặc đi
vay với lãi suất phi rủi ro Rf và đầu tư phần tiền này vào
danh mục tài sản rủi ro. Trong cả hai trường hợp, tất cả tính
khả biến của danh mục bắt nguồn từ danh mục tài sản rủi ro
M. Sự khác biệt duy nhất giữa các danh mục khác nhau trên
đường CML là độ lớn của tính khả biến, tính khả biến này
do tỷ lệ phần trăm của danh mục tài sản phi rủi ro trong
danh mục kết hợp gây ra.
Vì danh mục M nằm tại điểm tiếp tuyến nên nó có khả năng
kết hợp của các danh mục cao nhất và mọi nhà đầu tư đều
126
muốn đầu tư vào danh mục M và đi vay hoặc cho vay để đạt
được một điểm nào đó trên đường CML.
Hình 3.2 : Các khả năng danh mục khi kết hợp một tài
sản phi rủi ro với các danh mục tài sản khác nhau trên
đƣờng biên hiệu quả Markovitz. Đƣờng thị trƣờng vốn
CML với giả định vay và cho vay với lãi suất phi rủi ro
* Ý nghĩa của đƣờng thị trƣờng vốn :
A
B C
D M
Rf
Độ lệch chuẩn
Tỷ suất sinh lợi mong đợi
CML
Cho vay
Đi vay
127
Trong phần trên, chúng ta đã giả thiết các nhà đầu tư có
cùng thông số đầu vào của mô hình định giá tài sản vốn (giả
thuyết 4). Với sự đồng nhất về khả năng thu được lợi nhuận,
độ lệch chuẩn của thị trường ( M) và độ lệch chuẩn của
danh mục đầu tư P( P); sự nhất quán của thị trường trong
việc đánh giá lợi suất của danh mục thị trường và danh mục
đầu tư P, độ nghiêng của đường CML là ;
Rm – RF
M
+ Xét về ý nghĩa kinh tế :
Tử số thể hiện phần vượt trội của lợi suất ước tính
thu được từ đầu tư vào chứng khoán rủi ro (danh mục thị
trường) so với mức lợi suất thu được từ việc đầu tư vào
chứng khoán phi rủi ro (tín phiếu Kho bạc). Nói cách khác,
đây là phần bù đắp rủi ro của việc nắm giữ chứng khoán rủi
ro thay cho chứng khoán phi rủi ro.
Mẫu số thể hiện mức độ rủi ro của danh mục đầu tư
thị trường.
Như vậy, độ dốc của đồ thị biểu hiện mức độ bù đắp
thu nhập cho mỗi đơn vị rủi ro của thị trường, vì đường
CML biểu hiện mức lợi suất có thể nhận được cho mỗi mức
độ rủi ro mà nhà đầu tư chấp nhận. Mỗi điểm trên đường
128
thẳng thể hiện trạng thái cân bằng của thị trường ở các cấp
độ khác nhau. Độ dốc đường CML quyết định thu nhập phụ
trội cần thiết để bù đắp cho mỗi đơn vị thay đổi trong rủi ro
mà nhà đầu tư phải gánh chịu. Đó chính là lý do để coi
đường CML là giá trị thị trường của rủi ro ( Market Price of
risk)
3.2.2 Hệ số beta
Hệ số beta của một cổ phiếu là một chỉ số nêu lên
mức độ thu nhập của cổ phiếu đó thay đổi khi có sự thay đổi
về lãi suất của thị trường.
Lãi suất thị trường được đo bằng lãi suất trung bình
của một tập hợp những cổ phiếu lớn đang giao dịch trên thị
trường. Hệ số beta của thị trường bằng 1 và hệ số beta của
các chứng khoán khác được xem xét xoay quanh giá trị này.
Ví dụ, nói cổ phiếu A có hệ số beta = 0,72 có nghĩa
là nếu thu nhập của thị trường tăng lên 1% vào tháng tới thì
chúng ta có thể mong đợi lãi suất của cổ phiếu A tăng lên
0,72%.
Hệ số beta có thể là số dương hoặc một số âm, cổ
phiếu có hệ số beta là dương thì thu nhập của nó có mối
quan hệ thuận chiều với thu nhập của thị trường và ngược
lại. Theo thống kê, phần lớn các cổ phiếu có hệ số beta
mang giá trị dương.
129
Chứng khoán có hệ số càng cao thì yêu cầu lợi suất
càng cao.
* Một số tính chất của hệ số beta:
+ Những chứng khoán không có rủi ro thì có hệ số beta = 0
Nếu J = 0 : lợinhuận kỳ vọng của chứng khoán có J = 0
chính là lợi nhuận không rủi ro (kF) bởi vì trong trường hợp
này :
j
R = RF + J [MR – RF]
Mà J = 0 nên j
R = RF
Như vậy, lợi suất của chứng khoán không có rủi ro
chính bằng lợi suất của tín phiếu kho bạc (T-bill) không rủi
ro.
+ Danh mục đầu tư thị trường có hệ số beta = 1
Hệ số beta của danh mục thị trường được xác định
như sau :
M= MM
=
2M
= 1 2
M 2
M
(Ghi chú E(RM) = MR )
130
Do vậy : E(RM) = RF + 1 [E(RM) – RF] = (RM)
+ Nếu chứng khoán J nào đó có hệ số beta giống
như danh mục đầu tư thị trường (bằng 1) thì lợi suất ước
tính (lợi suất kỳ vọng) của nó bằng lợi suất ước tính của
danh mục thị trường.
Nếu J = 1 : Lợi nhuận kỳ vọng của chứng khoán J
= 1 chính là lợi nhuận thị trường E(RM) , bởi vì trong trường
hợp này :
E(RJ) = RF + J [E(RM) – RF] = RF + [E(RM) – RF]
= E(RM)
Trường hợp này, lợi suất ước tính của chứng khoán J
bằng lợi suất ước tính của danh mục thị trường. Nếu một
chứng khoán có hệ số lớn hơn của danh mục thị trường
( J > 1) thì có nghĩa nó có rủi ro cao hơn và dẫn đến lợi
suất kỳ vọng sẽ lớn hơn lợi suất của danh mục thị trường và
ngược lại.
+ Quan hệ tuyến tính : Quan hệ giữa lợi nhuận cổ
phiếu và hệ số rủi ro của nó là quan hệ tuyến tính được diễn
tả bằng đường SML có hệ số góc: E(RM) = RF
+ Beta của một danh mục đầu tư tính theo công thức:
P = W1 1 + W2 2 + ... + Wn n
131
P =
n
Wj j
j=1
Trong đó:
Wj : Tỷ trọng của chứng khoán J trong danh mục
(bằng tỷ lệ của giá trị thị trường của chứng khoán J trên
tổng giá trị thị trường của danh mục đầu tư có số lượng n
chứng khoán)
Vì vậy, rủi ro hệ thống của một danh mục đầu tư là
giá trị bình quân gia quyền cuả rủi ro hệ thống của từng
chứng khoáng riêng lẻ nằm trong danh mục đầu tư đó. Điều
này cũng có nghĩa là beta của một danh mục đầu tư có chưá
tất cả các chứng khoán (danh mục thị trường M) thì bằng 1
* So sánh giữa SML và CML:
CML thể hiện mối tương quan giữa lợi suất với rủi ro
của những danh mục tổng thể hiệu quả. SML thể hiện mối
quan hệ hàm số bậc nhất giữa lợi suất và rủi ro của từng
chứng khoán riêng lẻ.
Rủi ro hệ thống là mối quan tâm đốivới các nhà đầu
tư vì chúng không thể loại bỏ được bằng biện pháp đa dạng
hoá danh mục đầu tư.
Hệ số của một chứng khoán hay một danh mục đầu
tư là chỉ số rủi ro của hệ thống tài sản đó và được xác định
132
bằng phương pháp thống kê. Hệ số được tính toán dựa
trên số liệu quá khứ về lợi suất đầu tư của chứng khoán đó
và lợisuất của danh mục thị trường.
3.2.3- Quan hệ giữa lý thuyết thị trƣờng vốn và mô hình
định giá tài sản vốn CAPM :
Phương trình đường thị trường vốn CML : p
R = Rf + (RM
– Rf) M
p phản ánh mối quan hệ giữa rủi ro và tỷ suất sinh
lợi mong đợi của danh mục đầu tư.
Giả sử chúng ta thay danh mục đầu tư bằng một chứng
khoán cá biệt j, thì phương trình trên có thể viết thành :
jR = Rf + (RM – Rf)
M
j (3.5)
Đặt j = M
j thì j
R = Rf + (RM – Rf) j (3.6)
Như vậy, phương trình (3.6) chính là phương trình biểu diễn
đường thị trường chứng khoán SML. Do đó, có thể kết luận
rằng mô hình định giá tài sản vốn chỉ là một trường hợp đặc
biệt của lý thuyết thị trường vốn mà thôi.
3.2.4 MÔ HÌNH CAPM TRONG ĐIỀU KIỆN THỊ
TRƢỜNG VỐN VIỆT NAM
Việc ứng dụng các mô hình CAPM để dự báo tỷ suất sinh
lợi chứng khoán là rất cần thiết đối với các nhà đầu tư mang
tính chuyên nghiệp đối với hầu hết các thị trường vốn trên
thế giới và Việt Nam . Tuy nhiên, Thị trường vốn Việt Nam
mới được hình thành từ tháng 7 năm 2000 và cho đến nay
133
thị trường vốn Việt Nam vẫn chưa được phát triển, những
diễn biến trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời
gian qua là bằng chứng hiển nhiên cho việc thiếu vắng các
công cụ dự báo này. Đa số các nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán Việt Nam hiện nay đều thực hiện quyết định
đầu tư một cách cảm tính. Liệu có khả năng ứng dụng một
mô hình CAPM dự báo tỷ suất sinh lợi trên thị trường
chứng khoán Việt Nam hiện nay? Quả thật vấn đề áp dụng
CAPM ở Việt Nam còn rất nhiều khó khăn và trở ngại.
-Thứ nhất, hàng hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam
quá ít về chủng loại, nghèo nàn về số lượng và đặc biệt là
thiếu các hàng hóa cao cấp để các nhà đầu tư có thể yên tâm
đầu tư lâu dài. Mặc dù đã có những giải pháp và nỗ lực từ
phía Nhà nước nhằm tạo thêm sự phong phú về hàng hóa
cho thị trường chứng khoán nhưng hiệu quả thực sự là chưa
cao. Vì thế, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa hấp dẫn
các nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư chuyên nghiệp
và có nguồn lực tài chính lớn.
-Thứ hai, mô hình CAPM là mô hình dưới dạng một
hàm hồi quy trong đó biến độc lập là tỷ suất sinh lợi của
danh mục đại diện cho toàn bộ thị trường, còn biến phụ
thuộc là tỷ suất sinh lợi của chứng khoán cá biệt. Hiện nay
tại các nước phát triển trên thế giới vì thị trường chứng
khoán bao gồm rất nhiều chứng khoán khác nhau nên người
ta coi danh mục thị trường đồng nghĩa với danh mục cổ
phiếu lập chỉ số chính của thị trường cổ phiếu, chẳng hạn
như ở Mỹ là S & P 500, ở Pháp là CAC 40, ở Nhật là
Nikkei 225, còn ở Việt Nam chỉ có chỉ số VN Index. Tuy
nhiên hiện nay ở Việt Nam số lượng công ty và ngân hàng
niêm yết chưa nhiều nên chưa thể xem như là danh mục đại
diện cho toàn bộ thị trường.
134
-Thứ ba, là CAPM sử dụng hệ số bêta để liên kết khả năng
sinh lợi với hệ số Beta. Coi Beta là phương tiện để đo rủi ro
không phân tán được. Thế nhưng Việt Nam hiện nay đang
tồn tại một vấn đề lớn nữa là sự thiếu vắng hệ số Beta trong
việc phân tích rủi ro của các chứng khoán. Nói cách khác,
các nhà đầu tư chưa chú trọng đến hệ số Beta trong việc
đánh giá chứng khoán. Hiện nay, trên website các công ty
chứng khoán có liệt kê những tỷ số cơ bản về tài chính và
so sánh với tỷ số trung bình thị trường. Một số trang web
cũng đề cập đến hệ số Beta trong danh mục khái niệm các
chỉ số tài chính cần phân tích nhưng chưa thực sự có ý định
sử dụng nó. Phần lớn chỉ là nêu những chỉ số tài chính
chung có liên quan đến doanh lợi như chỉ số lợi nhuận/vốn
(ROE), lợi nhuận thuần/doanh thu, lợi nhuận/tài sản, hoặc
liên quan đến tình hình vay nợ như tổng vay nợ trên vốn
hoặc liên quan đến giá chứng khoán và lợi nhuận như P/E,
ngoài ra không thấy những chỉ số như tỷ số giá thị trường so
với giá sổ sách (PBV), beta…Có thể nói rằng ở Việt Nam
hiện nay chưa có một tổ chức nào chuyên về vấn đề tính
toán và công bố Beta. Trong thực tế, hiện nay Beta của các
công ty niêm yết cũng đã được một số chuyên gia đang
nghiên cứu về vấn đề này quan tâm tính toán tuy nhiên chưa
đảm bảo được tính chuyên nghiệp như những nhà cung cấp
dịch vụ là Value Line Investment Survey, Market Guide và
Standard & Poor's Stock Reports ở Mỹ hay Burns Fry
Limited ở Canada. Do sự tác động của nhiều nhân tố phi thị
trường nên vai trò của Beta ở Việt Nam còn tương đối hạn
chế. Tuy nhiên, khi danh mục thị trường ngày càng hoàn
thiện, Beta sẽ phát huy tác dụng và theo kịp với sự phát
triển của thị trường. Thông qua hệ số Beta và các tỷ số thị
trường khác như như tỷ số giá trên thu nhập (P/E) và giá trị
thị trường trên giá trị sổ sách (PBV)…, doanh nghiệp sẽ
135
nhìn nhận rõ hơn về rủi ro và năng lực cạnh tranh của chính
bản thân mình. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cũng có điều
kiện để ứng dụng những kỹ thuật phân tích và dự báo một
cách hiệu quả hơn, gần với kỳ vọng hơn. Khi tính toán và
sử dụng hệ số Beta, việc nghiên cứu và sử dụng những mô
hình dự báo sẽ trở thành hiện thực hơn chứ không nằm trên
lý thuyết nữa.
-Thứ tư, mô hình CAPM ở thị trường chứng khoán Việt
Nam chỉ vận hành tốt khi các nhà đầu tư có được thông tin
ngang bằng nhau, thông tin không bị rò rỉ và vì thế minh
bạch hóa thông tin là điều kiện tiên quyết để phát triển thị
trường chứng khoán. Đây chính là nguyên tắc công khai,
được coi là một nguyên tắc quan trọng nhất của thị trường
chứng khoán. Có thể nói, nếu không có một hệ thống công
bố thông tin hoạt động theo đúng yêu cầu thì thị trường
chứng khoán không thể vận hành được. Thị trường chứng
khoán Việt Nam còn nhỏ bé và sơ khai. Tuy nhiên, các văn
bản pháp quy điều chỉnh vấn đề công bố thông tin trên thị
trường chứng khoán đã và đang được xây dựng nhằm đảm
bảo nguyên tắc công khai, minh bạch thông tin trên thị
trường và duy trì củng cố lòng tin của nhà đầu tư.
Tóm lại, mô hình CAPM nhằm mục đích giúp cho nhà đầu
tư có những dự báo bổ sung cần thiết cho hoạt động kinh
doanh của mình trên thị trường chứng khoán Việt Nam –
một thị trường mới nổi với những rủi ro và hạn chế. Tuy
nhiên, việc ứng dụng mô hình này sẽ có những hạn chế nhất
định trong thực tiễn. Thông qua những hạn chế này, chúng
tôi mong muốn nêu ra một vài vấn đề bức thiết mà chúng ta
phải nhìn nhận và giải quyết một cách triệt để nhằm tạo tiền
đề cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
trong thời gian sắp tới.
136
Bảng 3.1 : Hệ số beta, rủi ro tổng thể và rủi ro phi hệ thống
của các cổ phiếu tính theo ngày qua 4 năm (7.2000-7.2004)
Công
ty
Hệ số
beta
(b)
Rủi ro
tổng
thể
(d2)
(%)
Rủi ro
thị
trường
(dM2)
(%)
Rủi ro
phi hệ
thống
(de2 =
d2 -
b2dM2)
(%)
% của
rủi ro
phi hệ
thống /
rủi ro
tổng
thể (%)
Hệ số
tương
quan với
thị
trường
Số
phiên
giao
dịch
1 2 3 4 5 6=5/3 7 8
REE
SAM
HAP
TMS
LAF
SGH
CAN
DPC
BBC
TRI
GIL
BTC
BPC
1,088
1,010
0,861
0,956
0,809
0,658
0,827
0,794
1,121
0,855
0,896
0,462
0,824
0,047
0,041
0,054
0,052
0,049
0,052
0,029
0,030
0,035
0,027
0,027
0,035
0,028
0,031
0,031
0,031
0,031
0,032
0,028
0,013
0,013
0,012
0,012
0,012
0,012
0,012
0,010
0,009
0,031
0,023
0,028
0,040
0,020
0,022
0,020
0,018
0,017
0,033
0,020
21,8
21,7
57,3
44,8
57,3
77,1
68,8
73,1
56,4
66,8
64,2
92,8
72,1
0,886
0,886
0,654
0,744
0,654
0,479
0,559
0,520
0,662
0,577
0,600
0,269
0,529
839
839
836
836
780
694
652
636
627
623
621
613
570
137
BT6
GM
D
AGF
SAV
TS4
KHA
HAS
VTC
PMS
BBT
DHA
1,080
0,893
0,777
1,046
0,724
0,838
0,735
0,863
0,897
1,120
0,468
0,026
0,019
0,020
0,025
0,041
0,027
0,032
0,039
0,043
0,046
0,022
0,012
0,012
0,012
0,012
0,012
0,012
0,014
0,015
0,023
0,009
0,006
0,012
0,010
0,013
0,012
0,034
0,019
0,024
0,027
0,024
0,034
0,021
47,2
50,5
64,2
49,3
84,1
68,0
75,4
70,8
56,2
74,1
94,2
0,728
0,705
0,599
0,713
0,400
0,567
0,498
0,542
0,666
0,514
0,245
565
563
558
553
489
482
395
365
181
95
73
Trung
bình
0,035 0,017 0,022 62,8 0,591
Nguồn:Tính toán từ số liệu tập hợp từ
ttp://www.chungkhoandenhat.com,
http://www.vcbs.com.vn …
138
CHƢƠNG 4: PHÂN TÍCH CƠ BẢN; PHÂN TÍCH
KỸ THUẬT VÀ PHÂN TÍCH ĐẦU TƢ CỔ PHIẾU,
TRÁI PHIẾU
44..11 PPHHÂÂNN TTÍÍCCHH CCƠƠ BBẢẢNN
Phân tích cơ bản là quá trình đánh giá quá khứ, triển
vọng tương lai và tiềm năng sinh lời của công ty. Phân tích
cơ bản là nghiên cứu xác định giá trị của công ty, các yếu tố
ảnh hưởng đến giá trị của công ty, các yếu tố ảnh hưởng đến
giá giao dịch cổ phiếu của công ty trên thị trường … Phân
tích cơ bản được thực hiện bằng cách nghiên cứu các báo
cáo tài chính của công ty, tìm hiểu xu hướng lợi tức, tìm
hiểu các tỷ số phản ảnh khả năng sinh lời, lãi suất đầu tư.
Phân tích cơ bản rất cần thiết vì:
+ Phân tích cơ bản để biết tỷ lệ tăng trưởng của công ty
trong quá khứ để có thể dự đoán mức tăng trưởng
của công ty trong tương lai.
+ Phân tích cơ bản để biết tỷ số phản ánh khả năng
sinh lời và tỷ số phản ánh doanh lợi để xác định được
liệu công ty có bị đánh giá thấp hơn hoặc cao hơn giá
trị thực của nó căn cứ vào tình hình của toàn bộ thị
trường và các loại cổ phiếu tương tự cùng trong khu
vực kinh doanh
+ Phân tích cơ bản để biết được sức cạnh tranh về tài
chính của công ty xem công ty vững mạnh đến mức
nào, liệu có vượt qua được một năm kinh doanh yếu
kém hoặc qua một cuộc suy thoái kinh tế không, Nội
dung phân tích cơ bản thể hiện qua phân tích các chỉ
số sau:
139
Thí dụ: Tại Công ty ABC có tài liệu sau:
BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TÓAN (Đơn vị 1.000.000 đ)
Tài sản 2005 2006 Nguồn vốn 2005 2006
A. TÀI SẢN NGẮN HẠN 850 1050 A. NỢ PHẢI TRẢ 1000 1100
1. Tiền 300 350 1.Nợ ngắn hạn 600 750
-Tiền mặt tại quỹ 200 150 -Vay ngắn hạn 200 260
-Tiền gửi ngân hàng 100 200 -Nợ dài hạn đến hạn trả 130 80
2. Các khoản phải thu 250 300 Phải trả người bán 100 150
-Phải thu của khách hàng 150 220 -Phải trả công nhân viên 90 140
-Trả trước cho người bán 100 80 -Thuế và các khoản phải nộp 80 120
3. Hàng tồn kho 200 250 2. Nợ dài hạn 400 350
-Nguyên vật liệu tồn kho 80 150 -Vay dài hạn 400 350
-Thành phẩm tồn kho 120 100
4. Tài sản lưu động khác 100 150
B. TÀI SẢN DÀI HẠN 1300 1600 B. NGUỒN VỐN CHỦ SH 1150 1550
1.Tài sản cố định hữu hình 900 1100 1. Vốn chủ sở hữu 950 1250
-Nguyên giá 1300 1750 -vốn kinh doanh (CP thường) 450 600
-Hao mòn luỹ kế -400 -650 -Cổ phần ưu đãi 220 300
140
2. Tài sản cố định vô hình 400 500 -Thặng dư vốn 200 250
-Nguyên giá 600 750 -Lợi nhuận chưa phân phối 80 100
-Hao mòn luỹ kế -200 -250 2. Nguồn kinh phí, quỹ khác 200 300
Quỹ dự phòng tài chính 90 130
-Quỹ khen thưởng, phúc lợi 110 170
Tổng tài sản 2150 2650 Tổng nguồn vốn 2150 2650
Ghi chú:
Mệnh giá cổ phiếu thường 10.000/cổ phiếu
2005số lượng cổ phiếu thường đang lưu hành 10.000*45.000.000 cổ phiếu thừong
Năm 2005 số lượng cổ phiếu ưu đãi đang lưu hành 10.000*22.000.000cổ phiếu ưu đãi
Tương tự năm 2006 số lượng cổ phiếu thường lưu hành 60.000.000 CP; số lượng cổ
phiếu ưu đãi 30.000.000 cổ phíếu
BẢNG BÁO CÁO THU NHẬP CÔNG TY ABC
Đơn vị 1.000.000
Chỉ tiêu 2005 2006
1. Doanh thu tiêu thụ thuần 3010 4240
141
-Giá vốn hàng bán 1806 2756
2. Lợi nhuận gộp 1204 1484
+Chi phí bán hàng 796 965
+Chi phí quản lý doanh nghiệp 177 223
3. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh 231 296
-Thu nhập từ hoạt động tài chính 20 24
-Chi phí từ hoạt động tài chính (Lãi vay) 10.2 12
4. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính 9.8 12
Thu nhập khác 5.5 7
Chi phí khác 1.3 2
5. Lợi nhuận khác 4.2 5
6. Lợi nhuận trước thuế 245 313
7. Thuế thu nhập doanh nghiệp 68.6 87.64
8. Lợi nhuận ròng 176.4 225.36
142
4.1.1. Chỉ tiêu tổng quát:
a. TỈ TRỌNG TÀI SẢN
NGẮN HẠN =
TS NGẮN HẠN
TỔNG TS TỔNG TÀI SẢN
NĂM 2006 = TS NGẮN HẠN
= 1050
= 0.39 TỔNG TÀI SẢN 2650
NĂM 2005 = TS NGẮN HẠN
= 850
=0.39 TỔNG TÀI SẢN 2150
c. TỈ TRỌNG TÀI SẢN DÀI HẠN
= TS DÀI HẠN
TỔNG TS TỔNG TÀI SẢN
NĂM 2006 = TS DÀI HẠN
= 1300
=0.60 TỔNG TÀI SẢN 2150
NĂM 2006 = TS DÀI HẠN
= 1600
=0.60 TỔNG TÀI SẢN 2650
143
44..11..22 CChhỉỉ ssốố tthhaannhh kkhhooảảnn
Chỉ ra khả năng công ty đáp ứng nợ ngắn hạn cũng như
chuyển tài sản hiện thời thành tiền mặt để trả nợ
a) Chỉ tiêu vốn hoạt động thuần
Chỉ tiêu vốn hoạt động thuần là số vốn chủ sở hữu
tham gia vào vào tài sản ngắn hạn. Số tiền này nhằm duy trì
mức độ hữu hiệu của vốn hoạt động. Đảm bảo điều này cho
phép công ty nâng cao khả năng thanh toán những món nợ
đến hạn.
Vốn họat động thuần 2006 = 1050 - 750 =300
Vốn họat động thuần 2005 = 850 - 600 =250
b) Chỉ tiêu thanh toán hiện hành (Rc)
Chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành cho thấy
doanh nghiệp có bao nhiêu tài sản có thể chuyển đổi thành
tiền mặt để đảm bảo thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn.
Chỉ tiêu này đo lường khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này được chấp nhận hay không tuỳ thuộc vào sự so
sánh với tỷ số thanh toán trung bình ngành mà doanh
nghiệp đang kinh doanh hoặc so sánh với các năm trước để
thấy sự tiến bộ hoặc giảm sút
Nếu chỉ tiêu Rc giảm cho thấy khả năng thanh toán
giảm và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn về tài
chính sẽ xảy ra.
Vốn hoạt động thuần = Toàn bộ tài sản ngắn hạn – Toàn bộ nợ ngắn hạn
144
haïnngaén nôï boäToaøn
haïnngaén saûn taøi boäToaøn
cR
CHỈ TIÊU THANH
TÓAN HIỆN HÀNH
= TÀI SẢN NGẮN HẠN
NỢ NGẮN HẠN
NĂM 2005 =
TÀI SẢN NGẮN
HẠN = 850 =1.416
NỢ NGẮN HẠN 600
NĂM 2006 = TÀI SẢN NGẮN HẠN
= 1050
=1.4 NỢ NGẮN HẠN 750
Nếu chỉ tiêu Rc khá cao và tăng nghĩa là công ty
luôn sẵn sàng thanh toán các khoản nợ. Tuy nhiên nếu Rc
quá cao sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn vì công ty đầu
tư quá nhiều vào tài sản ngắn hạn, tức là công ty quản lý tài
sản ngắn hạn chưa có hiệu quả. Theo quan điểm của nhiều
nhà phân tích, xu hướng của phân tích chỉ số Rc ở mức độ
an toàn trong khoảng 2,0
c) Chỉ số khả năng thanh toán nhanh (Rq)
Chỉ số khả năng thanh toán nhanh (Rq) là chỉ tiêu
được tính toán dựa trên những tài sản ngắn hạn có thể
nhanh chóng được chuyển đổi thành tiền, bao gồm tất cả
các tài sản lưu động trừ hàng tồn kho
haïnngaén nôï boäToaøn
khotoàn Haøng - haïnngaén saûn taøi boäToaøn
qR
145
d) Chỉ số thanh khoản (k)
Chỉ số thanh khoản là chỉ tiêu đánh giá chính xác nhất
khả năng thanh toán nợ đến hạn của công ty, đánh giá ngân
quỹ mà công ty có thể sử dụng tức thời
haïnngaén nôï boäToaøn
tröôøng thò treân c ñöôï baùntheå coù khoaùnchöùng Caùc Tieàn k
Nếu k >1: tốt
k<1: có khó khăn
k=1: bình thường
e) Lưu chuyển tiền tệ (dòng lưu kim)
CHỈ TIÊU THANH
TÓAN =
NHANH Rq
TÀI SẢN NGẮN HẠN –
HÀNG TỒN KHO
NỢ NGẮN HẠN
NĂM 2005 =
TÀI SẢN NGẮN HẠN –
HÀNG TỒN KHO = 650 =1.0833
NỢ NGẮN HẠN 600
NĂM 2006 =
TÀI SẢN NGẮN HẠN – HÀNG TỒN KHO = 800 =1.0666
NỢ NGẮN HẠN 750
146
Dòng lưu kim phản ánh số tiền phát sinh từ hoạt
động của công ty. Chỉ tiêu này đánh giá khả năng thanh
toán những chi phí hiện hành của công ty như việc thanh
toán cổ tức
naêm haøng hao khaáu (loã) roøngnhuaän Lôïi teä tieàn chuyeån Löu
Nếu lưu chuyển tiền tệ dương cho thấy công ty có
thu nhập đủ để chi trả các chi phí cổ tức
Nếu lưu chuyển tiền tệ âm có nghĩa rằng công ty bị
thua lỗ và có thể gặp khó khăn trong thanh toán nợ ngắn
hạn.
44..11..33.. CChhỉỉ ssốố vvềề kkhhảả nnăănngg ttạạoo vvốốnn
a) Chỉ số trái phiếu
Chỉ số trái phiếu chỉ ra số vốn huy động là trái phiếu
chiếm bao nhiêu phần trăm trong toàn bộ vốn dài hạn
haïndaøi voán boäToaøn
phieáutraùi giaù Meänh phieáutraùi soá Chæ
b) Chỉ số cổ phiếu ưu đãi
Chỉ số cổ phiếu ưu đãi chỉ ra số vốn huy động từ cổ
phiếu ưu đãi chiếm bao nhiêu phần trăm trong toàn bộ vốn
dài hạn
147
haïndaøi voán boäToaøn
ñaõi öu phieáucoå giaù Meänh ñaõi öu phieáucoå soá Chæ
c) Chỉ số cổ phiếu thường
Chỉ số cổ phiếu thường cho biết số vốn dài hạn huy
động được từ cổ phiếu thường chiếm bao nhiêu phần trăm
trong toàn bộ vốn dài hạn
haïndaøi voán boäToaøn
laïi giöõ nhaäp thu
voán dö thaëng thöôøng phieáucoå giaù Meänh
thöôøng phieáucoå soá Chæ
Nếu chỉ số trái phiếu chiếm tỷ trọng lớn chứng tỏ trái
phiếu đang lưu hành cao, được xem như cán cân nợ của
công ty lớn. Điều này ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của
công ty bị ảnh hưởng lớn vào sự thay đổi của lãi suất.
d) Chỉ số nợ trên vốn cổ phần
Chỉ số nợ trên vốn cổ phần là tỷ lệ giữa trái phiếu và
cổ phiếu ưu đãi trên cổ phiếu thường.
laïi giöõ nhaäp thu
voán dö thaëng thöôøng phieáucoå giaù Meänh
ñaõi öu phieáuCoå phieáuTraùi
phaàncoå voán treân nôï soá Chæ
4.1.4 Chỉ số bảo chứng
Chỉ số bảo chứng còn gọi là chỉ số trang trải, nhằm đo
lường khả năng của công ty để đáp ứng việc trả lãi cho các
trái chủ và trả cổ tức cho các cổ đông ưu đãi
148
a) Hệ số thanh toán lãi trái phiếu
Hệ số thanh toán lãi trái phiếu là tỷ lệ giữa lợi nhuận
trước khi trả lãi và thuế với tiền lãi trái phiếu phải trả hàng
năm.
naêm haøng
traû phaûi phieáutraùi Laõi
(EBIT) vay laõi
vaø thueá tröôùc nhuaän Lôïi
phieáutraùi laõi toaùn thanh soá Heä
Hệ số trên quá thấp sẽ không đáp ứng thanh toán tiền
lãi cho các trái chủ làm cho công ty thất bại trong việc vay
nợ. Hệ số này cho thấy mức độ an toàn trong thanh toán lãi
cho các trái chủ. Khi công ty thiếu khả năng thanh toán lãi
cho các trái chủ sẽ đặt công ty vào tình trạng mất khả năng
thanh toán nợ.
HSỐ THANH TÓAN
LÃI TRÁI PHIẾU 2006
=
EBIT =
325 =27.08
LÃI TRÁI PHIẾU PHẢI TRẢ HÀNG NĂM 12
HSỐ THANH TÓAN LÃI TRÁI PHIẾU
2005
=
EBIT = 255.2 =25.02
LÃI TRÁI PHIẾU PHẢI TRẢ HÀNGNĂM 10.2
EBIT 4276
149
b) Hệ số thanh toán cổ tức ưu đãi
ñaõi öutöùc Coå
thueá sau nhuaän Lôïi ñaõi löu töùc coå toaùn thanh soá Heä
Hệ số này cho thấy mức độ an toàn trong viêc thanh
toán cổ tức cho các cổ đông. Khi công ty không đủ khả
năng thanh toán cổ tức cho cổ đông, sẽ đặt công ty vào tình
trạng mất khả năng thanh toán nợ và ảnh hưởng đến giá trị
cổ phiếu ưu đãi trên thị trường
44..11..55 CChhỉỉ ssốố vvềề kkhhảả nnăănngg llợợii nnhhuuậậnn vvàà ssửử ddụụnngg ttààii
ssảảnn
Việc tính toán khả năng lợi nhuận chỉ ra số lợi nhuận
mà công ty đạt được cho mỗi đồng doanh thu (doanh số).
Các nhà phân tích thường nhìn vào cả lợi nhuận gộp và lợi
nhuận ròng (lợi nhuận sau thuế) để đánh giá khả năng tạo
lợi nhuận
a) Hệ số lợi nhuận gộp
thuaàn thu Doanh
goäp nhuaän Lôïi goäp nhuaän lôïi soá Heä
b) Hệ số lợi nhuận ròng
thuaàn thu Doanh
roøngnhuaän Lôïi roøngnhuaän lôïi soá Heä
c) Tỷ lệ hoàn vốn cổ phiếu thường
150
Tỷ lệ hoàn vốn cổ phiếu thường là một trong các chỉ
tiêu đo lường quan trọng khả năng tạo lợi nhuận của công ty
năm này so với năm khác
laïi giöõ nhaäp thu voán dö thaëng
thöôøng phieáucoå giaù Meänh
ñaõi öutöùc Coå - roøngnhuaän Lôïi
thöôøng phaàncoå voán hoaønleä Tyû
** TTỷỷ ssốố hhooạạtt đđộộnngg
d) Tỷ lệ luân chuyển hàng hoá
Tỷ lệ luân chuyển hàng hoá chỉ ra hiệu quả quản lý
hàng tồn kho của công ty. Tỷ lệ luân chuyển hàng hoá thấp
cho biết giá trị hàng tồn kho của công ty là quá lớn thể hiện
sự không hiệu quả trong việc sử dụng tài sản của công ty.
Tỷ lệ này cao cho biết sản phẩm được tiêu thụ nhanh và chi
phí của hàng hoá tồn kho thấp.
khotoàn Haøng
thuaàn thu Doanh hoùa haøngchuyeån luaân leä Tyû
e. Vòng quay khoản phải thu =
f.Kỳ thu tiền bình quân =
Doanh thu thuần
Các khoản phải thu bình quân
Các khoản phải thu * 360 ngày
Doanh thu thuần
151
g.Vòng quay tồn kho =
h.Vòng quay TSNH =
i. Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
j. Vòng quay tài sản =
l) Giá sổ sách của cổ phiếu thường
44..11..66.. ĐĐáánnhh ggiiáá tthhuu nnhhậậpp
a) Thu nhập của mỗi cổ phiếu thường (EPS)
haønhlöu ñang thöôøng phieáucoå Soá
ñaõi öutöùc Coå - thueá sau nhuaän Lôïi EPS
Doanh thu thuần
Tồn kho bình quân
Doanh thu (thuần)
TSNH bình quân
Doanh thu (thuần)
TSCĐ bình quân
Các khoản phải thu * 360 ngày
Doanh thu thuần
Tổng tài sản – Tài sản vô hình –
Tổng nợ phải trả - Cổ phiếu ưu đãi
Số cổ phiếu thường
Giá sổ sách
của cổ phiếu =
thường
152
b) Cổ tức cho một cổ phiếu thường (DPS)
haønhlöu ñang thöôøng phieáucoå Soá
laïi giöõ nhuaän Lôïi - ñaõi öutöùc Coå - thueá sau nhuaän Lôïi DPS
c) Chỉ số giá cả trên thu nhập (P/E)
d)
EPS
phieáucoå cuûa tröôøng thò Giaù nhaäp thu treân caû giaù soá Chæ
Hệ số P/E cao chỉ ra rằng nhà đầu tưđang trả giá cao
cho thu nhập ngày hôm nay. Họ làm như vậy hy vọng thu
nhập tương lai sẽ cao hơn. Các cổ phiếu có hệ số P/E cao có
khuynh hướng trả cổ tức thấp
d) Hệ số chi trả cổ tức
Hệ số này là tỷ lệ phần trăm lợi nhuận ròng trả cho cổ
đông thường dưới dạng cổ tức
EPS
DPS töùc coå traû chi soá Heä
e) Lơi tức hiện thời (hệ số lãi cổ phần trên thời giá)
Lợi tức hiện thời cho cổ phiếu thường thể hiện tỷ lệ
hoàn vốn cổ tức dựa trên giá trị thị trường hiện thời của cổ
phiếu.
Cổ tức hàng năm của mỗi cổ phiếu thường
Giá trị thị trường của mỗi cổ phiếu thường
Lợi tức hiện
thời của cổ =
phiếu thường
153
4.2 PHÂN TÍCH KỸ THUẬT
Phân tích kỹ thuật là quá trình nghiên cứu xu hướng
lên xuống của giá cả thị trường chứng khoán, và khuynh
hướng lên xuống của một loại chứng khoán để mua bán
chứng khoán ở thời điểm tốt nhất. Phương pháp phân tích
kỹ thuật không phủ nhận giá trị của thông tin cơ bản cho
rằng giá cổ phiếu, sẽ xoay quanh giá trị cơ bản của chúng.
Tuy nhiên, các phân tích kỹ thuật cũng cho rằng, những
thay đổi các nguyên tắc thị trường cần được nhận thức rõ
ràng, trước khi ảnh hưởng của những thay đổi này được
phản ảnh hoàn toàn vào giá. Vì thị trường tự điều chỉnh để
đạt đến thế cân bằng mới, những nhà kinh doanh khôn
ngoan có thể khai thác các xu hướng giá này.
Phân tích kỹ thuật cũng cho rằng, các qui luật của
kinh tế thị trường có thể bị thay đổi bởi các yếu tố vô lý.
Các dao động ngẫu nhiên của giá chứng khóan ít nhiều gắn
liền với một xu hướng cơ bản nào đó. Trường hợp những
dao động này diễn biến chậm, có thể tận dụng chúng để thu
lợi nhuận lớn.
Các nhà phân tích kỹ thuật cho rằng có những mô
hình về giá cổ phiếu có thể khai thác, nhưng một khi các
nhà đầu tư nhận biết và lợi dụng các mô hình đó, hoạt động
mua bán của họ sẽ tác động đến giá, do đó làm thay đổi các
mô hình giá. Điều này có nghĩa là các mô hình mô tả đặc
điểm của thị giá sẽ luôn luôn biến hóa, và chỉ những nhà
154
phân tích giỏi, có thể nhận biết các mô hình mới sớm nhất,
mới được hưởng lợi.
Như vậy, điểm khác biệt về phương pháp luận cơ
bản của phân tích kỹ thuật so với phân tích cơ bản là, trong
khi các nhà phân tích theo trường phái phân tích cơ bản sử
dụng các dữ kiện kinh tế thường tách rời với thị trường thì
nhà phân tích kỹ thuật lại sử dụng các dữ liệu từ chính thị
trường vì họ cho rằng đây là cách phân tích tốt nhất bởi vì
thị trường là nơi dự đoán tốt nhất cho họat động kinh doanh
chứng khóan.
Cũng khác với phân tích cơ bản, phân tích kỹ thuật
đề cập đến cái đang xảy ra hơn là cái sẽ xảy ra trên thị
trường. Thông qua các dữ liệu thu thập được từ việc nghiên
cứu biến động của giá cả và khối lượng giao dịch của các
chứng khoán, nhà phân tích kỹ thuật sẽ tạo ra các biểu đồ sử
dụng và các biểu đồ này như là một công cụ chủ yếu để xác
định xu hướng của thị trường trong quá khứ; dự đoán xu
hướng hoạt động của thị trường trong tương lai. Như vậy,
phân tích kỹ thuật là một nghệ thuật hoặc một kỹ năng chủ
quan mà thành công của nó phụ thuộc chủ yếu vào kinh
nghiệm của nhà phân tích.
Phân tích kỹ thuật dựa trên ba nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, xu hướng biến động của thị trường phản
ánh tất cả,phân tích kỹ thuật cho rằng sự thay đổi về giá
chứng khoán là kết quả tổng hợp của các nhân tố phức tạp
155
có thể tác động đến thị trường bao gồm: Cung, cầu, các yếu
tố chính trị, kinh tế và các ảnh hưởng tâm lý.
Thứ hai, luôn luôn tồn tại các dạng thức ứng xử của
thị trường. Giá cả của các chứng khoán và giá trị của toàn
bộ thị trường có khuynh hướng biến động theo các xu thế.
Do đó, nhiệm vụ của nhà phân tích kỹ thuật là nhận ra các
dạng thức ứng xử của thị trường đã được thừa nhận qua các
chỉ báo theo dõi xu thế biến động của thị trường.
Thứ ba, lịch sử tự lập lại.những nhà tâm lý học cho
rằng tâm lý loài người ít thay đổi theo thời gian, cho nên
những dạng thức giao dịch đã được thừa nhận và được phân
loại trong hơn một thế kỷ qua vẫn có thể tự lập lại trên cơ
sở hợp lý. Với các dạng thức giao dịch nhất định đã xác
định, xác suất sản sinh các kết quả được kỳ vọng là rất cao.
Nhìn chung, phân tích kỹ thuật là dùng các lý thuyết
về thị trường để nghiên cứu sự biến động của toàn bộ
TTCK. Từ những kết quả đó, phản ánh, ghi chép biểu đồ
dưới dạng đồ thị cácgiao dịch cổ phiếu hoặc nhóm cổ phiếu
trong quá khứ và từ đó dư đóan xu thế diễn biến trong
tương lai.
4.2.1. LÝ THUYẾT DOW:
Lý thuyết Dow, lấy tên của nhà sáng lập Charles
Dow, đây là kỹ thuật nhằm cố gắng giải thích rõ ràng các xu
hướng lâu dài và trước mắt của thị giá cổ phiếu. Hai chỉ tiêu
được sử dụng là số bình quân ngành công nghiệp Dow
156
Jones (DJIA) và số bình quân ngành vận tải Dow Jones
(DJTA) là chỉ tiêu chủ yếu của các xu hướng cơ bản.
Lý thuyết Dow cho rằng có ba lực lượng tác động
đồng thời đến giá cổ phiếu:
a) Xu hướng chính là sự vận động lâu dài của giá,
kéo dài từ vài tháng đến vài năm.
b) Các xu hướng phụ do các độ lệch của giá so với
đường xu hướng chính gây ra. Những độ lệch này sẽ chấm
dứt do các quá trình sửa chữa khi giá trở về các giá trị xu
hướng.
c) Các xu hướng thứ ba hay thứ yếu là những biến
động hàng ngày có tầm quan trọng ít hơn.
Hình 3.1 dưới đây trình bày ba yếu tố cấu thành này
của quá trình vận động của giá cổ phiếu theo lý thuyết Dow.
Hình 4.1. Các xu hƣớng theo lý thuyết Dow
157
Hình 4.2. Các xu hƣớng theo lý thuyết Dow
158
Trên hình 4.1, xu hướng chính là giá đi lên nhưng các xu
hướng phụ lại dẫn đến các mức giá giảm trong ngắn hạn
kéo dài một vài tuần. Các xu hướng thứ yếu hàng ngày
không có ảnh hưởng về lâu dài đối với giá.
Hình 4.3 miêu tả diễn biến của DJIA trong năm
1988. Xu hướng chủ yếu đi lên, và bằng chứng là sự kiện
từng đỉnh điểm thị trường đều cao hơn đỉnh điểm trước đó
(điểm F so với D và so với B) > tương tự, từng điểm tối
thiểu cũng cao hơn điểm tối điểm tối thiểu trước đó (E so
159
với C và so với A). Mô hình các đỉnh cao và điểm đáy vận
động đi lên này là một trong những phương pháp thực hiện
để nhận biết xu hướng cơ bản.
Hình 4.3: Chỉ số DJIA năm 1988
Hình 4.3 Mặc dù xu hướng chính giá đi lên, nhưng
các xu hướng phụ vẫn có thể dẫn đến các kỳ giảm giá ngắn
hạn (các điểm B qua C hoặc D qua E).
160
Hình 4.4:
• BiÓu ®å chØ sè chøng kho¸n
Biểu giá chứng khoán
Lý thuyết Dow gắn liền với các khái niệm về hỗ trợ và
mức đề kháng của giá cổ phiếu.Mức hỗ trợ là giá mà dưới
giá đó, thị trường không có khả năng giảm nữa. Mức đề
kháng là giá mà trên giá đó thị trưởng rất khó tăng lên nữa.
Các mức hỗ trợ và đề kháng giá được xác định bởi lịch sử
vừa qua. Trên hình 3.3, 3.4 giá điểm C được xem là mức giá
đề kháng vì xu hướng phụ qua của giá cao không có khả
năng tăng cao hơn C. Vậy tìm được điểm đề kháng là thấy
dấu hiệu lên giá. Với chỉ số DJTA thì mức đề kháng ở điểm
B
161
Hình 4.5 Các dấu hiệu theo lý thuyết Dow
Các phân tích kỹ thuật xem các mức giá đề kháng và
hỗ trợ là kết quả về mặt kinh tế của các nhà đầu tư. Thí dụ,
xem xét cổ phiếu H, là cổ phiếu đã được mua bán trong vài
tháng với giá 72.000 VNĐ và sau đó giảm còn 65.000
VNĐ. Nếu cuối cùng cổ phiếu cũng bắt đầu tăng giá,
72.000 VNĐ là mức đề kháng tự nhiên, vì rất nhiều nhà đầu
tư đã mua lúc đầu với giá 72.000 VNĐ sẽ dễ dàng bán cổ
phiếu của họ ngay khi họ đạt đến điểm hòa vốn . Bất cứ khi
nào giá gần bằng 72.000 VNĐ , một làn sóng bán ra sẽ phát
sinh. Hành động này đóng góp một “cột mốc” vào thị
162
trường và “cột mốc” này khiến lịch sử trước đây của giá có
tác động đến mức giá hiện hành.
Ở điểm G, DJIA không thể lên đến điểm cao hơn,
trong khi DJTA đạt đến điểm cao hơn ở H. Biểu hiện mâu
thuẫn này là một dấu hiệu báo động ở các điểm I và J, cả hai
chỉ số đều rớt xuống thấp hơn các điểm của phạm vi mua
bán trước đó, điều này là một dấu hiệu về sự kết thúc của thị
trường lên giá căn bản.
4.2.2- Một vài dạng thức đồ thị
Phân tích kỹ thuật luôn nghiên cứu tình trạng của
toàn thị trường hay của từng chứng khoán nhằm dự báo
biến động trong tương lai của giá dựa trên những kinh
nghiệm có được với các dạng thức kỹ thuật thị trường đã
xuất hiện trong quá khứ. Phân tích kỹ thuật dựa trên những
kiến thức đã có về giá và hình mẫu đồ thị trong quá khứ
được sử dụng tham khảo nhằm dự báo xu hướng diễn biến
giá trong tương lai ở mỗi thị trường cụ thể.
a.Đƣờng xu thế (trendline)
Đường xu thế hình thành bằng cách nối các mức giá
cao nhất hoặc thấp nhất cuả chứng khoán trong một khoảng
thời gian nhất định(thông thương tháng;quí;năm).Hình 4.6.
Góc nghiêng của đường nối này phản ảnh xu thế giá lên
hoặc xuống. Khi giá chứng khoán vượt ra ngoài đường xu
thế, có thể có một xu thế mới xuất hiện.
163
Hình 4.6
b. Điểm đột phá (Breakout)
Điểm đột phá xuất hiện khi giá cuả chứng khoán
vượt qua mức cận trên (thường là điểm cao trước đó) hoặc
xuống thấp hơn mức cận dưới (thường là điểm đáy trước
đó). Điểm đột phá được coi là dấu hiệu xu thế sẽ tiếp diễn.
Trong hình 4.7, tại thời điểm đầu quí 4/2006 giá
chứng khoán vượt qua đường xu thế trước đó. Khi đó điểm
A được xác định là điểm đột phá và là điểm khởi đầu của
một xu thế mới.
164
Hình 4.7
c. Dạng thức giao dịch (Trading Pattern)
Dạng thức giao dịch được hình thành bằng cách vẽ
một đường nối các cao điểm và một đường nối các điểm
đáy của giá một chứng khoán trong một khoảng thời gian
nhất định (thông thương tháng;quí;năm) Hình 4.8. Hai
đường vẽ song song này sẽ có xu thế lên dốc hoặc xuống
dốc,cho biết xu hướng diễn biến giá dài hạn của chứng
khoán.
165
Hình 4.8
d. Cận dƣới ( Support Level)
Cận dưới là mức giá mà tại đó xu thế giảm giá của
chứng khoán dừng lại do cầu lớn hơn cung. Các phân tích
kỹ thuật xác định cận dưới là mức thấp nhất mà giá chứng
khoán đã đạt tới tại một thời điểm nào đó trong quá khứ.
Khi giá của một chứng khoán đang giảm dần xuống cận
dưới, nhà phân tích kỹ thuật cho rằng nó đang “thử cận
dưới” nghĩa là giá chứng khoán được kỳ vọng sẽ tăng trở
lại. Nếu giá chứng khoán tiếp tục vượt qua cận dưới, triển
vọng cuả chứng khoán đó sẽ bị coi là rất xấu
Trong hình 4.9 giá cổ phiếu SAM vào 19/05/08
giảm xuống mức 29.000 ngàn VNĐ nhưng không xuống
166
thấp hơn. Do vậy, mức giá 29.000 ngàn VNĐ có thể được
xác định là mức cận dưới của cổ phiếu SAM.
Theo qui luật cận dưới sẽ hình thành sau khi cổ
phiếu đã trải qua một đợt tăng giá mạnh và các nhà đầu cơ
bắt đầu bắt đầu bán ra để thu lợi. Các nhà phân tích kỹ thuật
cho rằng tại một mức giá nào đó, những người đầu tư chưa
mua vào trong đợt lên giá đầu tiên và chờ đợi một sự đảo
chiều sẽ bắt đầu mua cổ phiếu. Khi giá đạt tới mức cận dưới
này, nhu cầu đối với cổ phiếu sẽ tăng mạnh, sẽ làm gia tăng
về giá và khối lượng giao dịch. Hình 4.9 So sánh giá cổ
phiếu SAM so với REE (trong thời gian 3 năm),
ngày19/05/08
167
168
Hình 4.10 So sánh giá cổ phiếu SAM so với REE
(trong thời gian 6 tháng đầu năm 2008), ngày
19/05/08
e. Cận trên (Resistance Level)
Ngược với cận dưới, cận trên là mức kháng cự, là
mức giá mà tại đó các nhà đầu tư sẽ bán ra. Họ cũng cho
rằng khi giá chứng khoán vượt qua cận dưới là dấu hiệu rất
tốt vì nó báo hiệu giá chứng khoán sẽ tiếp tục tăng tới một
đỉnh cao mới.
Hình 4.13, giá cổ phiếu REE ba lần lên đến mức 260
ngàn VNĐ nhưng không vượt quá mức này. Do vậy, mức
169
giá 260 ngàn VNĐ có thể được xác định là cận trên của cổ
phiếu REE.
Cận trên của một cổ phiếu đang trong xu thế tăng giá
đây là mức giá mà phần lớn các nhà đầu tư đều cho đây là
thời điểm thích hợp để bán ra thu lợi.
Hình 4.11 So sánh giá cổ phiếu SAM so với REE (trong
thời gian 5 tháng đầu năm 2008), ngày 19/05/08
170
Qua nhiều diễn biến giao dịch, các nhà phân tích kỹ
thuật nhận thấy rằng cận trên luôn tỏ ra chắc chắn hơn cận
dưới. Điều này được lý giải là tâm lý nhà đầu tư muốn rút ra
khỏi thị trường luôn mạnh hơn tâm lý muốn tham gia vào
thị trường, nghĩa là nỗi lo sợ bị thua lổ luôn mạnh hơn
mong muốn kiếm lợi.
Hình 4.12 So sánh giá cổ phiếu SAM so với REE (trong
thời gian 5 tháng đầu năm 2008), ngày 19/05/08
171
* Mối liên quan giữa mức hỗ trợ và mức kháng cự
Mức hỗ trợ là mức giá tại đó có đủ một số lượng cầu mua
cổ phiếu để ngăn chặn xu hướng giảm giá. Mức kháng cự là
mức giá tại đó có đủ chứng khoán cung để ngăn chặn xu
hướng tăng giá. Vậy vùng hỗ trợ thể hiện sự tập trung của
cầu và vùng kháng cự thể hiện sự tập trung của cung.
Cơ sở của dự đoán lý thuyết hỗ trợ và kháng cự là khối
lượng giao dịch của một loại cổ phiếu có xu hướng tập
trung lớn tại một số mức giá, tại đó có nhiều cổ phiếu được
giao dịch. Do mức giá mà tại đó có khối lượng giao dịch lớn
diễn ra thường là điểm đảo chiều. Tuy nhiên, cần lưu ý các
mức giá này thường xuyên thay đổi vai trò từ hỗ trợ sang
kháng cự và ngược lại.
Hình 4.13 giá cổ phiếu REE ngày 05/07/07
172
f.Đầu và vai (Head and Shoulders)
Dạng thức này báo hiệu sự đảo chiều cuả một xu thế.
Sau khi hình thành dạng thức này, nhà phân tích kỹ thuật
cho rằng giá chứng khoán sẽ tiếp tục giảm. Ngược lại, dạng
thức này nếu đảo ngược là dấu hiệu giá chứng khoán sẽ tiếp
tục tăng.
Hình 4.15 từ tháng 1 giá cổ phiếu có xu thế tăng từ
45 ngàn VNĐ lên trên 60 ngàn VNĐ. Trong khoảng từ đầu
tháng 3 đến giữa tháng 4 diễn biến giá cổ phiếu hình thành
173
nên dạng thức đầu và vai. Sau khi hình thành nên vai phải
(kết thúc dạng thức) giá cổ phiếu có xu thế tiếp tục giảm.
Hình 4.14 giá cổ phiếu REE từ ba năm đầu đến ngày
19/05/08
g. Đáy kép (Double Bottom)
Khi dạng thức này hình thành, giá chứng khoán sẽ
không xuống thấp hơn. Tuy nhiên, nếu giá chứng khoán vẫn
tiếp tục giảm, nó sẽ xuống tới một điểm đáy mới.
174
Hình 4.14, từ tháng 2/08 đến tháng 5/08 có hai lần
giá cổ phiếu REE giảm xuống mức 29.000 VNĐ nhưng
không giảm xuống thấp hơn. Trong trường hợp này mức giá
29.000 VNĐ có thể được coi là mức cận dưới.
Hình 4.15 giá cổ phiếu NSC trong 6 tháng đầu năm
2007 (ngày 05/07/07)
h. Đỉnh kép (Double Top)
Ngược với đáy kép, khi dạng thức này hình thành,
giá chứng khoán sẽ không tiếp tục tăng cao hơn. Tuy nhiên,
175
nếu giá chứng khoán vẫn tiếp tục tăng, nó sẽ đạt tới đỉnh
cao mới.
Hình 4.15, từ tháng 3 đến tháng 5 có 2 lần giá cổ
phiếu tăng tới mức 80.000 VNĐ nhưng không tăng cao
hơn. Trong trường hợp này, mức giá 80.000 VNĐ có thể
được coi là mức cận trên.
k. Lá cờ (Flag)
Lá cờ là một dạng đồ thị có hình giống lá cờ (với
một đường thẳng đứng ở một bên) thể hiện giai đoạn củng
cố của một xu thế. Dạng thức này hình thành từ những dao
động giá trong một khoảng hẹp, diễn ra sau hoặc trước đợt
tăng giá hoặc giảm giá mạnh. Nếu lá cờ được hình thành
sau đợt tăng giá, tiếp sau giai đoạn này sẽ là đợt tăng giá
nữa; nếu sau đợt giảm giá, một đợt giảm giá nữa sẽ diễn ra
tiếp theo.
Hình 4.16, vào đầu tháng 4 giá cổ phiếu tăng từ
26.000 VNĐ lên 30.000 VNĐ. Sau khi kết thúc dạng lá cờ,
giá cổ phiếu tiếp tục tăng lên 70.000 VNĐ.
Hình 4.16 giá cổ phiếu HAP trong 6 tháng đầu năm
2007 (ngày 05/07/07)
176
4.2.3 Đƣờng trung bình di động (Moving Average – MA)
Các chỉ số trung bình động là một công cụ phân tích,
kỹ thuật ra đời sớm nhất và phổ biến nhất.
MA: Một chỉ số trung bình động là giá trị trung bình
của một chứng khoán tại một thời điểm nhất định. Khi tính
toán một chỉ số trung bình, cần phải xác định rõ thời gian để
tính giá trung bình (ví dụ 20 ngày)
Phương pháp thực hiện bằng cách san bằng sự biến
động với việc làm chậm lại thời gian, nhằm xác định hoặc
chỉ ra tín hiệu xu hướng cũ đã kết thúc hoặc xu hướng mới
bắt đầu và theo dõi sự diễn biến của xu hướng.
177
Hình 4.17 giá cổ phiếu VINAMILK trong 20 tháng
đầu tháng 05năm 2008
* MA giản đơn (Simple MA): Chỉ số trung bình
giản đơn được tính bằng cách cộng (+) tất cả giá của chứng
khoán trong “n” khoảng thời gian gần nhất rồi sau đó chia
(:) cho “n”
178
Hình 4.18 giá cổ phiếu VINAMILK trong 5 tháng
đầu năm 2008
Ví dụ 4.1: Cộng (+) giá đóng cửa của một
chứng khoán trong 20 ngày gần nhất rồi chia (:) cho 20. Kết
quả có được là giá trung bình của chứng khoán đó trong 20
ngày gần nhất. Việc tính toán này phải được thực hiện cho
từng thời điểm trên biểu đồ, Trong biểu đồ hình 4.17 sử
dụng đường MA ngắn hạn là 20 ngày và lấy giá đóng cửa
để tính.
179
Tính trung bình dữ liệu giá của cổ phiếu VNM, khi
đó một đường bằng phẳng hơn (màu hồng) được tạo ra giúp
xác định xu hướng giá.
Khi MA là giá trung bình của một chứng khoán
trong vòng 20 ngày gần nhất,nó thể hiện sự đồng nhất các
kỳ vọng của nhà đầu tư trong 20 ngày đó . Nếu giá chứng
khoán cao hơn mức trung bình động của nó, có nghĩa là kỳ
vọng hiện tại của các nhà đầu tư (chính là giá cả hiện tại của
chứng khoán) lớn hơn mức kỳ vọng trung bình của họ trong
suốt 20 ngày đó,và các nhà đầu tư đang ngày càng có
khuynh hướng đầu cơ giá lên đối với chứng khoán đó. Hay
nói cách khác, giá chứng khoán cao hơn MA đó là tín hiệu
nên mua.
Ngược lại, nếu giá ngày hôm nay thấp hơn mức
trung bình thì kỳ vọng hiện tại đó sẽ thấp hơn kỳ vọng trung
bình trong 20 ngày.Chứng khoán giảm thấp hơn MA đó là
tín hiệu bán.
Ví dụ 4.2: Vào ngày 02/4/2008, giá mở của VNM là
129.000 VNĐ và giá đóng cửa là 131.000 VNĐ. Nhưng giá
tiếp tục dịch chuyển xuống dưới đường MA và đây là tín
hiệu nên bán ra.
Vào ngày 01/5/2008 thì giá mở cửa của VNM
(Vinamilk) là 127.000 VNĐ và giá đóng cửa là 127.000
VNĐ. Tại điểm đó ta thấy giá của chứng khoán cắt đường
MA 20 ngày và tiếp tục giảm hơn đó chính là tín hiệu bán.
* Kết hợp 2 đường MA
180
+ Đường MA ngắn hạn là 20 ngày và đường này là
đường bám sát với đường giá nhạy cảm với biến động thị
trường hàng ngày.
+ Đường MA dài hạn là 30 ngày, đường này ở đây
giả định là đường đầu tư dài hạn ít nhạy cảm với biến động
thị trường hàng ngày.
MA ngắn hạn có ich khi thị trường đảo chiều liên
tục. MA dài hạn hoạt động tốt hơn trong thị trường có xu
hướng được giữ vững và có chiều hướng đi lên. Khi đó, nếu
MA ngắn hạn cắt lên trên đường MA dài hạn báo hiệu xu
hướng tăng đó cũng chính là tín hiệu mua. Còn nếu MA
ngắn hạn cắt xuống dưới đường MA dài hạn thì đó báo hiệu
xu hướng giảm và đó là tín hiệu bán. Nếu như nhìn chúng
cách nhau quá xa thì hãy thận trọng vì có xu hướng giá sẽ
đảo chiều.
Hình 4.18 vào ngày 10/5/2008 thì đường MA ngắn
hạn đã cắt xuống dưới đường MA dài hạn báo hiệu bắt đầu
một xu hướng giá xuống và biên độ cũng khá nhỏ nên dự
báo những ngày tới sẽ không có hiện tượng đảo chiều và giá
sẽ tiếp tục giảm.
Cũng theo hình trên, vào ngày 8/5/2007 thì đường
MA ngắn hạn đã cắt lên trên đường MA dài hạn báo hiệu
bắt đầu một xu hướng giá tăng và vì biên độ cũng khá nhỏ
nên dự báo những ngày tới sẽ không có hiện tượng đảo
chiều và vì vậy giá sẽ tiếp tục tăng nhẹ.
181
* Dải băng ( Bollinger)
Đặt thêm hai độ lệch chuẩn phía trên và phiá dưới
đường MA 30 ngày sẽ thấy được mức giá phân tán xung
quanh giá trị trung bình như thế nào,và giá cả sẽ dao động ở
giữa hai dải băng này.
Dải băng có thể mở rộng hoặc thu hẹp tùy thuộc vào
sự biến động của đường MA 30 ngày. Thời kỳ biến động
giá tăng, khoảng cách giữa hai dải băng sẽ mở rộng ra. Thời
kỳ biến động giá giảm, khoảng cách giữa hai dải băng sẽ
thu hẹp lại.
Khi hai dải băng xa nhau một cách bất thường thì tín
hiệu xu hướng hiện tại sắp kết thúc.
Khi hai dải băng thu hẹp lại, tín hiệu thị trường bắt
đầu hình thành một xu hướng mới
Theo hình trên vào đầu tháng 3/2007, ta thấy dải
băng rộng ra một cách bất thường nên nó báo hiệu xu hướng
tăng hiện tại của VNM sắp kết thúc và dải băng ngày càng
hẹp lại, nên sẽ hình thành một xu hướng giá giảm.
Ví dụ 4.3: Diễn biến giá cổ phiếu VNM như sau :
Ngày 1 2 3 4 5 6 7 8
Giá 128 129 130 131 130 132 131 130
Hãy xây dựng các đường bình quân động (MA) 4, 5 và 6
ngày để xác định mức giá bình quân tương ứng của cổ
phiếu VNM vào các ngày 6,7 và 8?
182
Giải:
Ngày 1 2 3 4 5 6 7 8
Giá 128 129 130 131 130 132 131 130
MA-4 129.5 130 130.8 131 130.8
MA-5 129.6 130.4 130.8 130.8
MA-6 130 130.5 130.7
4.2.4 CHỈ SỐ GIÁ CHỨNG KHOÁN
4.2.4.1. Sự dao động giá chứng khoán
Trong thực tế, giá thị trường của cổ phiếu sẽ xoay
quanh giá trị thực nhưng trong phạm vi có giới hạn của một
vùng dao động.
Biên độ của vùng dao động phụ thuộc vào chi phí
giao dịch, chi phí giao dịch càng cao vùng dao động càng
lớn.
Các nhà kinh doanh chứng khoán được coi là các
thực thể tài chính trung gian – là người tận dụng sự lên
xuống của giá cả cổ phiếu để mua bán nhằm mục đích kiếm
lời. Mặt khác, họ là những thực thể tài chính nhằm đảm bảo
cho giá cả chứng khoán không vượt quá giới hạn của vùng
dao động – họ là những người điều tiết giá thị trường cổ
phiếu một cách xuất sắc . Vì, khi giá cổ phiếu vượt ra ngoài
giới hạn các nhà kinh doanh chứng khoán phải lập tức mua
vào hoặc bán ra các cổ phiếu nhằm mục đích kiếm
lời,những họat động này sẽ làm cho quan hệ cung cầu dần
183
dần tự điều tiết để trở nên cân bằng và giá cổ phiếu dần dần
trở lại trạng thái bình thường.
Nếu giá cổ phiếu xuống thấp quá giới hạn, thì các
nhà kinh doanh chứng khoán sẽ mua các cổ phiếu vào, do
cổ phiếu đã hạ giá so với giá trị lý thuyết của nó. Sau đó,
khi giá thị trường tự điều chỉnh dần vào phạm vi bình
thường, và chờ khi giá thị trường tăng đến phạm vi giới hạn
trên, các nhà kinh doanh chứng khoán sẽ lập tức bán ra các
cổ phiếu với giá cao, thu lợi nhuận, sau đó, chờ khi giá cổ
phiếu hạ xuống họ lại mua vào.
Để giảm thiểu rủi ro khi kinh doanh cổ phiếu, các
nhà kinh doanh chứng khoán cần thường xuyên kiểm tra giá
trị thực của cổ phiếu trên (dựa trên phân tích cơ bản và triển
vọng phát triển của doanh nghiệp).
* Trường hợp một loại chứng khoán đang lưu thông trên
các TTCK khác nhau, ví dụ như tại New York, Lon don,
Tokyo ... Ở tại một thời điểm nhất định, giá cổ phiếu tại các
thị trường khác nhau có chênh lệch, thì giữa hai thị trường
tồn tại một vùng dao động giá cổ phiếu . Đây sẽ là cơ hội
cho các nhà kinh doanh chứng khoán kiếm lời. Ví dụ như,
giá một loại cổ phiếu tại thị trường 1 xuống quá thấp so với
thị trường 2 (hình4.6), nhà kinh doanh chứng khoán sẽ mua
vào chứng khoán ở thị trường 1 và ngay lập tức bán ra ở thị
trường 2 thu lợi nhuận
184
Hình 4.6 Vùng dao động giá CP trênTTCK
Chỉ số giá chứng khoán: là chỉ báo giá cổ phiếu phản ánh
xu hướng phát triển của thị trường cổ phiếu, thể hiện xu
hướng thay đổi giá cổ phiếu và tình hình giao dịch trên thị
trường. Đơn giản, chỉ số giá chứng khoán là giá bình quân
cổ phiếu tại một ngày nhất định so với ngày gốc.
4.2.4.2- Phƣơng pháp tính chỉ số giá chứng khoán
a. Phương pháp bình quân số học (Arithemetic
Average)
Giới hạn trên
Giá thực
Giới hạn thấp
Thời gian
Giá
Vùng dao động giá CK -
Vùng 2
Vùng dao động giá CK -
Vùng 1
185
Được xác định bằng cách lấy tổng thị giá của các loại
cổ phiếu cần tính toán chia cho số loại cổ phiếu.
Bình quân số học =
Pi
N
Trong đó :
Pi : Thị giá của cổ phiếu i
N: Số loại cổ phiếu cần tính
* Chỉ số giá bình quân giản đơn
Được tính toán tương tự như phương pháp tính bình
quân số học. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa hai phương pháp
này là ở chỗ “số chia” trong chỉ số bình quân số học được
điều chỉnh trong các trường hợp như tách / gộp cổ phiếu,
phát hành quyền, tăng vốn... để đảm bảo tính liên tục của
chỉ số theo thời gian.
I = Pi
x Io Po
Trong đó :
I : Là chỉ số giá bình quân
P1 : Là giá của chứng khoán i thời kỳ nghiên cứu
Po : Là giá của chứng khoán i thời kỳ gốc
Hai chỉ số nổi tiếng thuộc loại này là chỉ số trung
bình công nghiệp Dow Jones (Dow Jones Industrial
Average – DJIA) của Hoa Kỳ và chỉ số Nikei của Nhật Bản.
Nhược điểm của bình quân số học là không phản ánh
được xu thế phát triển dài hạn của giá cổ phiếu, vì giá cổ
186
phiếu sẽ không được thể hiện một cách liên tục khi tách /
gộp cổ phiếu, tăng / giảm vốn. Ngoài ra, những chứng
khoán có giá cao sẽ có tác động lớn đến bình quân số học.
b. Phương pháp bình quân có trọng số ( Weighted
Average)
Được tính bằng cách lấy tổng vốn thị trường của các
loại cổ phiếu cần tính toán chia cho tổng số lượng cổ phiếu
niêm yết.
Bình quân có trọng số = Pi Qi
Qi
Trong đó :
Pi : Thị giá cổ phiếu i
Qi : Số lượng cổ phiếu niêm yết của cổ phiếu
i
Nhìn chung, bình quân có trọng số chịu tác động của
số lượng cổ phiếu niêm yết. Do đó, các cổ phiếu có số
lượng niêm yết lớn sẽ tác động nhiều đến bình quân có
trọng số. Bình quân có trọng số cũng có những hạn chế
tương tự bình quân số học khi thể hiện xu hướng dài hạn
của giá cổ phiếu.
* Chỉ số tổng hợp:
Chỉ số này nhằm so sánh giá trị thị trường hiện tại
với một giá trị cơ sở tại một thời điểm xác định trước đó
(gọi là kỳ gốc hay kỳ cơ sở). Thông thường, giá trị cơ sở
được chọn là 100
187
Chỉ số tổng hợp được tính toán dựa trên các biến về
giá và số lượng cổ phiếu đang lưu hành.
Chỉ số này được xác định như sau :
Chỉ số
tổng hợp =
Tổng giá trị thị trƣờng kỳ
hiện hành x 100
Tổng giá trị thị trƣờng kỳ
cơ sở
Hai phương pháp thường được dùng để tính chỉ số
này là phương pháp Laspeyres và phương pháp Paascher.
+ Phương pháp Laspeyres : Dựa trên định lượng cổ phiếu ở
kỳ cơ sở (kỳ gốc)
IL = Qo x P1
x Io Qo x Po
Trong đó :
IL : Là chỉ số giá bình quân Laspeyres
Qo : Là khối lượng chứng khoán (quyền số)
thời kỳ gốc hoặc cơ cấu khối lượng thời kỳ
gốc.
+ Phương pháp Paascher: Dựa trên lượng cổ phiếu ở kỳ
hiện hành D.
Ip = Qo x P1
x Io Qo x Po
Trong đó :
Ip : Là chỉ số Paascher
188
Q1: Là khối lượng quyền số thời kỳ báo cáo
hoặc cơ cấu khối
lượng thời kỳ báo cáo.
Các chỉ số như NYSE Composite, S & P 500 của
Mỹ, TOPIX của Nhật, FTSE 100 của Anh và CAC 40 của
Pháp được tính dựa trên phương pháp Paascher. Còn chỉ số
DAX của Đức được tính theo phương pháp Laspeyres
Chỉ số chứng khoán Việt Nam:
VNIndex = Q1 x P1
x Io Qo x Po
Trong đó :
P1 : Là giá hiện hành chứng khoán
Q1: Là khối lượng cổ phiếu đang lưu hành
Po : Là giá cổ phiếu thời kỳ gốc
Qo: Là khối lượng chứng khoán thời kỳ gốc
Chỉ số giá chứng khoán được theo dõi chặt chẽ và
được các nhà kinh tế học quan tâm vì nó có mối liên quan
chặt chẽ đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của một
quốc gia và thế giới.
Cách tính chỉ số chứng khoán VNIndex:
Ví dụ 4.4: Kết quả phiên giao dịch đầu tiên ngày
28/7/2000
189
Tên
Cty
Tên
CP
Giá
thực
hiện
Số lƣợng
CP niêm
yết
Giá thị trƣờng
Cơ
điện
lạnh
REE 16.000 15.000.000 240.000.000.000
Cáp
VL
VT
SAM 17.000 12.000.000 204.000.000.000
Tổng 444.000.000.000
VNIndex = 444.000.000.000
x 100 = 100 444.000.000.000
Vào ngày 02/8, kết quả giao dịch như sau :
Tên
Cty
Tên
CP
Giá
thực
hiện
Số lƣợng
CP niêm
yết
Giá thị trƣờng
Cơ
điện
lạnh
REE 16.000 15.000.000 249.000.000.000
Cáp
VL VT
SAM 17.500 12.000.000 210.000.000.000
Tổng 459.000.000.000
VNIndex = 459.000.000.000
x 100 = 103,58 444.000.000.000
190
Vào ngày 4/8, kết quả giao dịch như sau :
Tên Cty Tên
CP
Giá
thực
hiện
Số lƣợng
CP niêm
yết
Giá thị trƣờng
Cơ điện
lạnh
REE 16.900 15.000.000 253.580.000.000
Cáp VL
VT
SAM 17.000 12.000.000 213.600.000.000
Giấy HP HAP 16.000 1.008.000 16.128.000.000
Transimex TMS 14.000 2.200.000 30.800.000.000
Tổng 514.028.000.000
Điều chỉnh số chia mới d :
514.028.000.000 d = 444.000.000.000 x = 488.607.219.010
467.100.000.000
VNIndex = 514.028.000.000
x 100 = 105,2 488.607.219.000
P P(REE).Q REE)+P(SAM)+P(HAP)+P(TMS).Q(TMS)
P(REE).Q(REE)+P(SAM).Q(SAM)
d = d0 x
191
Hình 4.19 Chỉ số VNIndex và khối lượng chứng khoán giao
dịch tại TTGDCK TP.HCM từ năm 2003 đến tháng 5/2007.
4.2.4.3- Một số chỉ giá chứng khoán nổi tiếng trên thế
giới :
a. Các loại chỉ số của Mỹ:
+ Chỉ số Dow Jones ( Dow Jones Average)
Chỉ số Dow Jones là chỉ số giá của 65 chứng khoán
đại diện thuộc nhóm hàng đầu (Blue Chip) trong các chứng
192
khoán được niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán New
York, một TTCK lớn nhất thế giới. Nó bao gồm 3 chỉ số
thuộc 3 nhóm ngành : Chỉ số Dow Jones công nghiệp DJIA
( Dow Jones Industrial Average) gồm 30 chứng khoán; Chỉ
số Dow Jones vận tải DJTA (Dow Jones Transportation
Average) gồm 20 chứng khoán và Chỉ số Dow Jones dịch
vụ DJUA (Dow Jones Utilities Average) gồm 15 chứng
khoán.
Chỉ số DJIA là chỉ số lâu đời nhất ở Mỹ do Charles
H.Dow cùng với công ty mang tên ông thu thập giá đóng
cửa chứng khoán để tính ra và công bố trên Wall Street
Journal từ năm 1896. Trong quá trình tính toán đó, thường
xuyên có sự thay đổi vị thế của các công ty trong nhóm top
30. Mỗi khi có công ty có dấu hiệu không còn thuộc tiêu
chuẩn nhóm top 30 của các cổ phiếu Blue Chip nữa thì sẽ
có công ty khác thay vị trí đó ngay. Công ty duy nhất còn
lại đến nay kể từ đầu là công ty General Electric.
Tóm lại, chỉ số Dow Jones là chỉ số giá chứng khoán
tính cho 65 chứng khoán tiêu biểu nhất của TTCK New
York.Đây là chỉ số rất được quan tâm vì TTCK hiện nay đã
được toàn cầu hoá và ảnh hưởng mạnh đến TTCK khác
+ NASAQ Composite Index (NASDAQCI)
NASDAQ:National Association of Securities
Dealers Automated Quatation System) là chỉ số chứng
khoán tổng hợp của 4.700 công ty,của Hoa Kỳ và nước
ngoài được niêm yết trên TTCK NASDAQ. Chọn ngày
193
05/2/1971 làm kỳ gốc, với trị giá là 100, có tính thêm chỉ
số của các nhóm ngành: ngân hàng máy tính, công nghiệp,
bảo hiểm, vận tải, tài chính khác và bưu chính viễn thông.
+ New York Stock Exchange Index (NYSEI)
Là chỉ số tính theo phương pháp bình quân gia
quyền, cho tất cả các chứng khoán ở NYSE. Chọn ngày
31/12/1964 làm kỳ gốc. Quyền số thay đổi theo giá thị
trường. Trị giá năm đầu tiên là 50USD và thay đổi của nó
được thể hiện theo điểm. Các chỉ số phụ bao gồm chỉ số cho
ngành công nghiệp, vận tải, phục vụ công cộng và chỉ số
tổng hợp cho khu vực tài chính.
+ Amex Major Market Index (XMI) đây là chỉ số
tính theo phương pháp gia quyền với quyền số giá cả của 20
cổ phiếu đang làm ăn phát đạt nhất (Blue Chip) trong
ngành công nghiệp được niêm yết trên Sở Giao dịch chứng
khoán New York. Chỉ số này do AMEX tính và tương đối
giống DJIA, trong đó có 15 cổ phiếu thuộc nhóm các cổ
phiếu của DJIA.
+ Amex Market Value Index (XAM), chỉ số này do
AMEX tính và công bố từ 4/9/1973 theo phương pháp tính
gia quyền với quyền số là giá thị trường. Ngày gốc tháng
9/1973. Bao gồm 800 cổ phiếu đại diện cho tất cả các ngành
kỹ nghệ giao dịch trên AMEX.
+ Dow Jones World Stock Index, chỉ số này là chỉ
số bình quân giá trị của 2.600 công ty trên thế giới. Đại diện
cho 80% giá trị TTCK quốc tế. Hiện tại nó bao gồm 25
194
nước thuộc Bắc Mỹ, Châu Âu và vùng Châu Á Thái Bình
Dương. Ngày gốc 31/12/1991 và trị giá gốc là 100. Chỉ số
này được tính cho từng nhóm ngành, có phân theo vùng,
quốc gia. Chỉ số đối với từng nước tính theo đồng nội tệ, và
USD, Pound cuả Anh, Mark của Đức, Yên của Nhật. Chỉ số
cho vùng và thế giới tính theo 4 loại ngoại tệ kể trên.
+ NASDAQ 100 Index, chỉ số được tính từ năm
1985 cho 100 công ty phi tài chính lớn nhất được niêm yết
tại TTCK NASDAQ. Chỉ số tính theo phương pháp bình
quân gia quyền giá trị. Tất cả các công ty tham gia chỉ số có
mức vốn thị trường tối thiểu là 400 triệu USD vào tháng
10/1993 và được chọn theo tiêu thức giá trị giao dịch và
tiêu biểu trên thị trường.
+ S & P 500 (Standard and Poors’ , đây là chỉ số
giá bình quân giá trị, tổng hợp của 500 loại cổ phiếu. Nó
bao gồm các cổ phiếu được niêm yết trên NYSE, một số
thuộc nhóm của AMEX và NASDAQ. Chỉ số này bao gồm
381 cổ phiếu thuộc ngành tài chính, 47 cổ phiếu thuộc các
ngành dịch vụ công cộng, 56 cổ phiếu thuộc ngành tài chính
và 16 cổ phiếu thuộc ngành vận tải đại diện cho 74% trị giá
thị trường của tất cả các cổ phiếu được giao dịch trên
NYSE. Ngoài ra còn có chỉ số S&P 100, tính trên cơ sở S &
P 500.
+ Value line Composite Average, đây là chỉ số tổng
hợp quyền số như nhau, bao gồm 1.700 cổ phiếu của
NYSE, AMEX và trên thị trường OTC. Trị giá cơ sở là 100,
195
ngày cơ sở là 30/6/1961. Sự thay đổi tính theo điểm chứ
không tính theo Dollar và Cent. Chỉ số này cũng tính cho 3
nhóm : công nghiệp, vận tải và dịch vụ công cộng.
+ Wishire 5.000 Equity Index, đây là chỉ số phạm
vi rộng nhất. Chỉ số này tính theo quyền số giá trị. Nó bao
gồm hơn 6000 cổ phiếu giao dịch ở NYSE, AMEX, hệ
thống thị trường quốc gia NASDAQ. Ngày cơ sở là ngày
31/12/1980.
* Các chỉ số của Nhật Bản:
+ Chỉ số Nikkei 225, là chỉ số tổng hợp cổ phiếu với
quyền số giá của 225 cổ phiếu thuộc Sở giao dịch chứng
khoán Tokyo và 250 cổ phiếu thuộc Sở Giao dịch Osaka.
Chỉ số này do Thời báo Kinh tế Nhật và công bố (Thời báo
Nikkei). Chỉ số này còn được gọi là chỉ số Nikkei Dow vì
phương pháp tính của nó như phương pháp tính của Dow
Jones.
+ Chỉ số TOPIX, chỉ số này tính cho tất cả chứng
khoán niêm yết quan trọng của TTCK Tokyo. Thời điểm
gốc là 4/1/1968 với giá trị gốc là 100.
* Chỉ số cuả Anh:
+ Chỉ số FT -30, là chỉ số giá của 30 cổ phiếu công
nghiệp hàng đầu của TTCK London. Chỉ số này được công
bố từng giờ kể từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều và vào lúc
đóng cửa của Sở giao dịch chứng khoán London. Thời gian
gốc là năm 1935 với giá trị 100.
196
+ Chỉ số FT – sE 100, là chỉ số giá của 100 cổ
phiếu hàng đầu tại Sở giao dịch chứng khoán London. Ngày
gốc là 3/1/1984 với giá trị gốc là 1.000.
* Các chỉ số khác:
+ Chỉ số CAC (Pháp), tính cho 240 cổ phiếu hàng
đầu tại Sở Giao dịch chứng khoán Paris. Ngày gốc là
31/12/1981 với giá trị gốc là 100.
+ Chỉ số DAX (Đức), tính cho 30 cổ phiếu hàng đầu
của Đức. Ngày gốc là 31/12/1987 với giá trị gốc là 1.000.
4.2.5- Các chỉ tiêu phân tích kỹ thuật :
4.2.5.1- Quy mô thị trƣờng
Quy mô thị trường được dùng để đo lường sức mạnh
của một số thị trường đang tăng trưởng hay thu hẹp.
TRIN : Là tỷ số của quy mô cổ phiếu suy giảm bình
quân so với quy mô cổ phiếu thăng tiến bình quân.
TRIN = Số chứng khoán đã tăng giá : Số chứng khoán đã hạ giá
Số lƣợng cổ phiếu đã tăng : Số lƣợng cổ phiếu đã giảm
Ví dụ 4.5: Có 1,000 loại chứng khoán đã tăng giá
và 820 loại chứng khoán giảm giá, tương ứng với 88 triệu
cổ phiếu đã tăng giá và 76 triệu cổ phiếu đã giảm giá .
1,000 : 820
TRIN= = 1,079
88T :76T
197
4.2.5.2.Độ rộng của thị trƣờng :
Độ rộng của thị trường là chỉ báo về số lượng các cổ
phiếu tăng giá và số lượng các cổ phiếu giảm giá trong mỗi
ngày giao dịch. Chỉ báo này giải thích nguyên nhân sự đổi
hướng của các chỉ số chứng khoán.
Ví dụ 4.6
Tình hình giao dịch của các cổ phiều niêm yết như sau:
Ngày 1 2 3 4 5
Số CP lên giá 950 965 822 652 847
Số CP xuống
giá
858 780 760 1125 920
Hãy xác định độ rộng của
thị trường.Chỉ báo này cho thấy dấu hiệu tích hay tiêu
cực ?
Giải:
Ngày 1 2 3 4 5
Số CP lên giá 950 965 822 652 847
Số CP xuống
giá
858 780 760 1125 920
Chênh lệch 92 185 62 -473 -73
Độ rộng lũy kế 92 277 339 -134 -207
Với ví dụ 4.6, chỉ báo cho thấy thị trường đang có xu
hướng xấu đi.
4.2.5.3- Tổng khối lƣợng bán khống
Bán khống (Short sales) là bán cổ phiếu khi chưa có
quyền sở hữu. Nhà đầu tư bán khống vì dự đoán giá cổ
198
phiếu trong tương lai sẽ giảm đi, nên hiện tại họ vay chứng
khoán của nhà môi giới để bán cho người mua. Sau đó, khi
đến thời hạn, nếu dự đoán đúng, họ sẽ mua cổ phiếu để trả
cho nhà môi giới với giá cổ phiếu giảm, thu được lợi nhuận.
Nghiệp vụ này thường đươc các nhà đầu tư chuyên nghiệp
thực hiện
- Tổng khối lượng bán khống sẽ tăng mạnh, nếu nhà
đầu tư dự đoán giá cổ phiếu trên thị trường sẽ giảm trong
tương lai.
- Mặt khác, khi giao dịch bán khống được tất toán,
nhu cầu cổ phiếu sẽ tăng, tác động làm cho giá cổ phiếu lên
giá .
4.2.5.4- Giao dịch lô lớn:
Giao dịch lô lớn của nhà đầu tư có tổ chức có tác
dụng hướng dẫn thị trường.
- Nếu giao dịch lô lớn do nhà đầu tư mua sẽ làm cho
giá thị trường tăng giá.Ngược lại, nếu nhà đầu tư giao dịch
lô lớn bán khởi xướng bán sẽ làm giá cổ phiếu giảm.
- Tỷ lệ giá lên / giá xuống của giao dịch lô lớn :
+ Nếu > 1 : Xu thế giá lên
+ Nếu < 1 : Xu thế giá xuống.
4.2.5.5- Sử dụng phƣơng pháp số dƣ trên tài khoản giao
dịch
* Số dư có trên tài khoản giao dịch:
Số dư có trên tài khỏan xuất hiện khi nhà đầu tư bán
chứng khoán mà không rút tiền ra khỏi tài khoản giao dịch
199
với mong muốn tiếp tục tái đầu tư. Thường số liệu tổng
hợp về tình hình tài khoản giao dịch của nhà đầu tư được
công bố trên một vài tạp chí tài chính. Phân tích kỹ thuật,
coi số dư có trên tài khoản giao dịch là sức mua tiềm năng.
Họ cho rằng khi số dư này giảm xuống là niểu hiện của xu
hướng xuống giá,do báo hiệu sức mua giảm hơn khi thị
trường đạt đến đỉnh cao.Ngược lại, số dư có tăng lên là tín
hiệu gia tăng về sức mua và là tín hiệu cuả xu hướng lên giá
.
* Số dư nợ trên tài khoản giao dịch:
Số dư nợ trên tài khoản giao dịch phản ánh hành
động của nhà đầu tư có kiến thức và chuyên môn sâu trong
việc thực hiện ký quỹ. Khi số dư nợ gia tăng sẽ là dấu hiệu
của xu hướng lên giá. Ngược lại, khi số dư nợ giảm xuống
sẽ là dấu hiệu bán ra vì các nhà đầu tư muốn kết thúc một
chu kỳ giao dịch. Đồng thời, nó cũng phản ánh sự sụt giảm
của luồng vốn tham gia thị trường,đây là dấu hiệu cuả xu
hướng xuống giá .
4.2.5.6. Chỉ số tin cậy.
Chỉ số tin cậy là tỷ số của số bình quân 10 cổ phiếu
của công ty hàng đầu chia cho số bình quân của 10 cổ phiếu
công ty hạng trung bình. Tỷ số này sẽ luôn luôn nhỏ hơn
1,do các trái phiếu xếp hàng cao hơn sẽ mang lại các lợi
nhuận thấp hơn. Khi những kinh doanh trái phiếu lạc quan
về nền kinh tế, họ có thể yêu cầu các món tiền thưởng thấp
200
hơn. Vì vậy, lợi nhuận sẽ nhỏ, và chỉ số tin cậy sẽ xấp xỉ 1.
Do đó, các giá trị cao hơn của chỉ số tin cậy là những dấu
hiệu của giá đang lên.
4.2.5.7. Sức mạnh tƣơng đối.
Sức mạnh tương đối đo lường mức độ, mà theo đó,
một chứng khoán đã vượt trội hoặc kém xa so với thị trường
nói chung hay với ngành cá biệt. Sức mạnh tương đối được
tính bằng cách tính tỷ số giữa giá chứng khoán của một
công ty với chỉ số giá của ngành. Thí dụ, sức mạnh tương
đối của Ford so với ngành sản xuất xe hơi sẽ được đo lường
bằng các vận động của tỷ số giữa giá của Ford chia cho tỷ
số ngành sản xuất xe hơi. Một tỷ số đang tăng có nghĩa Ford
đang vượt trội so với các doanh nghiệp khác trong ngành
sản xuất xe hơi. Nếu sức mạnh tương đối vững mãi theo
thời gian thì đó là dấu hiệu mua chứng khoán của Ford.
Tương tự, sức mạnh tương đối của một ngành so với
toàn thị trường có thể được tính bằng cách theo dõi tỷ số giá
của ngành với chỉ số giá của thị trường.
Thí dụ: Hai cột giữa trong bảng dưới đây trình bày
các số trên về các mức chỉ số ngành xe hơi với S&P 500.
Có phải ngành xác định được sau khi xem xét cột cuối cùng
là cột trình bày tỷ số của hai tỷ số đó. Mặc dù ngành sản
xuất xe hơi nói chung đang có lợi nhuận được phản ảnh bởi
201
các mức tăng dần của chỉ số ngành. Nhưng ngành này vẫn
chưa cho thấy sức mạnh tương đối.Tỷ số giảm dần giữa chỉ
số ngành sản xuất xe hơi với chỉ số S&P 500 cho thấy
ngành sản xuất xe hơi thực hiện kém hơn so với thị trường.
Tuần Ngành
sản xuất
xe hơi
S&P 500 Tỷ số
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
165.6
166.7
168.0
166.9
170.2
169.2
171.0
174.1
173.9
174.2
447.0
450.1
455.0
459.9
459.1
463.0
469.0
473.2
478.8
481.0
0.370
0.370
0.369
0.363
0.371
0.365
0.365
0.368
0.363
0.362
4.2.6. HỆ THỐNG XẾP HẠNG VALUE LINE:
Hệ thống xếp hạng Value Line là điển hình tốt nhất
của quá trình phân tích cổ phiếu tốt. Value Line là một dịch
vụ tư vấn đầu tư lớn nhất trên thế giới. Ngoài việc phát hành
202
tạp chí “Value Line Invest ment Survey” để cung cấp thông
tin về các nguyên tắc đầu tư của khoảng 1700 công ty
thương mại cổ phần Value Line còn xếp hạng từng cổ phiếu
này theo sự đánh giá dự đoán cho 12 tháng tới.Các cổ phiếu
được xếp vào nhóm 1 là có kết quả tốt nhất trong khi các cổ
phiếu thuộc nhóm 5 thì có kết quả xấu nhất. Value Line gọi
cách xếp hạng này là “xếp hạng theo tính hợp thời”.
Hình 4.20 dưới đây cho thấy hệ thống xếp hạng
Value Line qua 25 năm, từ năm 1965 đến 3/1990. Trong
suốt thời kỳ này, các nhóm khác nhau có kết quả đúng như
các cách xếp hạng đã dự báo, và chênh lệch thực sự lớn. Sự
đánh giá trong suốt 25 năm của nhóm 1 là 3.0873% (hoặc
14,8%/năm) so với 15% (hoặc 0,5% năm) của nhóm 5.
Cơ chế vận hành hệ thống xếp hạng Value Line:
Theo Bernhard (1979) thì cách xếp hạng của value Line có
3 yếu tố cấu thành: (1) xung lượng thu nhập liên quan, (2)
thu nhập bất ngờ, (3) chỉ số trị giá. Đa số (không phải tất cả)
tiêu chuẩn Value Line có xu hướng kỹ thuật, dựa trên hoặc
xung lượng giá hoặc sức mạnh tương đối. Các điềm phân bổ
cho từng yếu tố xác định thứ hạng chung cuộc của cổ phiếu.
Hình 4.20: Phƣơng pháp xếp hạng theo tính hợp thời
của Value Line
203
Yếu tố xung lượng thu nhập liên quan được tính
bằng cách lấy mức biến động thu nhập hàng quý trong các
năm của từng công ty chia cho mức biến động bình quân
của tất cả các cổ phiếu.
Yếu tố thu nhập bất ngờ là chênh lệch giữa thu nhập
thực tế báo cáo hàng quý với số ước tính của Value Line.
Các điểm phần bổ cho từng cổ phiếu tăng lên cùng với
chênh lệch về tỷ lệ giữa thu nhập báo cáo và thu nhập ước
tính.
Chỉ số giá được tính từ công thức hồi quy dưới đây:
V = a + b1 x1 + b2 x2 + b3 x3
204
Với:
X1 = Điểm từ 1 đến 10 tùy theo cách xếp hạng xung
lượng thu nhập liên quan, so sánh với hạng của công ty của
10 năm trước.
X2 = điểm từ 1 đến 10 dựa trên giá tương đối của cổ
phiếu với các tỷ số được tính theo cách tương tự như tỷ số
thu nhập.
X3 = Tỷ số giữa giá tương đối bình quân 10 tuần vừa
qua của cổ phiếu, với giá tương đối bình quân 52 tuần của
nó; và a, b1, b2 và b3 là các hệ số từ phương trình hồi quy
được ước tính dựa trên số liệu của 12 năm.
Cuối cùng, các điểm của từng yếu tố này được cộng
lại, và cổ phiếu được chia vào 5 nhóm theo số điểm của nó.
4.3 PHÂN TÍCH LỰA CHỌN CỔ PHIẾU
Giá cả của bất cứ cổ phiếu nào cũng tương đương
với giá trị hiện tại của các nguồn thu nhập bằng tiền trong
tương lai của cổ phiếu đó. Tỷ suất lợi tức dùng để tính giá
trị hiện tại phụ thuộc vào lợi suất cổ phiếu đang được chào
bán. Muốn định giá cổ phiếu, cần phải xem xét các nguồn
thu nhập bằng tiền và lợi suất củacổ phiếu..Thu nhập của
cổ phiếu bap gồm:.
- Số tiền chia lời định kỳ cho cổ đông (cổ tức)
- Chênh lệch giá mua và giá bán lại cổ phiếu (lãi
vốn). Người có cổ phiếu sẽ nhận được số tiền bằng giá cổ
205
phiếu bán lại trên thị trường khi chuyển nhượng quyền sở
hữu cổ phần cho người khác ở thời điểm trong tương lai.
Nhà đầu tư chọn lựa cổ phiếu để mua căn cứ vào
tình trạng kinh doanh của công ty phát hành với giá của cổ
phiếu trên thị trường.
Giữa thực trạng kinh doanh của công ty và cổ phiếu
của công ty tuy có mối liên hệ với nhau nhưng nó lại phản
ảnh những tính chất khác nhau.
4.3.1- Định giá cổ phiếu
Cổ phiếu là giấy chứng nhận cổ phần, nó xác nhận
quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty cổ phần. Người
mua cổ phiếu thường trở thành cổ đông thường hay cổ đông
phổ thông. Cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường là một trong
những người chủ doanh nghiệp nên là người trực tiếp được
hưởng kết quả sản xuất kinh doanh cũng như chịu mọi rủi
ro trong kinh doanh, do đó cổ phiếu thường có những đặc
điểm sau:
- Cổ phiếu là chứng nhận góp vốn, do đó không có
kỳ hạn hoàn vốn.
- Cổ tức của cổ phiếu thường tùy thuộc vào kết quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi công ty làm ăn
phát đạt, cổ đông cũng được hưởng lợi nhuận cao hơn so
với các loại chứng khoán khác. Nhưng ngược lại, cổ tức có
thể rất thấp hoặc hoàn toàn không có khi doanh nghiệp làm
ăn thua lỗ.
206
- Khi công ty bị phá sản, cổ đông thường là người
cuối cùng được chia giá trị còn lại của tài sản thanh lý.
- Giá cổ phiếu biến động rất nhanh, đặc biệt là trên
thị trường thứ cấp, do nhiều nhân tố nhưng nhân tố quan
trọng nhất là hiệu quả kinh doanh và giá trị thị trường của
doanh nhgiệp
4.3.2. Các loại giá cổ phiếu
Mệnh giá (Par – Value): Là giá trị ghi trên giấy
chứng nhận cổ phiếu. Mệnh giá của mỗi cổ phiếu chỉ có giá
trị danh nghĩa.Thông thường khi công ty mới thành lập,
mệnh giá cổ phiếu được tính như sau :
Mệnh giá cổ phiếu
mới phát hành =
Vốn điều lệ của công ty cổ phần
Tổng số CP đăng ký phát hành
Ví dụ : Năm 2006, công ty cổ phần MINH MINH
thành lập với vốn điều lệ 60 tỷ đồng, số cổ phần đăng ký
phát hành là : 600.000.
Ta có :
60 tỷ đồng
= = 10.000 đ/CP
6.000.000
Mệnh giá
mỗi cổ phiếu
207
Nhưng trong tương lai, công ty ngày càng phát triển, giữa
giá trị thực và giá bán của cổ phiếu trên thị trường thoát ly
càng lúc càng xa mệnh giá cổ phiếu, hơn nữa, các nhà đầu
tư quan tâm khi bỏ tiền ra mua cổ phiếu đó là cổ tức công
ty, yếu tố cấu thành nên giá trị thực của cổ phiếu. Do đó,
mệnh giá cổ phiếu chỉ có giá trị danh nghĩa.
Thư giá ( Book value): Giá cổ phiếu ghi trên sổ
sách kế toán phản ảnh tình trạng vốn cổ phần của công ty ở
một thời điểm nhất định.
Cũng như ví dụ trên, năm 2008 công ty A quyết định
tăng thêm vốn bằng cách phát hành thêm 2.000.000CP,
mệnh giá mỗi cổ phiếu vẫn là 10.000đ, nhưng giá bán cổ
phiếu trên thị trường là 30.000đ. Biết rằng, quá trình tích
lũy dùng cho đầu tư còn lại tính đến cuối năm 2003 là 20 tỷ
đồng.
Trên sổ sách kế toán ngày 31/12/2003 như sau:
Vốn cổ phần
Vốn cổ phần theo mệnh giá :
8 triệu x 10.000 = 80 tỷ đồng
Vốn thặng dư:
(30.000 – 10.000) x 2 triệu = 40 tỷ đồng
Quỹ tích lũy : 20 tỷ đồng
208
Tổng số vốn cổ phần : 65 tỷ đồng
Thư giá cổ phiếu
=
140 tỷ đồng = 17,50đ
8 triệu
Giá trị nội tại (Intrinsic value) : Là giá trị thực của
cổ phiếu ở thời điểm hiện tại. Được tính toán căn cứ vào cổ
tức công ty, triển vọng phát triển công ty và lãi suất thị
trường. Đây là căn cứ quan trọng cho nhà đầu tư khi quyết
định đầu tư vào cổ phiếu đánh giá được giá trị thực của cổ
phiếu, so sánh với giá của thị trường và chọn lựa phương án
đầu tư có hiệu quả nhất.
Tại thời điểm cân bằng giữa cung và cầu, hiện giá
của cổ phiếu là giá cả hợp lý của cổ phiếu được nhà đầu tư
chấp thuận.
Thị giá (Market value): Là giá cổ phiếu trên thị
trường tại một thời điểm nhất định. Tùy theo quan hệ cung
cầu mà thị giá có thể thấp hơn, cao hơn hoặc bằng giá trị
thực của nó tại thời điểm mua bán..Có nhiều nhân tố kinh
tế, chính trị, xã hội... tác động quan hệ cung cầu cổ phiếu
trong đó, yếu tố quan trọng nhất là giá thị trường của công
ty và khả năng sinh lợi của nó.
4.3.3- Lợi tức và rủi ro:
* Lợi tức của cổ phiếu
Nhà đầu tư mua cổ phiếu được hưởng lợi tức từ 2
nguồn:
209
- Cổ tức: là phần lợi nhuận chia cho mỗi cổ phần
(Dividend per share) được trích từ lợi nhuận ròng, sau khi
trả cổ tức ưu đãi và thu nhập giữ lại để trích quỹ. Như vậy
cổ tức không đuợc xác định trước mà phụ thuộc vào kết quả
kinh doanh và chính sách chia cổ tức của công ty. Công ty
có thể trả cổ tức bằng tiền hoặc cổ phiếu.
- Lợi tức do chênh lệch giá (Capital gain yield) :
Phần lớn các nhà đầu tư với chiến lược kinh doanh ngắn
hạn sẽ bán cổ phiếu ngay khi giá cổ phiếu tăng đểthu lợi
nhuận
* Rủi ro cổ phiếu:
Để định giá được cổ phiếu phải tính được tỷ suất lợi
nhuận mong đợi r. Tỷ suất lợi nhuận mong đợi đi liền với
rủi ro kinh doanh. Mỗi ngành kinh doanh có một độ rủi ro
nhất định. Động lực của hoạt động kinh doanh chính là các
doanh nghiệp chấp nhận rủi ro để có thể thu được lợi nhuận,
nếu tính rủi ro, càng cao thì lợi nhuận thu về càng cao.
Chúng ta đã nghiên cứu rủi ro trong đầu tư chứng khoán ở
chương 2
Để làm rõ thêm khái niệm rủi ro đầu tư cổ phiếu,
chúng ta hãy quan sát thị trường cho vay vốn ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại khi cho khách hàng vay thường
tính lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản của ngân
hàng cộng với một tỷ lệ bù đắp rủi ro. Tỷ lệ bù đắp rủi ro
này chính là rủi ro của ngành kinh doanh mà người vay dự
kiến đầu tư vào.
210
Nhà đầu tư bỏ vốn mua cổ phiếu của công ty phải
xem xét liệu vốn của họ bỏ vào có thể thu được lợi nhuận
đủ bù đắp rủi ro không. Tương tự như thị trường tín dụng,
tỷ suất lợi nhuận mong đợi bằng tỷ suất lợi nhuận của tài
sản phi rủi ro cộng với tỷ lệ bù đắp rủi ro.
Khái niệm rủi ro đầu tư cổ phiếu là đặc biệt quan
trọng vì nhiều nhà đầu khi lập các dự án đầu tư chỉ tính hiệu
quả do lợi nhuận thu được mà không tính đến độ rủi ro của
ngành kinh doanh mà mình dự định đầu tư. Vì vậy, khi dự
án hoàn thành thì kết quả lại không như mong muốn, thậm
chí còn có các dự án lãng phí tiền của. Do đó, khi lập dự án
đầu tư phải tính đến chi phí cơ hội của đồng vốn bỏ ra, hay
là tỷ suất lợi nhuận mong đợi.Tương tự, đối với các nhà
hoạch định chính sách, khi đưa ra các chính sách lãi suất
phải xuất phát từ quan niệm về một thế giới kinh doanh tiền
tệ ngẫu nhiên . Không thể áp dụng một lãi suất cố định cho
vay đối với mọi ngành nghề kinh doanh. Nếu áp dụng trần
lãi suất hoặc chênh lệch lãi suất cố định thì ngân hàng cũng
không thể cho vay được nếu muốn kinh doanh có lãido đó,
sẽ có nhiều ngành nghề không thể phát triển được. Như vậy,
hiểu được bản chất của chi phí cơ hội, tỷ suất lợi nhuận
mong đợi thì các nhà đầu tư lập dự án đầu tư kinh doanh
mới có thể xây dựng được đề án khả thi.
211
4.3.4- Cổ tức (dividend)
Cổ tức là tiền lời chia cho cổ đông trên mỗi cổ phiếu
thường ,căn cứ vào kết quả thu nhập từ hoạt động sản xuất
kinh doanh của công ty.
Cổ tức của cổ phiếu thường được trả sau khi đã trả
cổ tức cố định cho cổ phiếu ưu đãi.
Định kỳ hàng năm, Hội đồng quản trị công ty quyết
định công bố có trả cổ tức hay không và chính sách phân
chia cổ tức như thế nào?
Cổ tức được công bố theo năm và được trả theo quý.
Chính sách chia cổ tức (dividenced policy) của công
ty phụ thuộc vào:
- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
trong năm, căn cứ vào thu nhập ròng của công ty .
- Số cổ phiếu ưu đãi chiếm trong tổng số vốn cổ
phần.
- Chính sách tài chính trong năm tới trong đó xem
xét khả năng tự tài trợ.
- Hạn mức của quỹ tích lũy dành cho đầu tư.
Thu nhập ròng – Lãi cổ tức CPƯĐ –
Tích quỹ tích lũy
=
Số cổ phiếu thường đang lưu hành
Cổ tức cổ
phiếu thường
212
- Giá trị thị trường của cổ phiếu công ty.
Trong mục này, chúng ta đi xác định giá trị nội tại
của cổ phiếu (Intrinsic value). Giá này là căn cứ để nhà đầu
tư biết được giá trị thật của cổ phiếu vào thời điểm mua bán,
để quyết định có nên đầu tư hay không?
Sau đây là một số phương pháp định giá:
4.3.5- Định giá cổ phiếu theo phƣơng pháp chiết khấu cổ
tức (phƣơng pháp DDM)
Nếu dự đoán được cổ tức D2 năm thứ hai, giá cổ
phiếu P2 năm thứ hai và tỷ suất lợi nhuận mong đợi r thì
tính được giá cổ phiếu năm thứ nhất P1:
Tính tương tự cho đến năm n, ta định giá được cổ
phiếu chính là quy về giá trị hiện tại của luồng thu nhập cổ
tức cho đến năm thứ n cộng (+) với quy giá trị về hiện tại
của giá cổ phiếu năm thứ n. Công thức là :
Nhìn chung, giá cổ phiếu hiện tại là quy giá trị về
hiện tại của toàn bộ cổ tức trong tương lai.
1 (1 )
io i
i
DP
r
P1 = D2 + P2
1 + r
Po = D1
+ D2
+ ... + Dn
+ Pn
1 + r (1+r)2
(1+n)n (1+n)
n
213
Mô hình này được sử dụng với giả định :
- Biết được tốc độ tăng trưởng của cổ tức.
- Tính toán được lãi suất chiết khấu.
* Lãi suất chiết khấu
Theo mô hình định giá tài sản vốn CAMP, lãi suất
chiết khấu :
r = rf + (rm - rf)
Trong đó :
- rf : Lãi suất tín phiếu rủi ro
- rm : Lãi suất thị trường
- : Mức độ rủi ro của công ty
Công thức trên áp dụng trong trường hợp công ty chỉ
phát hành cổ phiếu, Nếu công ty phát hành cả cổ phiếu lẫn
trái phiếu thì r chính là chi phí sử dụng vốn bình quân
WACC.
(1 )e d
E Er WACC x x t
D E D Er r
- re : Chi phí sử dụng vốn cổ phần thường và cổ
phần ưu đãi.
- rd : Chi phí sử dụng vốn vay
- E và D : Giá trị vốn cổ phần thường cổ phần ưu
đãivà vốn vay tương ứng.
- t: Thuế suất thuế thu nhập.
214
Ví dụ : Vốn của công ty MITI là 2.800 triệu, trong
đó :
Trái phiếu: 800 triệu với lãi suất 10%.
Cổ phiếu thường : 1.600 triệu.
Tỷ suất doanh lợi các cổ đông đòi hỏi là 10% và tốc
độ tăng lợi nhuận trung bình hàng năm là 0,8%/ năm.
Cổ phiếu ưu đãi : 400 triệu với tỷ suất doanh lợi đòi
hỏi 12%.
Hãy tính chi phí sử dụng vốn bình quân của Cty
MITI ?
Biết thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp : 25%.
Giải:
Chi phí sử dụng vốn vay : 10%.
Chi phí sử dụng vốn góp (cổ phiếu thường):
10% + 0,8% = 10,8%
Chi phí sử dụng vốn góp (cổ phiếu ưu đãi) : 11%
Vậy chi phí sử dụng vốn bình quân :
r = WACC
= 0.098857
* Các mô hình tăng trưởng
+ Mô hình tăng trưởng bằng không (Zero Growth)
r= WACC= 1600*10.8% + 800*10%*75% + 400*11%
2800
215
Mô hình này cho nhà đầu tư được hưởng phần chia
lời cố định với thời hạn là vĩnh viễn (Trái phiếu không kỳ
hạn (Consol hay Perpetual Bond) hoặc cổ phiếu ưu đãi).
Gọi cổ tức là D (Dividend) thì D sẽ bằng nhau ở các năm.
D0 = D1 = D2 = ... = Di ...
Po : Giá của cổ phiếu
r: Lãi suất chiết khấu
2
1
...(1 ) (1 ) (1 )
1
(1 ) (1 )
o
o tt
D D DP
r r r
D D DP D
r r r r r
Vậy : o
D
rP
Mô hình này được áp dụng cho các loại chứng
khoán:
- Trái phiếu không kỳ hạn (Consol hay Perpetual
Bond): Là loại trái phiếu đã được chính phủ ở một số nước
châu Âu phát hành sau chiến tranh để huy động vốn dài hạn
phục vụ tái thiết đất nước. Với tính chất không kỳ hạn nên
loại trái phiếu này không có ngày đáo hạn và không hoàn lại
vốn gốc cho nhà đầu tư.Nhưng, nhà đầu tư được hưởng lợi
tức vĩnh viễn.
Vì dụ: Chính phủ cần huy động vốn cho việc tái
thiết đất nước sau chiến tranh, phát hành loại trái phiếu vô
kỳ hạn (consols) mệnh giá 6.000.000đ với tỷ lệ lãi trái phiếu
216
là 25%/ năm. Nếu lãi suất tối thiểu là 20% thì giá trị hiện tại
của trái phiếu là bao nhiêu:
P0 = 6.000.000*25% = 7.500.000đ 20%
- Cổ phiếu ưu đãi ( Preferred stock): Là loại cổ phiếu
mà cổ đông được hưởng cổ tức được xác định trước và cũng
với thời hạn là vĩnh viễn.
Ví dụ: Ngân hàng phát hành cổ phiếu ưu đãi mệnh
giá 100.000đ, suất cổ tức 10%. Tỷ lệ lãi yêu cầu trên cổ
phiếu là 15% giá trị của cổ phiếu này hiện nay là bao nhiêu?
- Đối với loại cổ phiếu thường không tăng trưởng là
lọai cổ phiếu của công ty có tốc độ tăng trưởng g = 0 với
chính sách chia cổ tức của công ty là cổ tức cố định.
Ví dụ: Công ty MINH THU hiện đang trả lãi cho cổ
đông 6.000đ/ cổ phiếu trong vài năm nay và dự tính sẽ duy
trì mức chia lời trong những năm tới. Nếu nhà đầu tư yêu
cầu tỷ lệ lãi 16% thì giá cổ phiếu hiện nay trên thị trường là
bao nhiêu?
P0 = 6000
=37.500 đ 16%
P0 = 100000*10%
= 66666.66đ 15%
217
Giá trị lý thuyết của cổ phiếu này là 37.500 đ .Đây là
cơ sở để nhành đầu tư qiuyết định. Trên nguyên tắc, nhà
đầu tư sẽ mua cổ phiếu này nếu giá cổ phiếu trên thị trường
thấp hơn. 37.500 đ
+ Mô hình tăng trưởng đều (Constant Growth)
Tốc độ tăng trưởng g không đổi
g = ROE x Tỷ lệ thu nhập giữ lại
ROE = LN sau thuế
Vốn chủ sở hữu
Trong trường hợp này, mô hình định giá cổ phiếu
như sau :
Trong đó D là cổ tức hiện tại của cổ phiếu và g là tốc
độ tăng trưởng cổ tức. Cổ tức kỳ vọng ở cuối kỳ n được xác
định bằng cổ tức hiện tại nhân (x) với thừa số (1+g)n. Giả
sử rằng r > g, Ta nhân 2 vế của công thức trên với 1 + r / 1
+ g, sau đó trừ vế với hai vế ta có:
(1 ) (1 )
(1 ) (1 )
o oo o
P r D gP D
g r
Do r > g nên :
(1 )
(1 )
oD g
g tiến đến zero.
Po = Do(1+g)
+ Do(1+g)
2
+ ... + Do(1+g)
( 1+ r) (1+r)
2 (1+n)
218
Ta được:
(1 ) (1 ) (1 )1
(1 ) (1 )o o o o
r r gP D hay P D
g g
Po (r-g) = Do (1+g) = D1
Suy ra:
1o
DP
r g ( *)
Công thức( *) còn được gọi làm mô hình định giá cổ tức
của Gordon-do Myron J. Gordon phát triển từ công trình
nghiên cứu cuả người đi trước là John Williams.
Điều kiện áp dụng mô hình tăng đều :
- g
- g constant
- g < r
Ví dụ: Phân tích doanh nghiệp GIA BẢO giá cổ
phiếu hiện hành là 16 USD. EPS của năm trước là 2USD,
ROE là 11% và giả định trong tương lai không đổi. Cổ tức
chiếm 40% lợi nhuận. Tỷ lệ không rủi ro danh nghĩa là 7%.
Tỷ suất sinh lời kỳ vọng của thị trường là 12% và hệ số beta
của doanh nghiệp là 1,25. Hãy định giá chứng khoán GIA
BẢO và đưa ra lời khuyên của bạn?
Bài giải:
EPSo = 2
Do = 2 x 0,4 = 0,8
219
g = 11% x 60% = 6,6%
D1 = 0,8 (1+ 6,6%) = 0,8528
r = 7% + (12% - 7%) 1,25 = 13,25%
1 0,852812,82
13,25% 6,6%o
DP USD
r g
Po < Giá thị trường nên BÁN cổ phiếu GIA BẢO
Mô hình tăng trưởng nhiều giai đoạn
(Differential Growth)
Trên thực tế sự tăng trưởng của một công ty
diễn ra không đều và chia làm nhiều giai
đoạn.Thường, công ty sẽ trải qua một giai đoạn tăng
nhanh với tốc độ tăng trưởng g > r, nhưng tình trạng
trưởng nhanh này diễn ra không bền vững, chỉ diễn
ra trong một số năm và sau đó công ty sẽ bị các đối
thủ cạnh tranh làm cho tốc độ tăng trưởng tăng chậm
lại.
+ Trường hợp 1: Sự tăng trưởng của công ty diễn
biến qua nhiều giai đoạn với sự thay đổi tốc độ tăng trưởng
g, nhưng nói chung có thể phân chia thành 2 giai đoạn
chính:
- Giai đoạn 1 : Nhanh (Super Normal Growth)
gS : Tốc độ tăng nhanh > r
- Giai đoạn cuối: tốc độ tăng đều (constant growth)
gL : tốc độ tăng đều < r
220
Giả sử rằng công ty tăng trưởng nhanh trong n năm,
với giai đoạn này nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu và hưởng n
lần cổ tức.
Từ năm thứ n + 1 trở đi,công ty tăng trưởng đều. Nhà
đầu tư bán cổ phiếu ở cuối năm thứ n với giá :
1n
n
L
DPr g
Như vậy, tất cả thu nhập mà nhà đầu tư nhận được
trên cổ phiếu bao gồm 2 phần: phần thứ nhất là các cổ tức
được chia từ năm thứ nhất đến năm thứ n ; phần thứ hai tiền
bán cổ phiếu thu về với giá Pn. nên, giá trị của cổ phiếu hiện
nay là tổng hiện giá của các phần thu nhập mà nhà đầu tư
được hưởng trên cổ phiếu.
1
(1 ) (1 ) (1 )
(1 ) (1 ) ( )
t tno S o S L
o t nt L
D g D g x gP
r r x r g
Ví dụ: Công ty cổ phần GIA BẢO phát hành cổ
phiếu thường với lãi suất hiện hành là 15%, biết công ty
đang ở giai đoạn hưng thịnh và tăng trưởng nhanh, trong 2
năm đầu tốc độ tăng trưởng là 20%, 14% cho năm thứ 3, và
kể từ năm thứ 4 trở đi tăng trưởng đều với tốc độ trung bình
là 10%. Tiền chia lãi cho cổ phiếu hiện nay là 6 USD. Tính
hiện giá của cổ phiếu này.
Cổ tức mong đợi được chia từ năm thứ 1 đến năm 3
D1= 6(1+0,2)1 = $7,2
D2 = 6(1+0,2)2
= $8,64
221
D3 = 8,64(1+0,2)1 = $9,849
Tính hiện giá của cổ tức từ năm thứ nhất đến năm thứ 3
Po(D1) = 7,2x(1+0,15)-1
= 6,26
Po(D2) = 8,64x(1+0,15)-2
= 6,53
Po(D3) = 9,849x(1+0,15)-3
= 6,48
Tính hiện giá tại thời điểm cuối năm thứ ba của phần cổ
tức từ năm thứ 4 trở đi
7,216$%10%15
)1,01(849,9
gr
)1(D
gr
DP 34
3
g
Tính hiện giá P3 => Po(P3)= 216,7(1+0,15)-3
=
$142,5
Vậy hiện giá cổ phiếu là : 6,26+6,53+6,48+142,5 =
$161.77
Để có thể dự tính một cách chính xác các chỉ tiêu
đưa vào công thức tính toán, nhà đầu tư phải tiến hành phân
tích tình hình tài hình của doanh nghiệp để có thể dự báo
triển vọng phát triển trong tương lai của doanh nghiệp.
Nguyên tắc chung được áp dụng như sau:
-Tính D1: Việc ước tính cổ tức năm đầu (D1) được
dựa trên số liệu về cổ tức trong quá khứ; chính sách phân
chia cổ tức trong tương lai; ước tính thu nhập năm sau của
công ty, từ đó ước tính giá trị cổ tức nhận được trong năm
tới (D1).
-Tính g: Việc ước tính tỷ lệ tăng trưởng cổ tức của
công ty phải dựa trên đánh giá tiềm năng phát triển của
công ty về lâu dài chứ không chỉ đơn thuần trong một số
năm tới vì tốc độ tăng trưởng g được giả định là mức tăng
222
trưởng đều đặn của công ty trong suốt quãng đời hoạt động.
Do vậy, các số liệu để tính toán g phải là mức dự đoán bình
quân về lâu dài.
Ví dụ: Lợi tức cổ phần hiện hành = 1$, suất sinh lời
yêu cầu 8%, gS = 10% trong 3 năm ; tốc độ tăng trưởng sau
3 năm = 6%.
Do = 1$
D1 = 1(1,1) = 1,1$
D2 = 1,1(1,1) = 1,21$
D3 = 1,21(1,1) = 1,33$
D4 = 1,33(1,1) = 1,41$
3
2 3 3
1,4170,5$
8% 6%
1,1 1,21 1,33 70,559,12$
1,08 (1,08) (1,08) (1,08)o
P
P
+ Trường hợp 2: Không trả cổ tức
Ví dụ : Công ty MINH MINH không trả cổ tức,
EPS là 1$và giả sử tốc độ tăng trưởng là 20% trong 5 năm
tới. Sau 5 năm, công ty phải trả 30% lợi nhuận dưới dạng cổ
tức và có tốc độ tăng trưởng là 8%. Suất sinh lời yêu cầu là
12%. Tính giá trị của công ty MINH MINH ?
6
5( ) (1 )
11, 44$
o
L
o
DPr g r
P
+ Trường hợp 3: Mô hình với tốc độ tăng trưởng
giảm dần theo đường thẳng
223
(1 ) ( )
( )
o oL S L
o
L
xH
r
g g gD DP
g
H (t/2): Một nửa thời gian của giai đoạn tăng trưởng
mạnh.
Ví dụ : Công ty FF trả cổ tức 1$. Tốc độ tăng trường
là 30% và giả sử giảm dần trong 10 năm, sau đó giữ mức ổn
định 8%, tỷ suất lợi nhuận yêu cầu là 12%. Tính giá trị của
FF ?
[1 (1 0,08] [1 (10 / 2)(0,3 0,08)]54,5
0,12 0,08o
x xP
4.3.6- Phƣơng pháp sử dụng tỷ số P/E (Price earning
ratio) và P/B (Price book value ratio)
* Định giá cổ phiếu sử dụng tỷ số P/B
- Biểu hiện giá chứng khoán bình quân trên thị
trường cho một đơn vị giá trị tài sản (thư giá) bình quân của
cổ phiếu và xấp xỉ bằng trị giá cho mỗi cổ phiếu chia cho
giá trị tài sản cuả cổ phiếu đó.
P/B = Thị giá mỗi cổ phiếu
Trị giá tài sản của một cổ phiếu
Giá mỗi cổ phiếu = P/B x Trị giá tài sản của mỗi cổ
phiếu
- Phương pháp này chỉ ra mức giá cổ phiếu hiện tại
theo quan điểm trị giá tài sản của cổ phiếu.
* Định giá cổ phiếu sử dụng tỷ số P/E:
224
P/E = Thị giá mỗi cổ phiếu
EPS
Giá mỗi cổ phiếu = P/E x Thu nhập của mỗi cổ phiếu
đó
- Phương pháp này chỉ ra mức giá cổ phiếu hiện tại
theo quan điểm lợi nhuận (thu nhập) của cổ phiếu).
Ví dụ: Một nhà đầu tư muốn mua cổ phiếu của công
ty Y vào đầu năm tới và dự kiến sẽ bán vào cuối năm thứ
tư. Anh ta được các nhà phân tích tài chính cho biết dự kiến
EPS và tỷ lệ thanh toán cổ tức ( ttt%) của công ty trong các
năm như sau:
Năm EPS ttt%
to 10,51 46
t1 11,04 50
t2 11,49 50
t3 12,17 50
t4 12,77 50
Tỷ suất lợi nhuận yêu cầu trên cổ phiếu là 12% và
P/E dự kiến ở cuối năm thứ tư là 10. Hãy tính giá trị hiện tại
của cổ phiếu ?
Giải:
225
44
41 (1 ) (1 )
io i
D PP
r r
Năm EPS ttt% DPS
to 10,51 46 4,83
t1 11,04 50 5,52
t2 11,49 50 5,79
t3 12,17 50 6,08
t4 12,77 50 6,38
P4 = 10 x 12,77 = $127,7
2 3 4 4
5,52 5,79 6,08 6,38 127,7
1,12 (1,12) (1,12) (1,12) (1,12)oP
Po = $99
4.3.7- Định giá dựa vào dòng tiền thuần (FCF)
Dòng tiền thuần vốn cổ phần = Dòng tiền hoạt động
sản xuất kinh doanh – (trừ) Vốn đầu tư – (trừ) Khoản trả
cho chủ nợ.
* Giá trị hiện tại cuả dòng tiền thuần công ty (FCF
Firm)
Value of Firm =
1i
FCF Firmi
(1+ WACC)i
Trong đó :
FCF Firmi =
Dòng tiền từ hoạt động
sản xuất kinh doanh
_ Dòng tiền
được đầu tư
226
* Giá trị hiện tại của dòng tiền thuần vốn cổ phần
(FCF Equity)
Value of
Equity =
1i
FCF Equity
(1+ r)i
Luồng tiền tự do (Free Cash Flow) là luồng tiền
không được giữ lại để đầu tư.
Luồng tiền tự do = Doanh thu - Chi phí -
Đầu tư
Số tiền thu nhập còn lại sau khi giữ được một phần
để tái đầu tư vào kinh doanh chính là để trả cổ tức. Vì vậy,
cổ tức chính là luồng tiền tự do tính trên một cổ phần.
Như vậy, công thức tính hiện giá cổ phiếu có thể
được viết lại như sau :
Po = FCF1
+ FCF2
+ FCFn
+ Pn
1+r (1+r)2 (1+r)
n (1+r)
n
Ví dụ : Công ty A có kế hoạch sản xuất kinh doanh
trong 8 năm tới như sau :
Đơn vị : Triệu VNĐ
Năm 1 2 3 4 5 6 7 8
Giá trị tài
sản
10,0 12,0 14,4 17,28 20,74 23,43 26,47 28,05
Luồng
tiền
1,20 1,44 1,73 2,49 2,49 2,81 3,18 3,36
Đầu tư 2,00 2,40 2,88 3,46 2,69 3,04 1,59 1,68
227
FCF -0,80 -0,96 -1,15 -1,39 -0,20 -0,23 1,59 1,68
Tăng
trưởng
(%)
20 20 20 20 20 13 6 6
76
1,5939
0,1 0,06
DP
r g
2 3 4 5
6 6
0,8 0,96 1,15 1,39 0,2
1,1 (1,1) (1,1) (1,1) (1,1)
0,23 393,6 22,4 18,8
(1,1) (1,1)
oP
Đây là giá trị hiện tại của công ty. Công ty này
không có vay nợ và số cổ phiếu thường đang lưu hành là
20.000 cổ phiếu nên giá trị mỗi cổ phiếu là :
18.800.000
94020.000o
vndP
* Tỷ suất sinh lợi trên cổ phiếu:
Khi nhà đầu tư mua cổ phiếu mà họ dự tính sẽ bán
lại trong tương lai thì họ mong sẽ kiếm lời trên phần chia
cho cổ phần và hưởng lợi nhuận chênh lệch giá trong việc
bán lại cổ phiếu đó trong tương lai.
Do đó, tỷ suất lãi mong đợi (Expected Rate of
Return) được cấu thành bởi hai lãi suất :
- Tỷ suất cổ túc công ty (dividend gain yield)
- Tỷ suất tiền lời trên giá vốn (Capital gain yield)
hay chính là gia tốc tăng trưởng mong đợi (Expected
growth rate).
228
Nếu gọi :
r : Tỷ suất lãi mong đợi trên cổ phiếu thường.
D1: Tiền chia lời trên cổ phiếu năm 1.
Po: Giá trị hiện tại của cổ phiếu.
P1: Giá bán cổ phiếu ước đoán vào cuối năm 1.
Ta có công thức :
Nếu tiền lời chia tăng đều với tốc độ tăng trưởng g,
thì g lại chính bằng lãi suất mong đợi của việc tăng giá cổ
phiếu và:
1 o
o
g P PP
Do đó, đối với cổ phiếu thường có cổ tức tăng đều g ,
lãi suất mong đợi r trên cổ phiếu sẽ bằng tỷ suất cổ tức công
ty cộng với giá lúc tăng.
1
o
r gDP
Ví dụ : Nếu bạn mua 1 cổ phiếu với giá $40 hiện
nay, dự tính cổ phiếu được hưởng lời $2 vào cuối năm thứ 1
và tiền chia lời này được dự đoán sẽ tăng đều với tốc độ
7%/ năm.
Tỷ suất mong đợi
Trên cổ phiếu (r) =
$2 + 7% = 5% + 7% = 12%
40
11 o
o o
r P PDP P
229
Giả sử rằng, những số liệu và tính toán trên vào ngày
1/1/2005, nghĩa là hiện giá cổ phiếu Po = $40. Tiền chia lời
được hưởng cuối năm 2005 hay đầu năm 2006 sẽ là :
D1 = $2
Hãy tìm giá cổ phiếu vào cuối năm 2005 hay đầu
năm 2006 :
2
1 r g
DP
Mà D2 = D1 (1+g) = $2(1,07) = $2,14
Vậy : 1
2,14$42,80
0,12 0,07P
Để ý rằng :
P1 = $42,80 đã tăng 7% so với hiện giá Po = $40
P2 = Po(1+g) = 40 (1+7%) = $ 42,80
Do đó việc tăng vốn :
1 42,80 407%
40
o
o
P PP
cũng chính là gia tốc tăng trưởng g.
* Đối với mô hình tăng trưởng nhiều giai đoạn:
Tỷ lệ lãi mong đợi trên cổ phiếu chính là lãi suất cuả
dự án đầu tư vào cổ phiếu, r là nghiệm số của phương trình
sau :
1 (1 ) (1 )
ni n
o i n
D PP
r r
230
Nếu nhà đầu tư mua cổ phiếu với giá là Po, sau n
năm bán cổ phiếu với giá Pn, thì r là tỷ suất sinh lợi trên cổ
phiếu này.
4.4 PHÂN TÍCH QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƢ TRÁI PHIẾU
4.4.1. Lợi tức rủi ro của đầu tƣ trái phiếu
Nhà đầu tư mua trái phiếu được hưởng lợi tức từ các
nguồn sau:
+ Tiền lãi định kỳ, thường được trả 1 năm / lần hay
nửa năm/ lần. Số tiền lãi này được tính trên cơ sở lãi suất
cuống phiếu (Coupon interest rate) được quy ước nhân (x)
với mệnh giá trái phiếu.
C= c% x F
Ví dụ: Trái phiếu mệnh giá 1 triệu đồng, lãi coupon
9%, vậy hàng năm trái chủ nhận được số tiền lãi là :
C = 9% x 1.000.000 = 90.000đ
+ Chênh lệch giá : Là phần chênh lệch giữa giá bán
và giá mua trái phiếu. Với loại trái phiếu có tính thanh
khoản cao, nhà đầu tư sẽ bán trái phiếu khi giá trái phiếu
tăng lên và được hưởng chênh lệch giá.
+ Lãi của lãi: Trong trường hợp nhà đầu tư lãnh tiền
lãi định kỳ và tái đầu tư ngay, tiền lãi này sẽ sinh ra lãi gọi
là lãi tái đầu tư. Như vậy, sau một số năm nắm giữ trái
phiếu, số tiền lãi coupon được tái đầu tư sẽ mang lại cho trái
chủ một khoản lợi tức tiềm năng bao gồm lãi coupon và lãi
tái đầu tư.
231
+ Rủi ro của đầu tư trái phiếu:
Trên thị trường chứng khoán, trái phiếu được đánh
giá là loại hàng hoá ít rủi ro nhất. Tuy nhiên, đầu tư vào trái
phiếu vẫn có rủi ro, mặc dù mức độ là ít hơn so với rủi ro cổ
phiếu. Sau đây là một số rủi ro điển hình có thể xảy ra đối
với cổ phiếu .
4.4.1.1- Rủi ro lãi suất
Giá của một trái phiếu điển hỉnh sẽ thay đổi ngược
chiều với sự thay đổi của lãi suất: khi lãi suất tăng thì giá
trái phiếu sẽ giảm; khi lãi suất giảm thì giá trái phiếu sẽ
tăng. Nếu người đầu tư phải bán trái phiếu trước khi nó đáo
hạn trong điều kiện lãi suất tăng lên thì người đầu tư đó sẽ
bị lỗ vốn, tức là bán trái phiếu dưới giá mua. Tất cả các loại
trái phiếu, trừ trái phiếu có lãi suất thả nổi, đều phải chịu rủi
ro lãi suất.
Mức độ nhạy cảm của giá trái phiếu trước những
thay đổi trong lãi suất thị trường phụ thuộc vào những đặc
tính khác nhau của đợt phát hành, nhưlãi cuống phiếu và
thời gian đáo hạn. Nó cũng phụ thuộc vào những lựa chọn
kèm theo đợt phát hành.
4.4.1.2- Rủi ro tái đầu tƣ
Giả định rằng, các dòng tiền nhận được từ trái phiếu
được tái đầu tư. Khoản thu nhập bổ sung từ việc tái đầu tư
đó còn được gọi là lãi của lãi, phụ thuộc vào mức lãi suất
hiện hành tại thời điểm tái đầu tư, cũng như vào chiến lược
tái đầu tư. Khả năng thay đổi của lãi suất đầu tư của một
232
chiến lược xác định do sự thay đổi của lãi suất thị trường.
Từ đó dẫn tới tính không chắc chắn của lợi tức dự kiến nhận
được từ trái phiếu, được gọi là rủi ro tái đầu tư . Đó là rủi ro
khi lãi suất để tái đầu tư các dòng tiền giữa kỳ bị giảm
xuống. Rủi ro này sẽ lớn hơn đối với những thời kỳ nắm giữ
dài hơn.
Cần lưu ý rằng, rủi ro lãi suất và rủi ro tái đầu tư có
những hiệu ứng triệt tiêu nhau. Rủi ro lãi suất là rủi ro lãi
suất tăng làm giảm giá trái phiếu còn rủi ro tái đầu tư là rủi
ro lãi suất giảm.
4.4.1.3- Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán còn gọi là rủi ro tín dụng, là rủi ro
mà người phát hành một trái phiếu có thể vỡ nợ, tức là mất
khả năng thanh toán đúng hạn các khoản lãi và gốc của đợt
phát hành. Trái phiếu Chính phủ được coi là không có rủi ro
thanh toán. Trái phiếu công ty khác nhau sẽ có mức độ rủi
ro khác nhau.
Rủi ro thanh toán được xác định bằng mức xếp hạng
chất lượng do các công ty xếp hành tín nhiệm ấn định, căn
cứ vào những điều khoản trong khế ước vay, khả năng thu
nhập và hệ số trang trải nợ, khả năng thanh toán và trình độ
quản lý của công ty phát hành.
Tuy nhiên mức xếp hạng tín nhiệm có thể thay đổi
sau khi công ty phát hành, hay nói khác đi là rủi ro thanh
toán có thể thay đổi nhanh hơn sự đánh giá của các tổ chức
đánh giá chuyên nghiệp.
233
4.4.1.4- Rủi ro lạm phát
Rủi ro lạm phát còn gọi là rủi ro sức mua, phát sinh
do sự biến đổi trong giá trị của các dòng tiền mà một chứng
khoán đem lại, do lạm phát, được đo lường bằng sức mua.
Ví dụ: Nếu nhà đầu tư mua một trái phiếu có lãi suất
coupon là 7% nhưng với tỷ lệ lạm phát là 8% thì sức mua
của dòng tiền này thực sự đã giảm sút.
Chỉ trừ với trái phiếu có lãi suất thả nổi, với những
rái phiếu nàu thì người đầu tư cũng có nguy cơ phải chịu rủi
ro lạm phát bởi lãi suất mà nhà phát hành hưá trả là cố định
trong suốt thời hạn của đợt phát hành.
Trái phiếu có lãi suất thả nổi có rủi ro lạm phát ở
mức thấp hơn, trong chừng mực lãi suất phản ánh được tỷ lệ
lạm phát dự đoán.
4.4.4.5- Rủi ro tỷ giá hối đoái
Khi tỷ giá hối đoái thay đổi theo chiều hướng đồng
tiền thanh toán rái phiếu bị giảm giá thì nhà đầu tư nắm giữ
loại trái phiếu này sẽ phải gặp rủi ro. Ví dụ như, nếu trái
phiếu được thanh toán bằng đồng Việt Nam, mà đồng Việt
Nam lại giảm giá so với đô la Mỹ thì người đầu tư sẽ nhận
được ít đô la Mỹ hơn. Đó là rủi ro tỷ giá.
Trong trường hợp ngược lại, đồng Việt Nam tăng giá
so với đô la Mỹ thì người đầu tư sẽ có lợi.
4.4.1.6- Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán tùy thuộc vào việc trái phiếu có dễ
dàng được bán theo giá trị hay gần với giá trị không. Thước
234
đo chủ yếu đối với tính thanh khoản là độ lớn khoảng cách
giữa giá hỏi mua và giá chào bán trái phiếu mà nhà giao
dịch yết lên. Nếu người đầu tư dự định nắm giữ trái phiếu
cho tới khi đáo hạn thì rủi ro này không quan trọng lắm.
4.4.1.7- Các nhân tố ảnh hƣởng giá trái phiếu
Nói chung, giá thị trường của bất cứ loại chứng
khoán nào cũng phụ thuộc vào cung và cầu, vì thế khi muốn
biết điều gì quyết định giá trái phiếu, chúng ta chỉ cần tìm
hiểu nhân tố nào đứng sau cung và cầu.
a. Khả năng tài chính của người cung cấp trái
phiếu
Cung cấp trái phiếu là một chức năng của người đi
vay nhằm giải quyết vấn đề vốn. Do đó, nhà đầu tư rất quan
tâm đến khả năng thanh toán lãi và vốn gốc của người cung
cấp trái phiếu.
Nếu có những biến động bất lợi về khả năng tài
chính của chủ thể phát hành, thì lập tức giá trái phiếu đó sẽ
tụt giảm trên TTCK. Mặc dù lãi suất trái phiếu có vẻ hưá
hẹn nhưng độ rủi ro hàm chưá lại cao hơn.
b. Thời gian đáo hạn
Một trái phiếu có thời gian đáo hạn càng gần thì giá
của nó càng tăng trên thị trường bởi vì độ rủi ro càng thấp.
Ví dụ, một trái phiếu sẽ được thanh toán đúng mệnh giá vào
cuối năm thứ 10 kể từ ngày phát hành, nếu không có biến
động xấu về khả năng tài chính của đơn vị phát hành và lãi
suất thị trường bình ổn, thì giá trái phiếu kể từ năm thứ 5 trở
235
đi sẽ có khuynh hướng càng cao so với giá các năm đầu
tiên. Trên thực tế, người ta gọi hiện tượng này là “kéo giá
tới thời hạn”.
c. Dự kiến về lạm phát
Nếu lạm phát có dự kiến tăng thì các chứng khoán có
lãi suất cố định trả theo lãi trái phiếu chỉ được thanh toán
theo danh nghĩa, và như vậy sẽ kém hấp dẫn hơn các tài sản
khác có khả năng loại trừ yếu tố lạm phát. Dẫn đến kết quả
là giá thị trường của các chứng khoán có lãi suất cố định bị
giảm và điều này cũng buộv phải tăng lãi cho các chứng
khoán đó, phần lãi tăng này sẽ đền bù cho thiệt hại của
những người giữ trái phiếu trong tương lai bị ảnh hưởng của
lạm phát.
Sự vận động của giá trái phiếu với các thời hạn khác
nhau sẽ vẽ nên một phác thảo về thị trường trái phiếu và
khả năng diễn biến của lạm phát.
d. Biến động lãi suất thị trường
Lãi suất thị trường là một yếu tố cực kỳ quan trọng
trong việc định giá của các chứng khoán có lãi suất cố định.
Nếu lãi suất bắt đầu tăng thì lợi tức đối với các trái phiếu
đang tồn tại chắc chắn thay đổi. Trong trường hợp này, vốn
sẽ chảy vào thị trường nào hưá hẹn lợi nhuận cao hơn. Như
vậy, giá của trái phiếu có lợi tức cố định sẽ giảm. Nhìn ở
khiá cạnh khác, nếu giá trái phiếu giảm do người ta dự đoán
lạm phát tăng thì việc tăng lãi suất (chính việc này làm
giảm giá trái phiếu) có thể được coi là dấu hiệu của chính
236
phủ quyết định đẩy lùi lạm phát. Ảnh hưởng tiêu cực của
việc tăng lãi suất được đền bù bởi tác động tích cực của
triển vọng lạm phát được cải thiện.
e. Thay đổi tỷ giá hối đoái
Yếu tố này ảnh hưởng đến các loại trái phiếu được
thanh toán bằng nội tệ hoặc bằng đồng ngoại tệ. Ví dụ, đồng
dollar Mỹ có giá trị tăng cao hơn so với đồng bảng Anh thì
sẽ làm tăng giá trị của loại trái phiếu được thanh toán bằng
đồng dollar Mỹ.
4.4.2. Định giá trái phiếu
Trái phiếu là một loại hợp đồng nợ dài hạn do chính
phủ hoặc do công ty phát hành nhằm huy động vốn dài hạn.
Trên tờ trái phiếu thể hiện giá trị bề mặt hay giá trị danh
nghĩa của trái phiếu gọi là mệnh giá (Par value hay Face
value)
Mệnh giá của trái phiếu ký hiệu là F
Mệnh giá là giá trị công bố của trái phiếu và không
thay đổi trong suốt thời gian trái phiếu lưu hành, đến khi
đáo hạn nó chính là số tiền được hoàn trả cho trái chủ gọi là
vốn gốc.
F = Số vốn huy động trong kỳ
Số trái phiếu đăng ký phát hành
237
Khác với mệnh giá, thị giá của trái phiếu (Market
Value) là giá thứ cấp của trái phiếu do thị trường quyết
định, luôn thay đổi theo quan hệ cung cầu trên thị trường.
Nhà đầu tư khi mua trái phiếu cũng như đầu tư vào một dự
án đầu tư dài hạn nên cần so sánh giá thị trường với giá trị
thực của trái phiếu (Intrinsic value) để đánh giá được tính
hiệu quả của việc đầu tư và ra quyết định có nên đầu tư hay
không.
Intrinsic value còn gọi là giá trị lý thuyết của trái
phiếu , chính là giá trị kinh tế của nó và trong điều kiện thị
trường hiệu quả thì giá cả thị trường của trái phiếu sẽ phản
ánh gần đúng giá trị lý thuyết của nó, tức là gần với giá trị
thực của nó.
Trong phần này, chúng ta định giá trái phiếu tức là
xác định giá trị lý thuyết của trái phiếu một cách chính xác
và công bằng. Giá trị của trái phiếu được định giá bằng cách
xác định hiện giá của toàn bộ thu nhập nhận được trong thời
hạn hiệu lực của trái phiếu.
4.4.2.1- Định giá trái phiếu thông thƣờng
(Straight bond)
Trái phiếu thông thường có kỳ hạn và được hưởng
lãi định kỳ, số tiền lãi được tính dựa trên lãi suất danh nghĩa
(Coupon rate) và mệnh giá của trái phiếu. Cả hai yếu tố này
đều không thay đổi trong suốt thời gian lưu hành nên số tiền
lãi coupon định kỳ là cố định.
Nếu ta gọi :
238
P: Giá trái phiếu
n: Số năm còn lại cho đến khi đáo hạn
C: Số tiền lãi coupon
r: Lãi suất chiết khấu
F: Mệnh giá trái phiếu
Chúng ta có giá của trái phiếu, bằng hiện giá toàn bộ
cho dòng tiền thu nhập từ trái phiếu trong tương lai được
xác định như sau :
2
...1 (1 ) (1 ) (1 )n n
C C C FP
r r r r
Trong phần công thức trên, giá của trái phiếu là tổng
hiện giá của hai phần: Phần lãi định kỳ và phần vốn gốc.
Công thức tổng quát :
1 (1 ) (1 )
n
t nt
C FP
r r
Trường hợp 1: Trả lãi định kỳ một năm một lần
1 (1 )(1 )
nnr
P C F rr
Ví dụ: Công ty thực phẩm N phát hành trái phiếu
lãi suất 15%/ năm, mệnh giá 1 triệu đồng, 15 năm đáo hạn.
Lãi suất đang lưu hành 10%/ năm. Trả lãi định kỳ 1 năm 1
lần
Hãy tính hiện giá của trái phiếu ?
239
C = 15% x 1.000.000 = 150.000đ
201 (1 10)150.000 1.000.000(1 10%)
10%
n
P
P = 1.380.320đ
Trường hợp 2: trả lãi định kỳ 6 tháng 1 lần
Thông thường, trái phiếu được trả lãi định kỳ hàng
năm, nhưng để chiều theo thị hiếu của nhà đầu tư, các
TTCK trên thế giới cũng phát hành khá phổ biến loại trái
phiếu trả lãi định kỳ nửa năm một lần. Việc rút ngắn chu kỳ
trả lãi sẽ làm cho giá trái phiếu thay đổi một chút.
2
21 (1 / 2)(1 / 2)
2 / 2
nnC r
P F rr
Cũng theo ví dụ trên, nhưng phương thức trả lãi định
kỳ nửa năm một lần
2020150.000 1 (1 10% / 2)
1.000.000(1 10% / 2)2 10% / 2
P
P = 1.384.340đ
4.4.2.2. Định giá trái phiếu không trả lãi định kỳ
(Zero Coupon bond)
Trái phiếu Zero coupon bond không trả lãi định kỳ
cho nhà đầu tư, mà chỉ trả vố gốc bằng mệnh giá ở cuối kỳ
240
đáo hạn. Do đó, dòng tiền nhà đầu tư nhận được trên trái
phiếu trong tương lai chỉ là một khoản duy nhất vốn gốc
bằng mệnh giá được chiết khấu về hiện tại.
(1 )n
FP
r
Ví dụ: Một loại trái phiếu có thời gian đáo hạn là 20
năm nhưng không trả lãi định kỳ mà chỉ trả vốn gốc là
1.000.000đ vào cuối năm thứ 20. Nếu hiện nay, lãi suất trên
thị trường là 10% thì người mua trái phiếu phải trả bao
nhiêu tiền để mua trái phiếu này?
20
1.000.000148.644
(1 10%)P đđ
Nhà đầu tư bỏ ra 148.644đ để mua trái phiếu này và
không được hưởng lãi định kỳ trong suốt 20 năm, nhưng khi
đáo hạn, nhà đầu tư thu về 1.000.000đ.
4.4.2.3- Ảnh hƣởng của lãi suất thị trƣờng đến giá
trái phiếu
Trong công thức định giá trái phiếu ở trên, chúng ta
thấy giá trái phiếu phụ thuộc vào sự thay đổi của các nhân
tố:
F: Mệnh giá trái phiếu
C: Số tiền lãi coupon
r: Lãi suất chiết khấu
n: Số năm còn lại cho đến khi đáo hạn
241
Trong đó, hai yếu tố F và C là không thay đổi trong
suốt thời gian trái phiếu lưu hành. Trong khi hai yếu tố r và
n thường xuyên thay đổi theo thời gian và tình hình biến
động lãi suất trên thị trường. Nếu cho hai biến số này thay
đổi, chúng ta thấy được sự biến động của giá trái phiếu và
có thể kết luận.
- Giá trái phiếu thay đổi nghịch chiều với sự thay đổi
của lãi suất thị trường.
- Càng gần đến ngày đáo hạn giá trái phiếu càng tiến
gần đến mệnh giá.
Ví dụ: Công ty SSA phát hành trái phiếu mệnh giá
1.000.000đ, kỳ hạn 20 năm, lãi suất danh nghĩa 10%, sau 5
năm lưu hành, nhà đầu tư bán trái phiếu.
* Trường hợp 1: Nếu lãi suất thị trường (lãi suất
yêu cầu trên trái phiếu) hiện nay bằng với lãi suất danh
nghĩa thì giá trái phiếu là:
15151 (1 10%)
100.000 1.000.000(1 10%)10%
P
P = 1.000.000đ
Trong trường hợp này, trái phiếu được bán đúng
bằng mệnh giá.
* Trường hợp 2: Nếu lãi suất hiện hành trên thị
trường tăng lên đến 12% thì giá trái phiếu hiện nay là :
242
15
151 (1 10%)100.000 1.000.000(1 12%)
12%P
P = 1.171.150đ
Trong trường hợp này giá trị thực của trái phiếu đã tăng
lên cao hơn mệnh giá của nó
Từ việc phân tích 3 trường hợp trên ta có nhận xét
sau :
- Thứ nhất: Khi lãi suất trên thị trường bằng với lãi
suất danh nghĩa của trái phiếu thì giá trị của trái phiếu bằng
với mệnh giá của nó. Hay nói cách khác, nếu nhà đầu tư
mua trái phiếu với giá đúng bằng mệnh giá thì mức lợi tức
thực sự được hưởng trên trái phiếu nằng với lãi suất danh
nghĩa.
- Thứ hai: Khi lãi suất trên thị trường cao hơn lãi
suất danh nghĩa của trái phiếu thì giá trị của trái phiếu thấp
hơn mệnh giá của nó. Hay nói cách khác, nếu nhà đầu tư
mua trái phiếu với giá thấp hơn mệnh giá thì mức lợi tức
thực sự được hưởng trên trái phiếu cao hơn lãi suất danh
nghĩa.
- Thứ ba: Khi lãi suất trên thị trường thấp hơn lãi
suất danh nghĩa của trái phiếu thì giá trị của trái phiếu cao
hơn mệnh giá của nó. Hay nói cách khác, nếu nhà đầu tư
mua trái phiếu với giá cao hơn mệnh giá thì mức lợi tức
thực sự được hưởng trên trái phiếu thấp hơn lãi suất danh
nghĩa.
243
- Thứ tư: Thị giá rái phiếu tiến gần đến mệnh giá của
nó khi thời gian tiến gần đến ngày đáo hạn.
* Mối liên quan giữa giá mua trái phiếu và lợi suất
đầu tư
Giá trái phiếu
P=1.171.150
P=1.000.000
P=863.790
Thời
hạn 0 5 1
0
1
5
r=8
% r=10%
r=12%
YTM > CY >
C
YTM = CY =
C
YTM < CY <
C
P3 > F
P1 = F
P2 < F
244
4.4.2.4- Định giá trái phiếu có lãi suất thả nổi
Trái phiếu có lãi suất thả nổi (Floating Rate
bonds): Là loại trái phiếu mà lãi suất của nó được điều
chỉnh theo sự thay đổi của lãi suất thị trường. Đặc điểm này
đã đảm bảo được quyền lợi của nhà đầu tư cũng như của
doanh nghiệp khi thị trường tài chính tiền tệ không ổn định.
Thông thường, cứ sáu tháng một lần, căn cứ vào lãi suất
tiền gửi ngắn hạn của ngân hàng lại điều chỉnh lãi suất trái
phiếu cho phù hợp.
Lãi suất định kỳ của một trái phiếu thả nổi thường
được tái ấn định trên cơ sở lãi suất thị trường cộng thêm
một phần trăm cố định. Vì thế, dòng tiền của trái phiếu thả
nổi có thể chia làm hai bộ phận.
* Phần thứ nhất là, một dòng tiền có lãi suất thả nổi
nhận được từ lãi suất thị trường không có phần chênh lệch.
Dòng tiền này bao gồm cả khoản thanh toán mệnh giá vào
lúc đáo hạn. Đó là dòng tiền của chứng khoán tham chiếu.
* Phần thứ hai là, một dòng tiền đã biết dựa trên
khoản chênh lệch giữa các khoản thanh toán của trái phiếu
có lãi suất thả nổi. Dòng tiền đã biết này được định giá theo
các kỹ thuật về giá trị hiện tại.
Giá của trái phiếu thả nổi lãi suất là tổng hai mức giá
trên đây.
Ví dụ: Giả sử, ta có một trái phiếu thả nổi lãi suất,
mệnh giá 1 triệu được yết lãi suất bằng LIBOR 6 tháng
cộng thêm 25 điểm cơ bản.
245
Nếu LIBOR tại thời điểm tái địh đầu tiên là 8,46%
thì số tiền trả lãi 06 tháng sau sẽ tính được theo tỷ lệ đó
cộng với 25 điểm cơ bản.
8,46%1.000.000 1.000.000 0,25% 42.300 2.500
2x x
Khoản 42.300 được coi là khoản nhận được từ chứng
khoán tham chiếu. Khoản 2.500 nhận được từ khoản phụ
trội.
Nếu LIBOR tại thời điểm tái định thứ hai là 8% thì
khoản lãi sau đó 6 tháng sẽ là :
8%1.000.000 1.000.000 0,25% 40.000 2.500
2x x
Khoản tiền lãi trong mỗi dòng tiền gồm hai phần:
Phần lãi thả nổi là phần thay đổi theo từng sáu tháng một
lần, và phần do khoảng phụ trội là không thay đổi. Khi đáo
hạn, mệnh giá được hoàn trả ngoài khoản tiền lãi.
Ví dụ: Giả sử, một nhà phát hành đồng ý trả cao
hơn lãi suất LIBOR 6 tháng một khoản là 100 điểm cơ bản,
trong 2 năm, 6 tháng trả lãi một lần . Giả sử, lãi suất chiết
khấu hiện hành của trái phiếu 2 năm là 8,5%. Giá của chứng
khoán này là bao nhiêu?
Bài giải:
- Trái phiếu có mệnh giá 100USD.
246
- Chênh lệch giữa công cụ thả nổi và công cụ tham
chiếu là 50 điểm (0,5% mệnh giá) cho mỗi kỳ
điều chỉnh lãi suất (6 tháng).
Các dòng tiền
Giá + 6
tháng
+1 năm +1,5
năm
+2 năm
Công cụ
tham chiếu
100 LIBOR LIBOR LIBOR 100+
LIBOR
Công cụ
định giá
100+D LIBOR
+ 0,5
LIBOR
+ 0,5
LIBOR
+ 0,5
100 +
LIBOR
+ 0,5
Chênh lệch D 0,5 0,5 0,5 0,5
Khoản phụ trội 100 điểm cơ bản mỗi năm trở thành
50 điểm cơ bản (0,5%) hay 50 (đơn vị tiền tệ) trên 100
mệnh giá cho mỗi kỳ tái định lãi suất. Dòng tiền của công
cụ cần định giá được định giá chênh 0,5 với công cụ tham
chiếu cho mỗi kỳ 6 tháng. Vì thế, giá của công cụ thả nổi lãi
suất này là 100+D , trong đó D chính là giá trị hiện tại của
các khoản thanh toán hàng nửa năm 0,5% mệnh giá.
Để đạt được một kết quả tương đối chính xác, ta có
thể sử dụng lãi suất thị trường hiện hành của một chứng
khoán có lãi suất cố định có cùng thời hạn là 2 năm để làm
tỷ lệ chiết khấu. Nếu lãi suất thị trường hiện hành trái phiếu
thời hạn 2 năm là 8,5%, ta sẽ tính được D = 1,8.
247
2 3 4
0,5 0,5 0,5 0,5
1 0,0425 (1 0,0425) (1 0,0425) (1 0,0425)
1,8
D
Như vậy, giá phải trả cho chứng khoán này là :
100 + 1,8 = 101,8 USD
4.4.2.5- Định giá trái phiếu chuyển đổi
Trái phiếu có thể chuyển đổi (Convertible bonds):
Là loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường
của công ty với giá của cổ phiếu được ấn định trước gọi là
giá chuyển đổi. Đây là loại trái phiếu rất được ưa chuộng
bởi vì khi giá cổ phiếu tăng cao trên thị trường người nắm
giữ trái phiếu này sẽ thực hiện việc chuyển đổi và thu được
những món lợi nhuận do chênh lệch giá.
Công ty phát hành trái phiếu chuyển đổi vì các lý do
thuận lợi sau:
- Trái phiếu chuyển đổi có thể bán ra với lãi suất thấp hơn
của trái phiếu, cổ phiếu thường.
- Công ty có thể loại bỏ lãi suất cố định khi có sự chuyển
đổi vì thế giảm được số nợ
- Số cổ phiếu trong thị trường hiếm khi gia tăng
nhanh vì sự chuyển đổi xảy ra trong khoảng thời gian dài (
do đó, ít gây ra sự loãng các giá cổ phiếu).
- Công ty tránh được sự loãng trị giá tức thời số lợi
nhuận cơ bản của cổ phiếu.
Tuy nhiên, nhà phát hành cũng gặp phải các bất lợi sau:
248
- Vốn cổ đông bị loãng vào thời điểm chuyển đổi.
- Sự chuyển đổi nhiều sẽ làm thay đổi khả năng kiếm
soát của công ty (khi có khả năng bỏ phiếu tăng lên vì cổ
phiếu thường tăng, do đó ảnh hưởng đến quyền kiểm soát
công ty).
- Số nợ của công ty giảm có nghĩa là, công ty mất đòn
bẩy tài chính (vì lúc đó nợ đã trở thành vốn cổ đông).
- Công ty phải đóng nhiều thuế hơn khi có chuyển đổi.
- Cơ cấu vốn của công ty không được ổn định như trước.
Nhà đầu tư chịu bỏ tiền mua trái phiếu chuyển đổi vì
các thuận lợi sau:
- Trái phiếu chuyển đổi chi trả tiền lãi cố định và sẽ được
thu hồi theo đúng mệnh giá khi đến ngày đáo hạn.
- Trái chủ ưu tiên đòi chi trả hơn trái chủ trái phiếu, cổ
phiếu thường, trong trường hợp thanh lý công ty.
- Giá thị trường của trái phiếu chuyển đổi có khuynh hướng
tăng theo giá chứng khoán.
* Cách tính giá chuyển đổi, và tỷ lệ chuyển đổi:
Giá chuyển đổi = Mệnh giá của trái phiếu chuyển đổi
Tỷ lệ chuyển đổi
Ví dụ: Một trái phiếu chuyển đổi có mệnh giá 1
triệu đồng được quy định sẽ đổi thành 50 cổ phiếu thường,
vậy giá chuyển đổi là :
1.000.000/ 50 = 200.000đ
+ Tỷ lệ chuyển đổi (Conversion Ratio)
249
Là cổ phiếu thường được chuyển đổi ra từ một trái
phiếu.
Tỷ lệ chuyển đổi = Mệnh giá của trái phiếu chuyển đổi
Tỷ lệ chuyển đổi
Ví dụ: Trái phiếu chuyển đổi của SSI có mệnh giá
100.000đ quy định được chuyển đổi thành cổ phiếu thường
của công ty với mệnh giá chuyển đổi bằng mệnh giá
(10.000đ).
Tỷ lệ chuyển đổi = 100.000đ / 10.000 = 10
Có nghĩa là 1 trái phiếu đổi thành 10 cổ phiếu
thường.
Giá trị chuyển đổi được tính bằng cách nhân số
lượng cổ phần của phổ thông sẽ được nhận khi trái phiếu
được chuyển đổi với giá hiện hành của cổ phiếu phổ thông
đó. Trái phiếu chuyển đổi không bao giờ được bán với giá
thấp hơn giá trị chuyển đổi của nó, do hoạt động kinh dianh
hưởng chênh lệch (Arbitrage ) ngăn chặn làm cho điều đó
không xảy ra.
Như vậy trái phiếu chuyển đổi có hai giá trị tối thiểu:
Giá trị trái phiếu thông thường và giá trị chuyển đổi . Giá trị
chuyển đổi được xác định bằng giá trị của cổ phiếu phổ
thông của công ty mà trái phiếu có thể đổi thành.
Ví dụ: Nếu cổ phiếu đang có giá 18.000VNĐ/cổ
phần , công ty có thể quyết định mức giá chuyển đổi là
25.000VNĐ để làm cho trái phiếu hấp dẫn hơn đối với
người đầu tư. Hệ số chuyển đổi, tức cổ phần phổ thông
250
nhận được cho mỗi trái phiếu là 40 (1.000.000/ 25.000)
bằng mệnh giá của trái phiếu chia cho giá chuyển đổi.
Giá trị chuyển đổi bằng số cổ phần có thể nhận được
nhân với giá thị trường của cổ phiếu. Trong ví dụ trên, vì
giá thị trường hiện tại của cổ phiếu là 18.000VNĐ nên giá
trị chuyển đổi của trái phiếu là :
18.000 x 40 = 720.000đ.
Khi giá thị trường của cổ phiếu tăng thì giá trị của
trái phiếu cũng tăng. Khi giá của cổ phiếu thấp hơn giá
chuyển đổi (25.000) thì giá trị của trái phiếu thấp hơn mệnh
giá của nó. Khi giá cổ phiếu cao hơn giá chuyển đổi thì giá
trị của trái phiếu lớn hơn mệnh giá.
Như vậy, đặc tính chuyển đổi tạo ra tiềm năng thu
được lợi vốn khi giá cổ phiếu tăng lên. Hơn nữa, có một
mức giá sàn mà giá của trái phiếu chuyển đổi sẽ không
giảm xuống dưới mức đó được, đó là giá trị của trái phiếu
thông thường (trong trường hợp không chuyển đổi)
Đơn vị: Nghìn VNĐ
Hệ số chuyển đổi Giá TT của cP Giá trị chuyển đổi
40 10 400
40 18 720
40 25 1.000=F
40 30 1.200
40 35 1.400
40 40 1.600
251
4.4.3- Đo lƣờng lợi suất trái phiếu
* Thước đo lợi suất hiện hành (Current Yield)
Lợi suất hiện hành là tỷ lệ giữa lãi coupon hàng năm
với giá thị trường.
CY = CP
Trong đó:
C: Là số tiền lãi coupon hàng năm
P: Giá trị thị trường của trái phiếu
Ý nghĩa của chỉ tiêu này nói lên đồng vốn đầu tư bỏ
ra cho trái phiếu thì hàng năm thu được bao nhiêu đồng lãi?
Ví dụ: Một loại trái phiếu có mệnh giá 1 triệu đồng,
lãi coupon 10% hiện đang được bán trên thị trường với giá
1.035.000đ. Nếu nhà đầu tư mua trái phiếu này thì tỷ suất
sinh lợi hiện thời là bao nhiêu?
10% 1.000.000
9,67%1.035.000
xCY
Việc tính toán lãi suất hiện hành chỉ liên quan tới lãi
suất coupon, không tính đến bất kỳ một nguồn lợi tức nào
khác mà có ảnh hưởng đến lợi suất của nhà đầu tư: như
khoản lợi vốn mà nhà đầu tư có thể hưởng được khi mua
trái phiếu với giá chiết khấu và nắm giữ nó cho tới khi đáo
hạn; khoản lỗ mà nhà đầu tư phải chịu nếu trái phiếu đã
mua với mức phụ trội được nắm giữ cho tới khi đáo hạn,
cũng như bỏ qua giá trị theo thời gian của tiền.
252
* Thước đo lợi suất đáo hạn (Yeild – to – Maturity)
Lãi suất hoàn vốn là lãi suất khiến cho giá trị hiện tại
của các dòng tiền bằng với giá ban đầu. Lãi suất cho tới khi
đáo hạn được tính theo đúng như cách tính lãi suất hoàn
vốn; các dòng tiền là những dòng tiền mà nhà đầu tư sẽ
nhận bằng cách nắm giữ trái phiếu cho tới khi đáo hạn.
Lợi suất đáo hạn là mức lãi suất sẽ làm cho giá trị
hiện tại của các dòng tiền mà người đầu tư nhận được từ trái
phiếu bằng với giá trái phiếu.
1 (1 ) (1 )
n
t nt
C FP
y y
Ý nghĩa cuả chỉ tiêu này nói lên mức lợi suất tổng
hợp mà nhà đầu tư nhận được trên trái phiếu từ khi mua
nắm giữ nó cho đến khi đáo hạn.
Ví dụ: Với loại trái phiếu trên, giả sử còn 2 năm nữa
thì đáo hạn, nếu nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu cho đến khi
đáo hạn thì mức lợi tức nhận được trên trái phiếu là :
YTM = y
Ta có phương trình sau :
2
100.000 1.100.0001.035.000
1 (1 )y y
Giải phương trình ta được: YTM = 8,036%
* Thước đo lợi suất chuộc lại (Yield-to- call)
Đôi khi, công ty phát hành trái phiếu có kèm theo
điều khoản thu hồi (mua lại) trái phiếu trước hạn. Điều này
thường xảy ra, nếu như công ty dự báo lãi suất sẽ giảm sau
253
khi phát hành trái phiếu. Khi ấy, công ty sẽ thu hồi lại trái
phiếu đã phát hành với lãi suất cao và phát hành trái phiếu
mới có lại suất thấp hơn để thay thế và nhà đầu tư sẽ nhận
được lợi suất cho đến khi trái phiếu được thu hồi (YTC)
thay vì nhận lợi suất đến khi trái phiếu đáo hạn (YTM).
Đối với trái phiếu chuộc lại, dùng thước đo YTC để
đo lường mức lợi tức nhà đầu tư nhận được nếu cho công ty
chuộc lại trước hạn với giá chuộc lại F’> F.
Đó là lãi suất hoàn vốn làm cho giá trị hiện tại của
các dòng tiền trên trái phiếu được mua lại trước khi đáo hạn
bằng với giá của trái phiếu hiện nay.
1
'
(1 ') (1, ')
m
t mt
C FP
y y
Ví dụ: Công ty IQ có một dự án đầu tư cần huy
động gấp một khoản vốn 1 triệu USD, công ty phát hành
1.000 trái phiếu với mức lãi suất trả cho trái phiếu là 10%/
năm, mỗi năm trả lãi thành hai kỳ. Mức lãi suất này hơi cao
hơn mức lãi suất hợp lý theo mức độ tín nhiệm của công ty.
Do đó, công ty đề ra điều khoản chuộc lại trái phiếu sau 5
năm với mức chuộc lại mệnh giá cao hơn 10%. Hiện nay,
sau 3 năm lưu hành trên thị trường trái phiếu của công ty IQ
có giá thị trường là 1.050USD.
a/ Nếu nhà đầu tư mua trái phiếu này và nắm giữ nó
cho đến khi đáo hạn thì mức lợi tức đạt được trên trái phiếu
có bằng mức lãi suất danh nghĩa hay không?
254
b/ Còn nếu để cho công ty chuộc lại thì mức lợi tức
chuộc lại có đáng để cho nhà đầu tư bán trái phiếu cho công
ty hay không ?
Giải:
a/ Sau 3 năm lưu hành, trái phiếu còn 7 năm thì đáo hạn
tương ứng với 14 kỳ trả lãi.
Lãi coupon mỗi kỳ (6 tháng) là: 10% x 1.000/2 = 50
USD.
Với giá trái phiếu hiện nay là 1.050USD ta có
phương trình sau :
Đặt YTM /2 = y2
14141 (1 )
1.050 50 1.000(1 )y
yy
Giải bằng phương pháp nội suy:
YTM = 9,02%
Mức lợi tức đáo hạn này < lãi suất danh nghĩa.
b/ Nếu nhà đầu tư cho công ty chuộc lại trái phiếu thì
thời hạn còn lại cho đến khi chuộc lại là 02 năm, tương ứng
với 4 kỳ trả lãi.
Đặt YTC /2 = y2
441 (1 )
1.050 50 1.100(1 )y
yy
YTC = 11,71%
* Thước đo lợi suất chênh lệch giá (Capital Gian
Yield)
255
1 o
o
P PCG
P
Total Yield = CY + CG
Ví dụ: Ông A mua trái phiếu có mệnh giá
1.000.000đ, với giá 990.000đ, trái phiếu này trả lãi 9% cho
trái chủ. Dự kiến cuối năm giá trái phiếu tăng lên là
1.080.000đ. Giả sử ông A bán trái phiếu vào cuối năm sau
khi nhận được lãi trái phiếu. Vậy các mức lợi tức ông nhận
được sau 1 năm nắm giữ là:
Lợi tức hiện thời :
1.000.000 9%9,09%
990.000
xCY
Lợi tức do chênh lệch giá:
1.080.000 990.0009,09%
990.000CG
Tổng mức lợi tức nhận được sau một năm nắm giữ
trái phiếu là:
CY + CG = 9,09% + 9,09% = 18,18%
* Lãi trên lãi:
Tổng mức lợi tức tiềm năng của một trái phiếu bằng
tổng hai khoản là lãi coupon và lãi của lãi, có thể tính được
bằng cách áp dụng tính giá trị tương lai của một khoản tiền
tệ đồng đều.
Lãi coupon + lãi trên lãi = (1 ) 1nr
Cxr
256
Tổng số lãi coupon được tính bằng cách nhân số kỳ
trả lãi với lãi coupon bằng nC.
Lãi trên lãi = (1 ) 1nr
Cx nCr
Ví dụ: Cho trái phiếu BC có lãi suất danh nghĩa là
14% kỳ hạn 5 năm, mệnh giá 100.000đ. Giả sử nhà đầu tư
lãnh lãi coupon hàng năm và đầu tư ngay vào tiền gửi tiết
kiệm ngân hàng với lãi suất là 12%. Hỏi cho đến khi đáo
hạn tổng lợi tức tiềm năng là bao nhiêu? Lãi trên lãi là bao
nhiêu?
Giải:
Tổng lợi tức tiềm năng là giá trị tương lao của một
chuỗi tiền tệ C đồng mỗi năm được đầu tư với lãi suất 12%/
năm.
5(1 12%) 114% 100.000 88.924
12%x đ
Lãi của lãi :
88.942 - (14.000 x 5) = 18.942đ
4.4.4- Thời gian đáo hạn bình quân (Duration)
Duration là thời gian đáo hạn bình quân gia quyền
của các dòng tiền của trái phiếu. Quyền số ở đây là giá trị
hiện tại của mỗi dòng tiền tính theo tỷ lệ phần trăm trong
giá trị hiện tại của tất cả các dòng tiền của trái phiếu ( tức là
257
tỷ lệ phần trăm trong giá trái phiếu). Khái niệm này lần đầu
tiên được Fredrick Macaulay xây dựng năm 1938.
Công thức tính giá trái phiếu không kèm theo quyền
lựa chọn:
2
...(1 ) (1 ) (1 ) (1 )n n
C C C FP
y y y y
Trong đó:
P: Giá trái phiếu
C: Lãi coupon
y: Lãi suất cho tới khi đáo hạn, hay lãi suất
theo yêu cầu.
n: Số kỳ trả lãi
F: Giá trị hoàn trả khi đáo hạn
Để xác định gần đúng mức thay đổi giá trái phiếu khi
có một thay đổi nhỏ trong lãi suất, ta lấy đạo hàm bậc nhất
của giá (P) theo lãi suất.
2
1 1 2( ...
1 1 (1 ) (1 ) (1 )n n
dP C C nC nF
dy y y y y y
Chia cả hai vế cho P, ta có mức thay đổi giá tính theo
%, với một thay đổi nhỏ trong lãi suất.
Phần đẳng thức trong ngoặc chia cho P được gọi là
thời gian đáo hạn bình quân Macaulay.
1 (1 ) (1 )
n
t nt
tC nF
y yMacaulay Duration
P
258
Thay vào công thức trên:
1 1
1
1
1
dPx x MD
dy P x
dPx MD x dy
P x
Mối quan hệ giữa MD và tính biến động giá trái
phiếu là:
% thay đổi giá = 1
1x MD
x x thay đổi lãi
suất x 100
Hai thành phần cuả vế phải đẳng thực hợp thành khái
niệm thời gian đáo hạn bình quân điều chỉnh (Modified
Duration):
(1 )
Macaulay DurationModified Duration
y
Do đó:
% thay đổi giá = - Modified D x thay đổi lãi
suất x 100
Hay :
dPModified D x dy
dy
Thời gian đáo hạn bình quân Macaulay của trái phiếu
coupon 10%, kỳ hạn 5 năm theo mệnh giá .
259
Kỳ
(t)
Dòng
tiền
Giá trị hiện
tại của 1$;
5%
PVCF1 t x PVCF1
1 $5 0,952380 4,761904 4,7619
2 5 0,907029 4,535147 9,0703
3 5 0,863837 4,319187 12,9576
4 5 0,822702 4,113512 16,4540
5 5 0,783526 3,917630 19,5882
6 5 0,746215 3,731076 22,3865
7 5 0,710681 3,553406 24,8738
8 5 0,676839 3,384196 27,0736
9 5 0,644608 3,223044 29,0074
10 105 0,613913 64,460890 611,6089
Tổng: 810,7822
Áp dụng công thức trên ta có:
810,78224,05
(2 10)
4,053,857
(1 ) 1 0,05o
Macaulay Dx
MdM D
y
Nếu lãi suất tăng 50 điểm cơ bản tương ứng với tăng
0,5% thì tỷ lệ tăng giá là:
260
3,857 0,5% 1,93%
1,93% 100 1,93%
dPMoD x dy x
P
Dollar D x
Ví dụ: Một trái phiếu 25 năm, 6%, bán với giá
70,3570 để có lợi suất 9%, Modified D của trái phiếu này là
10,62. Nếu lãi suất tăng từ 9% lên 9,1% tức là thay đổi
+0,0010 (10 điểm cơ bản) thì thay đổi giá tính gần đúng sử
dụng công thức trên là:
10,62( 0,0010) 0,0106dP
MoD x dyP
Tức tỷ lệ giá giảm -1,06%.
Thời gian đáo hạn bình quân điều chỉnh có thể được
hiểu là thay đổi giá tính gần đúng theo tỷ lệ % khi lãi suất
thay đổi điểm cơ bản.
Đôi khi, nhà đầu tư cũng cần biết biến động giá của
trái phiếu tính bằng tiền, chứ không chỉ bằng tỷ lệ phần
trăm. Mức thay đổi giá tính theo đô la của trái phiếu khi lãi
suất thay đổi 100 điểm cơ bản, được gọi là Dollar duration.
Dollar Duration = - Modified D x dy x giá
Nếu biết mức % thay đổi giá và mức giá ban đầu, ta
có thể tính được thay đổi giá tính theo đôla, với điều kiện tỷ
lệ thay đổi lãi suất là nhỏ.
Lãi suất tăng từ 9% lên 9.1% (tăng 10 điểm cơ bản).
Giá giảm: -1,06%.
Nếu tính theo giá bán là 70,357$ thì giá giảm là :
Dollar Duration = - Modified D x dy x giá
261
= - 1,06% x 70,357 = -0,74578
Tất cả các thước đo tính biến động của giá trái phiếu
để cập trên đây chỉ đem lại ước tính số gần đúng của sự
biến động giá khi có những thay đổi nhỏ trong lãi suất. Độ
biến động của lãi suất càng lớn, biến động giá ước tính bằng
những thước đo này càng kém chính xác.
4.4.5. Độ lồi (Convexity)
Độ lồi y của một trái phiếu thông thường vào thời
điểm trả lãi coupon (trả lãi theo kỳ nửa năm) có thể được
tính như sau :
Lấy đạo hàm bậc một của P theo y, sau đó chia kết
quả cho P (giá trị hiện tại) ta có công thức độ lồi:
Độ lồi = 2
2 2 21
1 (1 1) ( 1) 1(
(1 ) (1 )
n
t nt
d P t C n n F
dy P y y P
Thay đổi giá gắn với độ lồi được tính như sau :
% thay đổi giá = ½ (độ lồi) (thay đổi lãi
suất)2
Hay : 21( ) ( )
2
dPConvexity dy
P
(2)
Ví dụ: Tính độ lồi và đạo hàm bậc hai của giá trái
phiếu 5 năm, lãi coupon là 9%, bán theo lãi suất 9% (bán
theo mệnh giá).
262
Kỳ
thanh
toán
(t)
Dòng
tiền
(USD)
2
1
(1,045)t t(t+1)CF 2
( 1)
(1,045)t
t t CF t(t+1)PVCF1
1 0,876296 9 7,886
2 4,5 0,838561 27 22,641
3 4,5 0,802451 54 43,332
4 4,5 0,767895 90 69,110
5 4,5 0,734828 135 99,201
6 4,5 0,703185 189 132,901
7 4,5 0,672904 252 169,571
8 4,5 0,643927 324 208,632
9 4,5 0,616198 405 249,560
10 4,5 0,589663 11.495 6,778,186
104,5 12.980 1,781,020
Đạo hàm bậc hai = 1,781,020
Độ lồi (nửa năm) = 7.781,02
77,8102100
Độ lồi (năm) = 77,8102
19,45264
Thay đổi giá (tính bằng dollar theo độ lồi) = 19,4526
x 100 = 1.945,26
263
MoD và Convexity có thể được sử dụng kết hợp với
nhau để ước tính tỷ lệ % thay đổi giá, đơn giản bằng cách
cộng tỷ lệ % thay đổi giá ước tính theo công thức (1) với tỷ
lệ % thay đổi giá ước tính theo công thức (2) (cộng tỷ lệ %
thay đổi giá ước tính bằng độ lồi). Kết quả thu được là tỷ lệ
thay đổi giá ước tính bằng sử dụng MoD và Convexity. Tỷ
lệ này là một thước đo tốt do sự thay đổi giá thực tế khi lãi
suất biến động lớn.
* Công thức tính gần đúng Duration và Convexity
Vì Duration là một thước đo sự thay đổi của giá trái
phiếu khi có những biến động nhỏ trong lãi suất nên có thể
áp dụng công thức sau đây để tính gần đúng Duration, được
gọi là Effective Duration (ED):
ED = Giá khi lãi suất giảm X% - Giá khi lãi suất tăng X%
Giá ban đầu (2X)
Ví dụ: Có trái phiếu có lãi coupon 7%, thời hạn 20
năm, bán với giá 74,25, lợi suất 10%. Giả sử, chúng ta phải
xác định các mức thay đổi giá khi lãi suất thay đổi tăng và
giảm 20 điểm cơ bản. Khi đó:
Giá ban đầu = 74,26
X = 20 điểm cơ bản = 2%
Giá khi lãi suất giảm 20 điểm cơ bản = 75,64
Giá khi lãi suất tăng 20 điểm cơ bản = 72,92
Vậy : 75,64 72,92
9,16(74,26)2(0,02)
ED
264
Để tính gần đúng Convexity (Effective Convexity –
EC) ta có thể sử dụng công thức sau :
EC =
Giá khi LS giảm X% + Giá khi LS tăng X% -
2 (giá ban đầu)
2 (Giá ban đầu) (X) (X)
Với ví dụ trên , ta có :
75,64 72,92 2(74,76)
67,332(74,26)(0,02)(0,02)
ED
* Các thuộc tính của độ lồi:
Các trái phiếu không kèm theo quyền lựa chọn đều
có các thuộc tính của độ lồi như sau :
+ Khi lãi suất theo yêu cầu tăng (giảm), độ lồi của
một trái phiếu giảm (tăng). Thuộc tính này được gọi là độ
lồi dương.
+ Khi lãi suất và thời gian đáo hạn là xác định, lãi
suất coupon càng thấp thì convexity của trái phiếu càng lớn.
+ Khi lãi suất và thời gian đáo hạn bình quân điều
chỉnh (Modified Duration) là xác định, lãi suất coupon càng
thấp thì độ lồi càng nhỏ.
Chúng ta đã biết việc tính toán độ lồi có thể làm tăng
thêm độ chính xác của một ước tính về thay đổi giá của một
trái phiếu khi có một sự thay đổi trong lãi suất. Tuy nhiên,
độ lồi còn có một gợi ý đầu tư quan trọng khác nữa.
Hãy xem 2 trái phiếu A và B có độ lồi khác nhau sau
đây:
265
Trái phiếu B có độ lồi lớn hơn trái phiếu A. Cho dù
lãi suất thị trường tăng hay giảm thì trái phiếu B vẫn có giá
cao hơn trái phiếu A. Có nghĩa là, khi lãi suất tăng thiệt vốn
trên B nhỏ hơn thiệt vốn bên A. Do đó, thị trường sẽ đặt giá
cho độ lồi của trái phiếu B, và nhà đầu tư phải chấp nhận
một lãi suất thấp hơn để có một độ lồi lớn hơn. Mức độ
được chấp nhận lớn đến mức nào là tùy thuộc vào dự đoán
của nhà đầu tư rằng lãi suất sẽ thay đổi nhiều hay ít.
Giá
Lãi suất
TP B có độ lồi lớn hơn TP A A
B
266
CHƢƠNG 5: ĐẦU TƢ THEO DANH MỤC VÀ
QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƢ
5.1 Phân tích lựa chọn danh mục
5.1.1 Nguyên tắc đầu tƣ
5.1.1.1 Khái niệm danh mục đầu tƣ:
Trong các chương trước, chúng ta đã xem xét, phân tích
và đầu tư vào từng loại chứng khoán riêng lẻ. Tuy nhiên,
thực tế nhà đầu tư ít khi đầu tư vào từng chứng khoán riêng
lẻ mà đầu tư vào danh mục đầu tư. Thị trường chứng khoán
là một kênh đầu tư tiềm ẩn nhiều rủi ro và phương pháp
giảm thiểu rủi ro là đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác
nhau hay đầu tư theo danh mục.
Quá trình đầu tư của một nhà đầu tư chuyên nghiệp hay
các tổ chức đầu tư gồm hai bước chính:
Thứ nhất: Phân tích thị trường và phân tích về chứng
khoán để đánh giá rủi ro và tỷ suất sinh lời kỳ vọng của tất
cả các loại chứng khoán có thể đầu tư;
Thứ hai: Xây dựng danh mục đầu tư tối ưu bao gồm
nhiều loại chứng khoán khác nhau.
Danh mục đầu tư (portfolio) là sự kết hợp đầu tư vào
hai hay nhiều loại tài sản tài chính khác nhau. Nhà đầu tư
chứng khoán luôn mong muốn lợi nhuận cao nhất mà rủi ro
thua lỗ thấp nhất. Nếu dồn toàn bộ khoản tiền mình có vào
một loại chứng khoán thì nguy cơ thua lỗ khi chứng khoán
267
đó giảm giá là rất rõ ràng. Nếu một khoản tiền được đầu tư
cho nhiều chứng khoán khác nhau thì tính tổng khoản đầu
tư, việc thua lỗ của chứng khoán này khi giảm giá sẽ được
bù đắp lại bằng khoản lãi của chứng khoán khác tăng giá.
Đó chính là đa dạng hoá đầu tư để giảm thiểu rủi ro.
Nếu có hai chứng khoán có mức sinh lợi như nhau thì
nhà đầu tư sẽ chọn loại có rủi ro thấp hơn. Tuy nhiên, mức
độ chấp nhận rủi ro của từng người còn tương quan với tỷ
suất sinh lời mà họ có thể nhận được.
Một danh mục đầu tư thông thường có thể gồm:
- Chứng khoán phi rủi ro và chứng khoán rủi ro: một
danh mục đầu tư bao gồm trái phiếu chính phủ và một cổ
phiếu
- Chứng khoán phi rủi ro và danh mục đầu tư rủi ro: một
danh mục đầu tư bao gồm trái phiếu chính phủ và hai hay
nhiều cổ phiếu
- Hai hay nhiều chứng khoán rủi ro: một danh mục đầu
tư bao gồm hai hay nhiều cổ phiếu khác nhau
- Danh mục đầu tư thị trường: là tập hợp các cơ hội đầu
tư đại diện cho một thị trường chứng khoán nào đó.
268
5.1.1.2 Mức độ chấp nhận rủi ro của nhà đầu tƣ
Ngoài hiểu biết về mức độ rủi ro cũng như tiềm năng lợi
nhuận của những công cụ đầu tư khác nhau, nhà đầu tư cần
phải xác định được khả năng chấp nhận rủi ro của bản thân
cũng như có các phương thức thích hợp để quản lý rủi ro.
Khả năng chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư phụ thuộc rất
nhiều vào điều kiện cá nhân và mục tiêu của mỗi người.
Thái độ của nhà đầu tư đối với rủi ro có thể bị ảnh hưởng
bởi những nhân tố sau:
Tuổi đời: Nếu còn trẻ, còn nhiều thời gian phía trước để
khắc phục những thua lỗ tạm thời, nhà đầu tư có thể sẵn
sàng chấp nhận mức độ rủi ro cao để đổi lại mức lợi nhuận
cao. Nhưng càng lớn tuổi, nhà đầu tư càng e ngại đối với
những khoản đầu tư có mức độ rủi ro cao. Và ở tuổi sắp
nghỉ hưu, họ chỉ tìm những cơ hội đầu tư ổn định với rủi ro
thấp.
Các trách nhiệm phải gánh vác: Trách nhiệm có thể bao
gồm các khoản nợ phải hoàn trả, các chi phí phải thanh
toán, và người thân phải nuôi nấng, phụng dưỡng. Trách
nhiệm càng cao, nhà đầu tư càng có khuynh hướng ít chấp
nhận rủi ro.
Mục tiêu đầu tư :Khi đầu tư, nhà đầu tư có thể nhằm
vào thu nhập định kỳ, tăng trưởng vốn đầu tư hoặc kết hợp
cả hai. Tùy thuộc vào mỗi mục tiêu lựa chọn mà nhà đầu tư
sẽ chấp nhận những mức độ rủi ro khác nhau.
269
Thời hạn để hoàn thành mục tiêu đặt ra:Thời hạn càng
ngắn, mức độ rủi ro mà nhà đầu tư có thể chấp nhận sẽ càng
thấp.
Mức lợi nhuận mong muốn:Nếu muốn lãi nhiều thì nhà
đầu tư phải chấp nhận rủi ro cao.
Độ "bấp bênh" (uncertainty) có thể chấp nhận để đạt
được mức lợi nhuận mong muốn. Nếu nghĩ rằng mình
không chấp nhận nổi rủi ro ở mức độ nào đó, tốt nhất nhà
đầu tư nên chọn phương án an toàn hơn; tuy nhiên lợi nhuận
tiềm năng vì thế cũng sẽ thấp hơn.
Các khoản dự trữ cho tương lai: Nếu có dự trữ, nhà đầu
tư sẽ mạnh dạn hơn khi đầu tư, hay nói cách khác có thể
chấp nhận rủi ro cao hơn.
5.1.1.3 Mức ngại rủi ro và hàm hữu dụng(Utility
Function)
Mức ngại rủi ro là mức độ nhà đầu tư sẵn lòng bỏ tiền
vào một cổ phiếu hay một danh mục nào đó. Hầu hết các
nhà đầu tư trên thị trường đều có mức ngại rủi ro nhất định,
vì vậy, mức ngại rủi ro là một khái niệm nền móng cơ bản
trong quá trình phân tích lựa chọn đầu tư. Mỗi nhà đầu tư là
một cá thể độc lập, họ có tâm lý và khối lượng của cải khác
nhau nên mức độ chấp nhận rủi ro của họ vì thế cũng rất
khác nhau. Thông thường với cùng một khoản đầu tư, nhà
đầu tư có mức ngại rủi ro cao hơn sẽ đòi hỏi mức đền bù rủi
ro tương ứng nhiều hơn mới chấp nhận đầu tư và ngược lại.
270
Một nhà đầu tư ngại rủi ro là người luôn phải đặt ra cho
mình một mức lợi nhuận hợp lý đối với danh mục đầu tư rủi
ro với điều kiện lợi nhuận này có thể bù đắp cho những rủi
ro mà nhà đầu tư phải đối mặt.
Trong lý thuyết đầu tư, mức ngại rủi ro được lượng hóa
bằng chỉ số A. Căn cứ vào mức ngại rủi ro, nhà đầu tư trên
thị trường được chia thành ba loại:
• Nhà đầu tư thích rủi ro có hệ số A<0.
• Nhà đầu tư trung dung với rủi ro có hệ số A=0.
• Nhà đầu tư ngại rủi ro có hệ số A>0.
Mức ngại rủi ro A được xác định như sau:
22
1
)(
p
frrpEA
Trong đó:
A: hệ số ngại rủi ro (risk aversion factor).
E(rp): tỷ suất sinh lời mong đợi của danh mục đầu tư
(portfolio's expected return).
rf: tỷ suất sinh lời của các loại tài sản không có rủi
ro, chẳng hạn như lãi từ trái phiếu chính phủ dài hạn
δ2p: phương sai lợi nhuận của danh mục đầu tư.
271
Mỗi nhà đầu tư đều có mức ngại rủi ro nhất định ở mức
độ khác nhau tuỳ thuộc vào tâm lý và khối lượng tiền sở
hữu. Các nhà kinh tế học tài chính hiện đại đã xây dựng lý
thuyết hàm hữu dụng biểu thị mối quan hệ hữu dụng của
một đơn vị tiền tệ kiếm thêm với mức độ rủi ro của khoản
đầu tư và mức ngại rủi ro của nhà đầu tư.
Với giả thiết này, họ đưa ra công thức cho mối tương
quan rủi ro và mức đền bù rủi ro tương xứng. Mỗi nhà đầu
tư phải gán một mức độ chấp nhận nào đó (hay giá trị hữu
dụng) vào những danh mục đầu tư ngang nhau dựa trên lợi
suất đầu tư ước tính và rủi ro của danh mục đó.
Từ đó, nhà đầu tư tính toán thang điểm để sắp xếp thứ
tự danh mục đầu tư. Danh mục đầu tư hấp dẫn hơn là danh
mục có mức rủi ro bằng hay thấp hơn danh mục khác,
nhưng có lợi suất ước tính cao hơn.
Công thức thể hiện mối tương quan giữa mức ngại rủi
ro, lợi tức với mức rủi ro theo thang điểm hữu dụng:
U=E(r)-0,5A. δ2
Trong đó:
U: Là giá trị hữu dụng
0.5: Số quy ước theo thông lệ của xác suất thống kê;
A: Chỉ số biểu thị mức ngại rủi ro;
E(r): Tỷ suất sinh lời ước tính bình quân;
272
δ: Độ lệch chuẩn của giá trị bình quân.
0,5A. δ2: Mức đền bù rủi ro.
Từ công thức có thể thấy giá trị hữu dụng tăng nếu lợi
suất ước tính bình quân tăng, giá trị hữu dụng giảm nếu
mức độ rủi ro tăng.
Ví dụ: Nhà đầu tư X lựa chọn giữa danh mục đầu tư có
rủi ro với tỷ suất sinh lời kỳ vọng E(r)=23% và độ lệch
chuẩn δ = 33,3% so với tín phiếu Kho bạc nhà nước có lãi
suất 5,5%, nhà đầu tư có mức ngại rủi ro A=3. Chúng ta
thấy rằng mức đền bù rủi ro viết tắt là RP là: RP=23-
5,5=17.5%, đây là mức khá cao.
Ta có giá trị hữu dụng của danh mục:
(U) =23%-0,5x3x(33,3%)2=5%.
Con số 5% lại thấp hơn so với lãi suất tín phiếu Kho bạc
nhà nước (5,5% theo giả thiết). Vậy về lý thuyết, nhà đầu tư
X sẽ mua tín phiếu thay vì lựa chọn danh mục trên. Mức
đền bù rủi ro cho danh mục này với A=3 là 0,5Aδ2=18%.
Nhưng nếu nhà đầu tư X có mức ngại rủi ro A=2 thì ta
có 0,5A δ2=12%, khi đó U=22%-12%=10%, cao hơn lãi
suất trái phiếu không rủi ro. Vậy với A=2 thì có thể chấp
nhận danh mục này.
5.1.1.4 Đa dạng hóa danh mục đầu tƣ và rủi ro danh
mục đầu tƣ
273
Trên thị trường chứng khoán, lợi nhuận luôn đi liền với
rủi ro. Đầu tư vào chứng khoán là phải chấp nhận một mức
độ rủi ro nhất định. Mỗi loại chứng khoán có những rủi ro
riêng biệt phụ thuộc vào chính bản thân nó và vào thị
trường. Mặc dù vậy, mỗi nhà đầu tư lại có cách nhìn nhận
khác nhau về rủi ro của chứng khoán đó, dẫn tới những
hành động khác nhau.
Rủi ro của một công cụ tài chính nói chung, và điển
hình là cổ phiếu, được hiểu là tính chất không chắc chắn
trong nguồn thu nhập mà nó mang lại cho người nắm giữ.
Cổ phiếu là một công cụ đầu tư có tính rủi ro cao. Bởi lẽ,
như đã nói ở phần trên, điều mà người đầu tư mong đợi ở
một cổ phiếu phổ thông là những khoản thu từ cổ tức và từ
sự tăng giá của cổ phiếu đó trong tương lai. Nhưng cả hai
nguồn lợi tức này đều là những khoản thu nhập không ổn
định, thậm chí khó biết được một cách chắc chắn là chúng
sẽ biến động như thế nào. Cổ tức phụ thuộc vào kết quả
hoạt động và chính sách phân phối của công ty. Thông tin
này thường được hội đồng quản trị công bố hàng năm. Có
những công ty cố gắng duy trì mức chi trả cổ tức ngay cả
khi gặp những khó khăn về thu nhập. Vì thế ước tính cổ tức
đôi khi cũng không phải là quá khó. Tuy nhiên, thu nhập
của công ty, yếu tố được coi là quyết định khả năng tăng giá
của cố phiếu khó dự đoán hơn nhiều vì nó phụ thuộc vào
nhiều yếu tố tác động, đôi khi ngoài tầm kiểm soát của công
ty. Thậm chí những phép tính rất công phu của các nhà
274
phân tích chuyên nghiệp cũng cho các kết quả khác nhau.
Ngay cả khi có thể dự đoán chính xác về thu nhập của công
ty, thì yếu tố tâm lý của cộng đồng đầu tư vẫn còn là một ẩn
số, nó sẽ chi phối mạnh xu hướng giá của cổ phiếu. Tất cả
những điều kiện trên cho thấy cổ phiếu phổ thông là công
cụ đầu tư có độ rủi ro cao. Điều đó có nghĩa là khi đầu tư
vào cổ phiếu phổ thông, cơ may để nhà đầu tư có lời lớn
cũng như rủi ro mất tiền của bạn đều cao, so với những
công cụ khác.
Rủi ro là khả năng có thể xuất hiện nhiều kết quả khác
nhau từ một nguyên nhân ban đầu. Khả năng không chắc
chắn về kết quả thu được, hay sự biến thiên của kết quả đó,
được lượng hóa bằng độ lệch chuẩn của kết quả thu được và
xem là thước đo của toàn bộ rủi ro.
Đa dạng hóa phát huy tác dụng bởi vì giá của các cổ
phiếu khác nhau thì sẽ không thay đổi giống nhau. Trong
nhiều trường hợp sự giảm giá cổ phiếu công ty này là do sự
lên giá của công ty khác và ngược
Trên thị trường chứng khoán, chúng ta luôn được nghe
nói đến các ích lợi của việc đa dạng hóa danh mục đầu tư.
Đa dạng hóa đầu tư là việc đầu tư cùng 1 lúc vào nhiều dự
án riêng lẻ tạo thành một danh mục đầu tư nhằm mục đích
tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro. Không một ai
trong chúng ta muốn "bỏ hết trứng vào một rổ" hay tự đưa
275
bản thân ra hứng chịu sự rủi ro bản chất của việc chỉ nắm
giữ một loại cổ phiếu.
Khi chúng ta nói đến sự đa dạng hóa trong một danh
mục đầu tư chứng khoán, chúng ta đang nói đến nỗ lực của
nhà đầu tư trong việc giảm bớt rủi ro thông qua việc đầu tư
vào nhiều công ty thuộc nhiều ngành, thậm chí nhiều nước
khác nhau. Hầu hết các chuyên gia đầu tư đều đồng ý rằng
mặc dù đa dạng hóa là một tấm phiếu bảo hành trước rủi ro
thua lỗ, nguyên tắc sống còn cho việc đầu tư vẫn luôn là
hướng tới các mục tiêu tài chính dài hạn của bạn. Có rất
nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tại sao đa dạng hóa có tác dụng.
Một cách đơn giản, bằng cách mở rộng phạm vi đầu tư của
bạn vào nhiều công ty, nhiều lĩnh vực không có nhiều sự
liên kết với nhau, bạn sẽ thể kiềm chế bớt được sự biến
động giá cả với danh mục của mình do thực tế không bao
giờ có chuyện tất cả các ngành đi lên hay đi xuống với cùng
một tốc độ và trong cùng một thời kì. Do đó, đa dạng hóa
đảm bảo sự hoạt động ổn định hơn cho danh mục của bạn.
Cũng giống như đầu tư vào từng chứng khoán riêng lẻ,
đầu tư vào danh mục đầu tư cũng có rủi ro. Một danh mục
đầu tư có rủi ro là danh mục đầu tư có khả năng xảy ra
nhiều kết quả ngoài dự kiến, nghĩa là tỷ suất sinh lời thực tế
xảy ra có thể cao hơn hoặc thấp hơn tỷ suất sinh lời mong
đợi. Khi phân tích một danh mục đầu tư, nhà đầu tư phải
quan tâm đến rủi ro của cả danh mục đầu tư chứ không chỉ
quan tâm đến rủi ro của từng chứng khoán riêng lẻ.
276
Rủi ro của một danh mục đầu tư không thể đơn thuần
đánh giá rủi ro của từng loại chứng khoán riêng lẻ mà phải
đo lường mức độ ảnh hưởng của từng loại chứng khoán
riêng lẻ đối với danh mục. Trong thực tế, có nhiều trường
hợp rủi ro của loại chứng khoán này tăng lại làm giảm rủi
ro của chứng khoán kia.
Ví dụ, xét một Công ty sản xuất rượu và một công ty
sản xuất bia. Với trời nắng nóng thì người tiêu dùng có xu
hướng tăng uống bia và giảm uống rượu, ngược lại trời lạnh
thì người tiêu dùng tăng uống rượu giảm uống bia. Vậy với
hai loại thời tiết trái ngược nhau thì thu nhập của hai công
ty trên rõ ràng cũng trái ngược nhau.
Nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu của cả hai công ty rõ ràng
có sự bù trừ về rủi ro khi thời tiết thay đổi. Vậy nhiều khi
thêm một chứng khoán có tính rủi ro với một tỉ trọng hợp lý
lại làm giảm rủi ro của toàn bộ danh mục.
Điều quan trọng là luôn nhớ rằng cho dù danh mục đầu
tư của bạn có được đa dạng hóa đến đâu chăng nữa thì
không bao giờ nguy cơ rủi ro về đến zero. Bạn có thể giảm
thiểu được những rủi ro gắn liền với các cổ phiếu đơn lẻ (rủi
ro phi hệ thống), thế nhưng luôn có những rủi ro thuộc về
bản chất của thị trường (những rủi ro hệ thống). Những rủi
ro này có thể ảnh hưởng đến hầu hết tất cả các cổ phiếu và
sự đa dạng dù ở mức độ nào cũng không thể ngăn chặn
được chúng.
277
5.1.1.5 Tính toán tỷ suất sinh lời mong đợi bình
quân và rủi ro của danh mục đầu tƣ
a. Tỷ suất sinh lời mong đợi bình quân của danh mục
đầu tư
Tỷ suất lợi nhuận (hay còn gọi là mức sinh lời) bình
quân của một danh mục đầu tư của được tính theo phương
pháp bình quân gia quyền.
Giả sử nhà đầu tư có danh mục đầu tư gồm các chứng
khoán A, B, C, có tỷ suất sinh lời bình quân là ra , rb , rc , có
tỉ trọng giá trị tương ứng là wa, wb,wc.
Ta có wa+ wb+wc=1.
Khi đó tỷ suất sinh lời ước tính của toàn danh mục là:
E(rp)= wa *ra + wb*rb + wc*rc
Ta có công thức tổng quát:
E(rp)= w1 *r1 + w2*r2 +….+ wn*rn
Trong đó:
w1, w2,… wn: tỷ trọng vốn đầu tư vào từng chứng
khoán trong danh mục
r1, r2 …rn : tỷ suất sinh lời mong đợi của từng chứng
khoán trong danh mục
278
w1 + w2 + …+ wn = 1, và 0 wi 1
Ví dụ: Một danh mục đầu tư gồm 2 chứng khoán A, B
có tỷ trọng của mỗi chứng khoán trong danh mục đầu tư là
50%. Tỷ suất sinh lời kỳ vọng của từng chứng khoán lần
lượt là 10.5% và 5%. Vậy tỷ suất sinh lời kỳ vọng của toàn
danh mục đầu tư được tính như sau:
E(rp)= 0.5 * 10.5 % +0.5 *5% = 7.75%
b. Xác định hệ số tƣơng quan
Nhân tố ảnh hưởng đến việc da dạng hóa đầu tư nhằm
giảm rủi ro là mối tương quan về tỷ suất sinh lời giữa các
dự án kết lại tạo thành danh mục. Mối tương quan này được
đo lường thông qua một hệ số gọi là hệ số tương quan.
Hệ số tương quan ( ): là hệ số nói lên mối tương quan
cùng hướng hay ngược hướng của tỷ suất sinh lợi của các
dự án kết lại tạo thành mục. Công thức tính:
Với Cov(A,B) được tính theo công thức sau:
- Theo phân phối xác suất:
Cov(A,B) = pi (riA – rA) (riB – rB)
- Theo phân phối thực nghiệm:
Cov (A,B) AB =
A B
279
Trong đó:
Cov(A,B): hiệp phương sai của danh mục
A: độ lệch chuẩn của dự án đầu tư A
B: độ lệch chuẩn của dự án đầu tư B
riA: tỷ suất sinh lợi của dự án đầu tư A ở tình huống i
riB: tỷ suất sinh lợi của dự án đầu tư B ở tình huống i
rA: tỷ suất sinh lợi mong đợi của dự án A
rB: tỷ suất sinh lợi mong đợi của dự án B
Hệ số tương quan dao động từ +1 đến -1 và có các
trường hợp sau:
AB = -1: hai dự án đầu tư có tương quan phủ định hoàn
toàn, kết hợp 2 dự án vào danh mục sẽ làm giảm rủi ro danh
mục xuống mức thấp nhất.
-1 < AB< 0: hai dự án có tương quan phủ định không
hoàn toàn (tỷ suất sinh lời của 2 dự án di chuyển ngược
hướng).
AB = 0: hai dự án có tương quan độc lập.
(riA – rA) (riB – rB) Cov(A,B) = n-1
280
0< AB<1: hai dự án có tương quan xác định không hoàn
toàn (tỷ suất sinh lời của 2 dự án di chuyển cùng hướng).
AB = 1: hai dự án có tương quan xác định hoàn toàn,
việc kết hợp 2 dự án vào danh mục sẽ không giảm được rủi
ro.
c. Xác định rủi ro tổng thể (độ lệch chuẩn) của danh
mục đầu tư
Trước tiên, chúng ta cần phải biết rủi ro được định
nghĩa như thế nào. Cách thức được chấp nhận rộng rãi trong
việc đo lường rủi ro là theo dõi mức độ biến động. Điều đó
có nghĩa là, một cổ phiếu hay một danh mục đầu tư biến
động càng mạnh trong một khoảng thời gian nhất định thì
công cụ đầu tư đó càng có độ rủi ro cao. Một khái niệm
trong thống kê được gọi là "độ lệch chuẩn" được sử dụng để
đo mức độ rủi ro.
Để tính toán mức rủi ro tổng thể ta phải tính được hệ số
tích sai (Covariance) đo lường độ biến thiên của các kết quả
lợi suất thu được trong hai tài sản rủi ro có chiều hướng
biến động song song. Một Covariance dương có nghĩa kết
quả lợi suất của hai tài sản biến động cùng chiều với nhau
(cùng tăng hoặc cùng giảm), ngược lại nếu nó âm là chúng
biến động ngược chiều: Cái này tăng thì cái kia giảm, và
ngược lại.
281
Danh mục đầu tư gồm hai chứng khoán A, B
Khi xác định rủi ro của danh mục ( AB), ngoài việc xác
định giống như đối với dự án riêng lẻ có thể áp dụng công
thức sau:
Danh mục đầu tư gồm nhiều chứng khoán rủi ro:
n
i
n
i
n
j
jijiiiAB rrwww1 1 1
22 ),cov(
Với i # j
Công thức này có thể được diễn giải bằng ma trận như sau:
Chứng
khoán
1 2 3 … n
1 Σw12
12 w1w2cov(r1,r2) w1w3cov(r1,r3) w1wncov(r1,rn)
2 w2w1cov(r2,r1) Σw22
22 w2w3cov(r2,r3) w2wncov(r1,rn)
3 w3w1cov(r3,r1) w3w2cov(r3,r2) Σw32
32 w3wncov(r1,rn)
…
N wnw1cov(rn,r1) wnw2cov(rn,r2) wnw3cov(rn,r3) Σwn2
n2
AB = wA2
A2 + wB
2B
2 + 2 ABwA AwB B
282
Nếu cộng các ô trong bảng ma trận trên, ta sẽ có phương sai
của danh mục đầu tư. Độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư là
căn bậc hai của phương sai.
d. Xác định cơ cấu đầu tƣ tối ƣu
Cơ cấu đầu tư tối ưu là cơ cấu mà tại đó độ lệch chuẩn
của danh mục ( AB) là nhỏ nhất. Công thức tìm cơ cấu tối
ưu:
wB* = 1 – wA
*
Ví dụ minh họa: Giả sử có 2 loại cổ phiếu A, B. Giả sử
đầu tư 50% vào cổ phiếu A và 50% vào cổ phiếu B.
Thông tin về tỷ suất sinh lời của 2 cổ phiếu A, B tương
ứng với từng trình trạng kinh tế như sau:
Tình trạng
kinh tế Xác suất
Tỷ suất sinh lời
A B
Xấu 0,25 16% 28%
Bình thường 0,5 20% 20%
Tốt 0,25 24% 12%
B2- AB A B
wA* =
A2 + B
2 - 2 AB A B
283
Tỷ suất sinh lời mong đợi của 2 cổ phiếu A, B là:
rA = 0,25*16% + 0,5*20% + 0,25*24% = 20%
rB = 0,25*28% + 0,5*20% + 0,25*12% = 20%
Tỷ suất sinh lời mong đợi của cả 2 cổ phiếu A, B là
20%.
Độ lệch chuẩn của A, B:
n
i
ii prr1
2)(
A = 0,25(16%-20%)2
+ 0,5(20%-20%)2 + 0,25(24%-20)
2
= 2,83%
B= 0,25(28%-20%)2
+ 0,5(20%-20%)2
+ 0,25(12%-20)2
= 5,66%
B > A , do vậy, đầu tư vào cổ phiếu B rủi ro hơn
đầu tư vào cổ phiếu
Tỷ suất sinh lời mong đợi của danh mục:
E(rp) = wi ri = 0,5 x 20% + 0,5 x 20% = 20%
Độ lệch chuẩn của danh mục:
Cov(A,B) = pi (riA – rA) (riB – rB)
= 0,25(16%-20%)(28%-20%) + 0,5(20%-20%)(20%-20%)
+ 0,25(24%-20%)(12%-20%) = -16
284
= 1,42%
AB < 0 và gần bằng -1, như vậy, tỷ suất sinh lời của 2
cổ phiếu A và B biến động gần như hoàn toàn ngược chiều
nhau, 2 cổ phiếu này được kết hợp vào danh mục đầu tư đã
làm giảm đáng kể tính rủi ro.
5.1.2 Lựa chọn danh mục đầu tƣ tối ƣu
5.1.2.1 Đường cong hiệu quả của danh mục đầu tư gồm
hai chứng khoán
Giả sử với hai loại cổ phiếu AAA. BBB ta có thể kết
hợp 2 cổ phiếu tạo thành danh mục đầu tư. Tỷ suất sinh lời
của từng cổ phiếu tương ứng với các xác suất xảy ra rong 3
trường hợp được giả định như sau:
Cov (A,B) AB =
A B
- 16 = = - 0,998 2,83*5,66
p = wA2
A2 + wB
2B
2 + 2 ABwA AwB B
p = 0,52
(2,83)2 + 0,5
2 (5,66)
2 + 2(-0,998)0,5*2,83*0,5*5,66
285
Xác suất
(pi)
Tỷ suất sinh
lời cổ phiếu
AAA (%)
Tỷ suất sinh lời
cổ phiếu
BBB(%)
Giá lên 0.5 25 1
Giá xuống 0.3 10 -5
Khủng
hoảng
0.2 -25 35
Từ dữ liệu trên ta có thể tính được tỷ suất sinh lời kỳ
vọng và độ lệch chuẩn của các danh mục đầu tư sau:
Danh mục đầu tư Tỷ suất sinh
lời kỳ vọng
Độ lệch
chuẩn
1. 100% đầu tư vào AAA 10.5% 18.9%
2. 100% đầu tư vào BBB 6% 14.73%
3.50% đầu tư vào AAA và
50% đầu tư vào BBB
8.25% 4.83%
Mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lời kỳ vọng và rủi ro của
từng danh mục đầu tư được biệu thị thông qua đồ thị sau:
286
Hình 5.1: Đồ thị biểu diễn đường cong hiệu quả của danh
mục gồm cổ phiếu AAA và cổ phiếu BBB
Nhìn trên đồ thị, ta thấy chứng khoán AAA có tỷ suất
sinh lời và độ lệch chuẩn cao hơn chứng khoán BBB. Hình
vuông nhỏ trên đồ thị tượng trưng cho danh mục đầu tư
gồm 50% đầu tư vào cổ phiếu AAA và 50% đầu tư vào cổ
phiếu BBB. Các chứng khoán có thể được kết hợp theo các
tỷ lệ khác nhau tạo thành danh mục đầu tư. Chẳng hạn như:
Danh mục 1: gồm 10% cổ phiếu AAA và 90% Cổ phiếu
BBB
AAA
BBB
MV
1 1’
3
Tỷ suất sinh lời kỳ vọng
(%)
Độ lệch chuẩn (%) 18.9 14.73 4.83
287
Danh mục 2: gồm 50% cổ phiếu AAA và 50% Cổ phiếu
BBB
Danh mục 3: gồm 90% cổ phiếu AAA và 10% Cổ phiếu
BBB
Hệ số tương quan của các danh mục này được tính và
đều bằng - 0.86.Chứng tỏ hai cổ phiếu AAA và BBB có
quan hệ ngược chiều nhau, cho thấy hai chứng khoán này
có thể kết hợp trong cùng một danh mục. Nếu hệ số tương
quan nhỏ hơn 0 thì danh mục đầu tư sẽ đạt được hiệu quả đa
dạng hóa.
Nhà đầu tư có thể chọn danh mục đầu tư kết hợp hai cổ
phiếu AAA,BBB có hệ số tương quan là -0.86, nghĩa là
người đó có quyền chọn bất kỳ điểm nào trên đường cong,
tùy vào tỷ lệ đầu tư cho mỗi loại cổ phiếu trong danh mục.
Nếu nhà đầu tư có khả năng chịu rủi ro cao, anh ta sẽ chọn
danh mục đầu tư 3 gồm 90% AAA và 10%BBB, thậm chí
đầu tư 100% vào AAA. Ngược lại nều nhà đầu tư muốn có
rủi ro càng ít càng tốt, sẽ chọn danh mục MV- Danh mục
MV có độ lệch chuẩn(rủi ro) nhỏ nhất.
Đoạn cong từ cổ phiếu BBB đến MV cỉ ra rằng nếu nhà
đầu tư càng thêm tỷ trọng cổ phiếu AAA vào danh mục thì
tỷ suất sinh lời kỳ vọng của danh mục đầu tư tăng thêm
trong khi độ lệch chuẩn giảm đi. Đoạn cong này luôn luôn
xuất hiện trong trường hợp hệ số tương quan <0. Trong
trường hợp hệ số tương quan >0, đoạn cong này có thể xuất
288
hiện hoặc không xuất hiện. Đoạn cong này không kéo dài
mãi, vì khi ta thêm nhiều cổ phiếu AAA vào danh mục đến
một tỷ lệ nào đó thì độ lệch chuẩn của cổ phiếu AAA sẽ kéo
độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư tăng lên. Tuy nhiên, nhà
đầu tư lại không muốn đầu tư vào danh mục nằm trong đoạn
cong này, mà lại thích đầu tư vào danh mục đầu tư nằm trên
đoạn cong từ MV đến cổ phiếu AAA hơn, vì có tỷ suất sinh
lời kỳ vọng cao hơn. Đoạn cong từ MV đến cổ phiếu AAA
được gọi là đường cong hiệu quả của danh mục đầu tư gồm
hai tài sản rủi ro.
Ngoài ra ta có thể có danh mục 1’: gồm 10% cổ phiếu
AAA và 90% Cổ phiếu BBB với hệ số tương quan là 1, có
nghĩa là danh mục 1’ nằm trên đường thằng nối hai cổ phiếu
với nhau. Lúc này hai cổ phiếu có dao động hoàn toàn
giống nhau, thì sự kết hợp hai cổ phiếu này trong cùng một
danh mục sẽ không có hiệu quả đa dạng hóa, mà đơn thuần
chỉ là sự phân bổ vốn giữa các tài sản có rủi ro giống nhau.
Tổng quát: ta có thể vẽ một đường cong hiệu quả với
các hệ số tương quan khác nhau cho một danh mục đầu tư
gồm hai tài sản rủi ro như sau:
289
Hình 5.2:Đồ thị biểu diễn đường cong hiệu quả với các hệ
số tương quan khác nhau
Nhìn vào đồ thị (hình 5.2) ta thấy, hiệu quả của việc đa
dạng hóa danh mục đầu tư được thể hiện qua độ cong của
đường cong hiệu quả. Khi hệ số tương quan càng giảm, thì
đường cong hiệu quả càng cong, có nghĩa là việc đa dạng
hóa danh mục càng đạt được hiệu quả. Đường hiệu quả nhất
khi hệ số tương quan bằng -1. Các danh mục đầu tư được
Tỷ suất sinh
lời kỳ vọng
Độ lệch chuẩn
ρ = 1
ρ = 0.5
ρ = - 0.5
ρ = 0
ρ = -1
290
chọn do chủ quan của từng nhà đầu tư. Mỗi nhà đầu tư có
cách suy nghĩ khác nhau, cách lựa chọn khác nhau và mức
chịu đựng rủi ro khác nhau.
5.1.2.2 Đường cong hiệu quả của danh mục đầu tư gồm
nhiều chứng khoán
Thực tế, nhà đầu tư thường nắm giữ nhiều lọai chứng
khoán trong danh mục đầu tư, do đó chúng ta nên xem xét
đường cong hiệu quả cho danh mục đầu tư gồm nhiều
chứng khoán khác nhau. Danh mục đầu tư kết hợp nhiều
loại chứng khoán sẽ nằm trong vùng giới hạn thể hiện trong
hình vẽ (hình 5.3). Danh mục đầu tư nằm trên vùng giới hạn
không làm tăng tỷ suất sinh lời kỳ vọng. Danh mục đầu tư
nằm dưới vùng giới hạn không mang lại tỷ suất sinh lời kỳ
vọng thỏa mãn sự mong đợi của nhà đầu tư.
291
Hình 5.3:Đồ thị biểu diễn đường cong hiệu quả của danh
mục gồm n cổ phiếu
Khi các danh mục đầu tư nằm trong vùng giới hạn thì
các danh mục đầu tư tốt nhất luôn nằm trên đường cong nối
từ MV đến X. So sánh hai danh mục R và W ta thấy R luôn
tốt hơnW vì có cùng độ lệch chuẩn, nhưng tỷ suất sinh lời
mong đợi cao hơn. Ta gọi đường MV, X là đường cong hiệu
quả của danh mục đầu tư. Ý nghĩa của đường cong hiệu
quả: với bất kỳ độ rủi ro nào, nhà đầu tư luôn chọn những
danh mục đầu tư mang đến tỷ suất sinh lời ước tính cao nhất
có thể.
R
W
X
MV
Độ lệch chuẩn
Tỷ suất
sinh lời kỳ
vọng
292
Vậy, nhà đầu tư muốn chọn một danh mục đầu tư có
hiệu quả cao nhất thì phải chọn danh mục đầu tư nằm trên
đường cong hiệu quả và dựa trên khả năng chấp nhận rủi ro
của mình mà chọn danh mục đầu tư tối ưu nhất.
5.2 Quản lý danh mục đầu tƣ
Quản lý danh mục đầu tư là một nghiệp vụ quan trọng
trong kinh doanh chứng khoán, là công cụ hữu hiệu để hạn
chế rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận. Vấn đề đặt ra là làm thế
nào để quản lý danh mục đầu tư một cách tối ưu nhất? Một
danh mục đầu tư có thể bao gồm tất cả các chứng khoán
được giao dịch trên thị trường như cổ phiếu, trái phiếu, hay
các giấy tờ sở hữu bất động sản... Quản lý danh mục đầu tư
là việc kết hợp danh mục cổ phiếu với danh mục trái phiếu
để tạo ra một danh mục đầu tư tổng thể phù hợp với các
mục tiêu đề ra.
Nhà đầu tư cần quản lý danh mục đầu tư vì những lý do
sau đây:
Thứ nhất, đa dạng hoá danh mục đầu tư là nhu cầu của
người đầu tư, có trường hợp giá cả của mọi chứng khoán
được định giá đúng nhưng mỗi chứng khoán vẫn chứa đựng
rủi ro và những rủi ro này có thể san sẻ thông qua việc đa
dạng hoá danh mục đầu tư.
Thứ hai, quản lý danh mục đầu tư là cần thiết vì liên
quan đến lứa tuổi của khách hàng đầu tư. Các nhà đầu tư ở
các lứa tuổi khác nhau sẽ có nhu cầu riêng trong chính sách
293
lựa chọn danh mục đầu tư và liên quan đến rủi ro. Thông
thường người già ưa thích đầu tư vào những chứng khoán
có độ an toàn cao như trái phiếu Chính phủ, còn giới trẻ lại
thích đầu tư vào những chứng khoán có độ rủi ro cao nhưng
kỳ vọng mức lợi tức cao.
Quản lý danh mục đầu tư là quá trình liên tục và có hệ
thống gồm 4 bước:
- Thứ nhất, xác định mục tiêu đầu tư. Trọng tâm của
việc xác định mục tiêu là xác định rõ mức độ rủi ro có thể
chấp nhận được của chủ đầu tư và mức độ lợi nhuận mong
đợi tương thích với mức độ rủi ro đó.
- Thứ hai, xây dựng các chiến lược phù hợp với mục
tiêu bao gồm việc lập các tiêu chuẩn và phân bổ đầu tư.(
bước này được trình bày ở các phần tiếp theo)
- Thứ ba, giám sát theo dõi những diễn biến giá cả
tương đối của chứng khoán trên thị trường, cả mức độ rủi ro
và lợi nhuận mong đợi.
- Thứ tư, điều chỉnh danh mục đầu tư phù hợp với diễn
biến của thị trường và mục tiêu của người đầu tư.
5.2.1- Quản lý danh mục trái phiếu
5.2.1.1 Quản lý thụ động
Quản lý thụ động là chiến lược mua và nắm giữ trái
phiếu cho đến khi đáo hạn, không cần quan tâm đến các
biến động lãi suất thị trường. Chiến lược này, nói chung
294
không cần phải phân tích dự báo biến động lãi suất, nhưng
nhà đầu tư vẫn cần phải phân tích để đa dạng hoá danh mục
đầu tư nhằm giảm thiểu rủi ro của danh mục đầu tư cho phù
hợp với quy mô đầu tư.
Các giai đoạn tiến hành thực hiện chiến lược đầu tư
thụ động:
a. Chọn chỉ số trái phiếu
Trên thị trường có nhiều loại trái phiếu với các mức
độ rủi ro khác nhau nên nhà quản lý danh mục đầu tư thụ
động cũng nên xét hai yếu tố sau để quyết định nên đầu tư
vào danh mục nào.
- Xác định mức độ rủi ro thanh toán mà nhà đầu tư
có thể gặp phải,vì danh mục toàn trái phiếu công ty thì sẽ
gặp nhiều rủi ro hơn trái phiếu chính phủ.
- Phải tuân thủ mục tiêu đã đặt ra: vì lợi suất đầu tư
của các trái phiếu có thể tuơng đối đồng đều, nhưng mức độ
thay đổi của chúng lại khác nhau mỗi khi có biến động lãi
suất.Vì vậy, nếu mục tiêu của nhà đầu tư là chọn những
danh mục có độ biến thiên với lợi suất thấp thì cần phải đầu
tư dựa theo các chỉ số có thời gian đáo hạn bình quân ngắn.
b. Phương pháp đầu tư:
- Mua tất cả trái phiếu có trong chỉ số chuẩn mà
mình dự định tuân theo, với tỷ trọng đầu tư vào mỗi trái
phiếu bằng tỷ trọng trái phiếu đó chiếm trong chỉ số chuẩn.
Tuy nhiên, việc làm này đòi hỏi phải có vốn lớn và chi phí
giao dịch rất cao.
295
- Chỉ số mua chọn lọc một số lượng nhất định các
trái phiếu trong chỉ số. Với cách này vốn ít vẫn có thể thực
hiện được, với chi phí thấp, nhưng có một hạn chế là mức
đa dạng hoá không cao và danh mục không hoàn toàn tuân
theo chỉ số chuẩn.
Thực tế, phương pháp thường dùng là mua chọn lọc
và các nhà quản lý danh mục có thể tiến hành một số
phương pháp sau :
* Phương pháp chia nhỏ (Cell Approach)
Đây là phương pháp phân chia chỉ số theo các nhóm
nhỏ đại diện cho những đặc tính khác nhau của chỉ số. Cách
chia phổ biến hiện nay là theo các đặc tính sau ;
- Thời gian đáo hạn bình quân.
- Lãi suất coupon.
- Thời gian đáo hạn.
- Lĩnh vực, ngành nghề
- Mức độ tín nhiệm.
- Đặc điểm trái phiếu (trái phiếu có thể mua lại,
trái phiếu có lãi suất thả nổi...)
Ví dụ: Một nhà quản lý lựa chọn các yếu tố sau để
phân nhóm vào danh mục đầu tư:
- Yếu tố 1 (theo thời gian đáo hạn bình quân): (2
điểm) từ 5 năm trở xuống, (1 điểm) từ 5 năm trở lên.
- Yếu tố 2 (theo thời gian đáo hạn ): (3 điểm) dưới 5
năm, (2 điểm ) từ 5 đến 15 năm
296
- Yếu tố 3 (theo lĩnh vực ): (3 điểm) Chính phủ, (2
điểm) các trái phiếu công trình nhà nước, (1 điểm) công ty.
- Yếu tố 3 (theo mức độ tín nhiệm): (4 điểm) có 3A,
(3 điểm ) có 2A, (2 điểm) có 1 A, (1 điểm) có 3B.
Do vậy, nhóm tiêu chuẩn tối ưu bằng 72 điểm
(2x3x3x4) là sự kết hợp của các tiêu chuẩn sau : Thời gian
đáo hạn bình quân từ 5 năm trở xuống; thời gian đáo hạn
dưới 5 năm; loại trái phiếu Chính phủ; mức độ tín nhiệm là
3A.
* Phương pháp tối ưu hoá (Optimization Approach)
Với phương pháp này, nhà quản lý danh mục phải
xây dựng một danh mục, một mặt phải khớp với các nhóm
chia nhỏ như mô tả trên đây, mặt khác phải tuân theo một
số điều kiện và đồng thời còn phải tối ưu một số mục tiêu
đề ra. Đây là một phương pháp rất phức tạp, chỉ các nhà
quản lý đầu tư chuyên nghiệp mới có thể thực hiện được.
Phương pháp này đòi hỏi phải lập trình hàm toán học dựa
trên các điều kiện đặt ra và đưa vào máy tính để giải, tìm
đáp số tối ưu.
5.2.1.2 Quản lý bán chủ động
Với mong muốn danh mục đầu tư đạt các mục tiêu
đã đề ra và tránh rủi ro hệ thống, các nhà quản lý danh mục
một mặt thiết lập danh mục đầu tư theo phương pháp thụ
động, một mặt quản lý danh mục mang tính chủ động.
Phương pháp này được gọi là Quản lý bán chủ động.
297
* Một số phương pháp quản lý bán chủ động:
* Phương pháp trung hoà rủi ro:
Để phòng tránh rủi ro lãi suất, một biện pháp trung
hoà rủi ro thường được sử dụng là đầu tư vào trái phiếu có
thời gian đáo hạn bình quân bằng kỳ đầu tư. Một trong
những phương pháp có thể sử dụng là đầu tư vào trái phiếu
zero coupon có thời gian đáo hạn bằng kỳ đầu tư .
Chúng ta cũng có thế lựa chọn trái phiếu có coupon
nhưng với điều kiện thời gian đáo hạn bình quân của trái
phiếu đó bằng kỳ đầu tư dự kiến.
* Phương pháp loại bỏ rủi ro:
Loại bỏ rủi ro cho từng danh mục đầu tư: Là phải
xây dựng một danh mục đầu tư với thời gian đáo hạn bình
quân của cả danh mục bằng kỳ đầu tư dự kiến. Thời gian
doanh nghiệp bình quân của cả danh mục bằng thời gian
đáo hạn bình quân gia quyền của tất cả các trái phiếu trong
danh mục.
* Loại bỏ rủi ro cho toàn bộ tổng tài sản quản lý:
- Khớp thời gian đáo hạn bình quân.
- Khớp các dòng tiền
5.2.1.3 Chiến lược đầu tư chủ động
Là phương pháp đòi hỏi nhà quản lý danh mục phải
dùng tài dự đoán và kỹ thuật đầu tư của mình để xây dựng
các danh mục đầu tư đạt mức sinh lợi cao hơn mức sinh lợi
chung của thị trường:
298
Những yếu tố chủ yếu mà nhà quản lý danh mục phải
theo dõi và dự đoán như sau :
- Thay đổi mặt bằng lãisuất.
- Thay đổi cơ cấu kỳ hạn lãisuất.
- Thay đổi mức chênh lệch lãi suất giữa các loại
trái phiếu khác nhau.
* Một vài phương pháp chủ yếu được áp dụng:
+ Chiến lược hoán đổi: Chiến lược này được thực
hiện theo một số nguyên tắc sau :
- Đánh giá hai loại trái phiếu tương đương chất
lượng và thời gian đáo hạn, chuyển từ loại có coupon thấp
sang loại có coupon cao nhưng giá lại không cao hơn nhiều
để thu được lợi suất cao hơn. Phương pháp này còn gọi là
phương pháp hoán đổi lợi suất đơn thuần.
Ví dụ: Đổi từ trái phiếu có coupon 10%, đáo hạn 30
năm, giá 87,41 cho lợi suất 11,5% sang trái phiếu cùng chất
lượng và thời gian đáo hạn, có coupon là 12%, giá 100, cho
lợi suất 12%.
- Tận dụng các đánh giá sai tạm thời của thị trường
về giá chứng khoán. Chẳng hạn có hai loại trái phiếu tương
đương về chất lượng (độ rủi ro), lĩnh vực hoạt động, coupon
và thời gian đáo hạn, nhưng lãi suất đáo hạn lại khác nhau
(giá khác nhau) thì người ta sẽ thay thế trái phiếu có lợi suất
thấp (giá cao) bằng trái phiếu có lợi suất cao (giá thấp). Đây
là phương pháp hoán đổi thay thế.
299
Ví dụ: Hoán đổi trái phiếu đáo hạn 30 năm, coupon
12%, giá bằng mệnh giá, cho lợi suất 12% sang trái phiếu
chất lượng, thời gian đáo hạn và coupon tương tự, giá 98,4,
cho lợi suất 12,2%.
- Dự đoán mức độ tín nhiệm của một công ty có xu
hướng tăng lên, mức lợi suất đầu tư vào trái phiếu do công
ty này phát hành sẽ giảm (giá trái phiếu sẽ tăng), do vậy
phải mua ngay loại trái phiếu này và bán loại tương đương
không có triển vọng.
+ Chiến lược dự đoán lãi suất (Interest Rate
Anticipation)
Là phương pháp đơn giản nhất của chiến lược đầu tư
chủ động. Vấn đề cơ bản của phương pháp này là phải dự
đoán được xu hướng biến động của lãi suất trong tương lai,
từ đó xây dựng một danh mục nhạy cảm với sự biến động
đó. Vì thời gian đáo hạn bình quân là đơn vị đo mức nhạy
cảm của danh mục tới sự biến động lãi suất nên khi nhà
quản lý dự đoán lãi suất sẽ giảm thì cần phải xây dựng một
danh mục đầu tư có thời gian đáo hạn bình quân dài, và
ngược lại.
Chúng ta có thể điều chỉnh thời gian đáo hạn bình
quân của danh mục bằng cách hoán đổi một trái phiếu trong
danh mục có thời gian đáo hạn bình quân thấp để lấy một
trái phiếu khác có thời gian đáo hạn bình quân cao hơn.
+ Chiến lược dự đoán chênh lệch đường cong lãi
suất:
300
Là dự đoán sự khác nhau trong xu hướng biến động
của lãi suất hai kỳ hạn khác nhau của một loại trái phiếu
(hoặc hai trái phiếu tương đương về ngành nghề, chất lượng
và coupon) với hy vọng thu về khoản lợi nhuận chắc chắn.
Nguyên tắc của chiến lược này , khi dự đoán mức
chênh lệch sẽ giảm thì mua trái phiếu dài hạn và bán trái
phiếu ngắn hạn, và ngược lại. Cần lựa chọn số lượng trái
phiếu sao cho khớp dollar duration của hai loại trái phiếu
mua và bán để tránh rủi ro lãi suất.
+ Chiến lược dự đoán mức biến động lãi suất hay
còn gọi là chiến lược đường cong lãi suất ( Yield Curve
stratery).
Nguyên tắc của phương pháp này, nếu nhà quản lý
dự đoán lãi suất sẽ biến động mạnh thì chọn đầu tư vào
danh mục có đồ lồi cao hơn (barbell), nếu dự đoán lãi suất
ổn định thì chọn danh mục có độ lồi thấp ( Bullet). Vì danh
mục trái phiếu có độ lồi lớn tăng giá nhiều hơn khi lãi suất
giảm và giảm giá ít hơn khi lãi suất tăng.
Ngược lại, danh mục trái phiếu có độ lồi thấp thì giá
trái phiếu sẽ rẻ hơn và chi phí giao dịch thấp hơn, do đó lợi
suất đầu tư sẽ cao hơn.
Thể hiện sự đánh đổi giữa lợi suất và độ lồi: chấp
nhận lợi suất thấp để có độ lồi cao.
5.2.2- Quản lý danh mục đầu tƣ cổ phiếu.
5.2.2.1 – Quản lý thụ động
301
Đây là chiến lược mua cổ phiếu dựa theo một chỉ số
chuẩn nào đó và nắm giữ lâu dài một khoản đầu tư. Đôi khi,
danh mục đầu tư cần được cơ cấu lại khi phải tái đầu tư cổ
tức nhận về và do có một số cổ phiếu bị hợp nhất hoặc ra
khỏi danh mục danh sách trong chỉ số chuẩn. Mục đích cuả
chiến lược này là tạo ra danh mục cổ phiếu có số lượng và
chủng loại cổ phiếu gần giống với chỉ số chuẩn nhằm thu
được mức lợi suất đầu tư tương đương với lợi suất của chỉ
số đó.
Về mặt kỹ thuật, có ba phương pháp xây dựng danh
mục cổ phiếu thụ động như sau :
+ Lập lại hoàn toàn một chỉ số nào đó: Theo phương
pháp này, tất cả các loại cổ phiếu nằm trong chỉ số được
mua vào theo một tỷ lệ bằng tỷ trọng vốn mà cổ phiếu đó
chiếm giữ trong chỉ số này. Phương pháp này giúp nhà quản
lý thu được kết quả đầu tư gần giống với kết quả của chỉ số.
+ Phương pháp chọn nhóm mẫu: Với phương pháp
này, nhà quản lý chỉ cần chọn ra một nhóm các chứng
khoán đại diện cho chỉ số chuẩn . Phương pháp này có ưu
điểm hạn chế chi phí giao dịch vì số lượng chứng khoán
mua vào ít, nhưng không đảm bảo chắc chắn rằng lợi suất
đầu tư đạt được sẽ tương đương với lợi suất thu nhập của
chỉ số chuẩn.
+ Phương pháp lập trình bậc 2: Phương pháp này
khá phức tạp, thường chỉ có các nhà đầu tư chuyên nghiệp
mới áp dụng.
302
Trong ba phương pháp thì phương pháp chọn mẫu
thường được áp dụng nhiều
5.2.2.2- Chiến lược quản lý chủ động
Mục tiêu chiến lược này là nhằm đạt được lợi suất
đầu tư cao hơn lợi suất của danh mục thụ động chuẩn hoặc
thu được mức lợi nhuận trên trung bình ứng với một mức
rủi ro nhất định.
Quy trình quản lý danh mục đầu tư chủ động có thể
tóm lược như sau :
+ Xác định mục tiêu của khách hàng đặt ra.
+ Lập ra một danh mục chuẩn
+ Xây dựng một chiến lược và kết cấu danh mục đầu
tư tối ưu nhằm thỏa mãn nhu cầu nhà đầu tư theo trình tự
sau:
- Thực hiện phân tích những ngành và công ty riêng
nhằm thỏa mãn mục tiêu đặt ra.
- Tính toán xác định số lượng cổ phiếu trong danh
mục nhằm đạt mức đa dạng hoá cao nhất trong phạm vi giới
hạn của khoản tiền đầu tư.
- Phân bổ khoản đầu tư theo nguyên tắc: Những
ngành nghề có xu hướng phát triển tốt thì được phân bổ với
tỷ trọng lớn hơn, trong đó cần tập trung vào những cổ phiếu
có tiềm năng hoặc cổ phiếu tạm thời được định giá thấp.
5.2.2.3- Quản lý danh mục đầu tƣ hỗn hợp
a. Phương pháp thụ động
303
Phương pháp này có thể thực hiện theo quy trình
như sau:
+ Trước hết, thiết lập danh mục cổ phiếu thụ động theo
nguyên tắc:
- Rủi ro của danh mục này tương đương với mức độ
rủi ro của danh mục thị trường, tức là β = 1
- Đa dạng hoá tối đa danh mục đầu tư: xác định khối
lượng cổ phiếu cần mua. Đa dạng hoá đầu tư được tiến hành
theo cách đơn giản là lựa chọn cổ phiếu của các ngành nghề
lĩnh vực khác nhau chứ không cần phân tích cổ phiếu.
+ Xác định mục tiêu rủi ro của toàn bộ danh mục đầu tư để
có chiến lược đầu tư phù hơp
Nếu mục tiêu rủi ro khách hàng yêu cầu là βP = 1 thì
đầu tư toàn bộ tiền vào danh mục cổ phiếu.
Nếu βP < 1 thì đầu tư một phần tiền vào danh mục cổ
phiếu, một phần vào tín phiếu.
Nếu βP > 1 thì vay thêm tiền để đầu tư toàn bộ vào
danh mục cổ phiếu.
b. Quản lý chủ động
* Xây dựng một chiến lược và kết cấu danh mục đầu
tư tối ưu thỏa mãn nhu cầu của nhà đầu tư.
Trên cơ sở hệ số beta đặt ra cho danh mục tổng thể.
Tính toán xác định số lượng đầu tư vào từng danh mục cổ
phiếu và tín phiếu. Phương pháp này cũng gần giống như
danh mục cổ phiếu thụ động đó là : β = 1
304
Lựa chọn cổ phiếu và đa dạng hoá tối đa. Tuy nhiên,
xây dựng danh mục cổ phiếu chủ động có vấn đề cơ bản
khác với chiến lược thụ động ở chỗ tuy vẫn phải đảm bảo
đa dạng hoá tối đa nhưng chúng ta còn phải phân tích đánh
giá để tìm ra các loại cổ phiếu phù hợp với yêu cầu và có
tiềm năng tăng trưởng cao. Mục đích của việc đa dạng hoá
là phòng ngừa rủi ro, nếu trường hợp diễn biến tình hình
không đúng với dự đoán thì danh mục vẫn được đa dạng
như danh mục chủ động
5.3 Một số phƣơng pháp đánh giá kết quả danh mục
đầu tƣ đa hợp
5.3.1 Những yêu cầu đặt ra đối với nhà quản lý danh
mục đầu tƣ
5.3.1.1 – Khả năng mang lại lợi nhuận trên mức
trung bình ứng với mỗi mức độ rủi ro
Nhà quản lý danh mục cổ phiếu dự đoán tốt tình
hình biến động thị trường thì họ có thể điều chỉnh được
thành phần chứng khoán trong danh mục đầu tư để đón đầu
xu hướng thị trường. Ví dụ, nếu nhà quản lý danh mục đầu
tư nắm giữ một một danh mục đầu tư đa dạng hoá hoàn hảo
các loại cổ phiếu có hệ số rủi ro (beta) cao khi dự đoán thị
trường có xu hướng lên giá. Ngược lại, đầu tư vào các loại
cổ phiếu có hệ số rủi ro thấp hoặc đầu tư vào các công cụ
thị trường tiền tệ ngắn hạn khi dự đoán thị trường có xu
305
hướng xuống giá thì sẽ thu được mức lợi suất đầu tư trên
trung bình tương ứng với mức rủi ro đó.
Nhà quản lý danh mục đầu tư trái phiếu nếu dự
đoán đúng thời cơ thì có thể thay đổi thời gian đáo hạn bình
quân của danh mục đầu tư để đón đầu các biến động của lãi
suất. Chẳng hạn, nếu nhà đầu tư tăng thời gian đáo hạn bình
quân của danh mục khi dự đoán lãi suất thị trường giảm và
làm ngược lại khi dự đoán lãi suất thị trường tăng thì nếu dự
đoán đúng sẽ có khả năng thu được lợi suất đầu tư cao ứng
với một mức rủi ro nào đó.
Một chiến lược khác thường được các nhà quản lý
danh mục đầu tư áp dụng là việc lựa chọn đầu tư vào các
chứng khoán nhất định giá thấp ứng với một mức độ rủi ro
nào đó. Chí ít là không dự đoán đúng thời cơ thị trường
nhưng lựa chọn đúng loại chứng khoán thì vẫn có thể mang
lại mức lợi suất đầu tư trung bình ứng với một mức độ rủi
ro nhất định.
5.3.1.2 Khả năng đa dạng hoá danh mục đầu tư tối đa
nhằm loại bỏ rủi ro không hệ thống
Rủi ro không hệ thống không phải là yếu tố được sử
dụng để xác định mức lợi suất kỳ vọng, vì nó có thể được
xoá bỏ nếu danh mục đầu tư được đa dạng hoá tốt.
Chúng ta có thể đánh giá mức độ đa dạng hoá đầu tư
trên cơ sở mối tương quan giữa lợi suất của danh mục đầu
306
tư với lợi suất danh mục thị trường. Một danh mục đầu tư
được coi là đa dạng hoá tốt, nếu lợi suất của nó biến động
giống như lợi suất của danh mục thị trường. Điều này có
nghĩa hệ số tương quan của hai danh mục này bằng một.
5.3.2 Đánh giá kết quả quản lý danh mục đầu tƣ hỗn
hợp (đa hợp)
5.3.2.1 Phương pháp Treynor
Treynor là người đầu tiên thiết lập phương pháp
đánh giá động thái danh mục đầu tư đa hợp để định lượng
các yếu tố lợi nhuận lẫn rủi ro của danh mục đầu tư .
Phương pháp Treynor áp dụng đối với tất cả các nhà
đầu tư nói chung, không phân biệt mức ngại rủi ro khác
nhau của từng cá nhân,từng tổ chức đầu tư. Căn cứ trên lý
thuyết thị trường vốn, Treynor cho rằng những nhà đầu tư
hợp lý, ngại rủi ro sẽ luôn ưa thích những danh mục nào đó
có mức bù đắp rủi ro cao trong mối quan hệ tương quan với
mức độ rủi ro mà họ phải chịu. Từ lý luận này, ông triển
khai thành công thức đánh giá động thái của Portfolio thông
qua hệ số T như sau:
T = Ri – Rf
βi
Trong đó :
307
- Ri : Tỷ suất lợi nhuận bình quân của danh mục i
trong khoản thời gian đánh giá.
- Rf: Tỷ suất lợi nhuận phi rủi ro bình quân (lợi suất
tín phiếu kho bạc) trong cùng khoảng thời gian.
- βi : Hệ số rủi ro hệ thống của danh mục.
Như vậy đối với bất kỳ một nhà đầu tư nào T càng
lớn thì càng tốt. Ở phần tử số cuả công thức trên là mức
đền bù rủi ro và mẫu số là mức độ rủi ro. Vì vậy, toàn bộ
công thức trên nói lên mức lợi nhuận bù đắp rủi ro trên một
đơn vị rủi ro của một danh mục đầu tư, tất nhiên tất cả
những nhà đầu tư ngại rủi ro đều muốn tối đa hoá giá trị
này. Ở đây, hệ số chỉ đo lường mức độ rủi ro hệ thống của
danh mục mà chưa đề cập đến mức độ đa dạng hoá của
danh mục. Điều này có nghĩa rằng, danh mục đầu tư đã
được đa dạng hoá hoàn toàn.
Tuy nhiên, khi đánh giá kết quả hoạt động của danh
mục đầu tư cần có một hệ số chuẩn để so sánh. Treynnor đã
chọn hệ số TM của danh mục thị trường làm chuẩn. Nếu hệ
số T của danh mục đang được đánh giá lớn hơn TM thì danh
mục đó đạt hiệu quả cao hơn mức bình quân của thị trường.
5.3.2.2 – Phương pháp Sharpe
Phương pháp đánh giá này triển khai trên cơ sở mô
hình định giá tài sản vốn (CAMP) cũng do ông lập xây
308
dựng . Về mặt lý luận, tập trung xoay quanh đường tuyến
tính biểu diễn thị trường vốn ( CML)
Phương pháp Sharpe đánh giá hiệu quả của danh
mục qua một hệ số, ký hiệu là S được tính bằng công thức
S = Ri – Rf
δi
Trong đó :
- Ri : Tỷ suất lợi nhuận của danh mục i trong
khoảng thời gian đánh giá
- Rf: Tỷ suất lợi nhuận phi rủi ro bình quân trong
cùng khoảng thời gian.
- δi: Độ lệch chuẩn của tỷ suất lợi nhuận của danh
mục đó trong cùng khoảng thời gian.
Phương pháp đánh giá hiệu quả này tương tự như
phương pháp Treynor. Tuy nhiên, sự khác biệt là nó sử
dụng mức rủi ro tổng thể của danh mục thông qua độ lệch
chuẩn βi thay vì chỉ sử dụng rủi ro hệ thống δi . Phần tử số
của công thức Sharpe là mức đền bù rủi ro của danh mục,
phương pháp định lượng này có ý nghĩa là đo lường mức
đền bù rủi ro đạt được trên một đơn vị rủi ro tổng thể của
một danh mục đầu tư . Vì vậy nếu S càng lớn thì danh mục
càng hiệu quả. Vì thước đo rủi ro ở đây là độ lệch chuẩn
309
nên phương pháp này đánh giá kết quả quản lý danh mục
trên cơ sở cả lợi nhuận đầu tư lẫn mức độ đa dạng hoá.
* so sánh hai phương pháp Treynor và Sharpe
Với những danh mục đa dạng hoá hoàn hảo (chỉ tồn
tại rủi ro hệ thống) thì cả hai phương pháp này đều đưa lại
kết quả đánh giá tương tự vì rủi ro tổng thể của danh mục
đa dạng hoá tốt bằng chính rủi ro hệ thống của nó. Đối với
những danh mục có độ đa dạng hoá chưa tốt thì dùng
phương pháp treynor sẽ cho ra kết quả đánh giá xếp hạng
cao hơn so với phương pháp Sharpe. Tất cả khác biệt trong
kết quả xếp hạng đều do sự khác nhau về mức độ đa dạng
hoá của danh mục đầu tư . Như vậy, hai thước đo cung cấp
các thông tin khác nhau nhưng hỗ trợ cho nhau. Vì vậy, nên
sử dụng cả hai phương pháp . Riêng trường hợp danh mục
có độ đa dạng hoá tốt (các quỹ đầu tư tương hỗ) thì hai
phương pháp đều đem lại kết quả xếp hạnh tương đương.
nhưng, điểm bất lợi của cả hai phương pháp là ở chỗ chúng
đưa ra một kết quả xếp hạng tương đối chứ không phải
tuyệt đối.
5.3.2.3 – Phƣơng pháp Jensen
Phương pháp này căn cứ trên mô hình định giá tài
sản vốn (CAMP). Mô hình CAMP cho ta công thức :
E(Ri ) = Rf + βi [E(RM) – Rf] (1)
310
Trong đó :
- E(Ri ) : Tỷ suất lợi nhuận ước tính của danh mục
i
- Rf : Lãi suất phi rủi ro trong một giai đoạn
- βi : Mức độ rủi ro hệ thống của chứng khoán hay
một danh mục i
- E(RM) : Lợi nhuận ước tính của danh mục thị
trường
Phương trình trên diễn tả mối quan hệ cân bằng giữa
mức lợi suất ước tính của danh mục thị trường E(RM) với
lợi suất ước tính của danh mục i là E(Ri) . Như vậy, nếu kết
quả lợi nhuận thực tế của danh mục thị trường RM và của
danh mục i Ri cũng thỏa mãn phương trình trên, tức là:
Nếu Ri = Rf + βi [RM – Rf] (2) thì có nghĩa nhà quản
lý danh mục đầu tư i có kết quả xếp hạng ngang với danh
mục thị trường không có nghĩa lợi suất của hai danh mục
này bằng nhau. Hai mức lợi suất này có thể rất khác nhau
do độ chấp nhận rủi ro của hai danh mục khác nhau.
Như vậy, nếu danh mục đầu tư i có độ rủi ro lớn hơn
danh mục thị trường (βi >1) thì yêu cầu lợi suất đạt được
cũng phải lớn hơn lợi suất thị trường theo một tỷ lệ tương
ứng thỏa mãn phương trình (1) nêu trên và ngược lại. Chỉ
311
khi βi =1 thì hai danh mục có cùng độ rủi ro và vì vậy
cùng yêu cầu một lợi suất bằng nhau.
Trường hợp lợi suất thực tế của danh mục i và danh
mục thị trường có mối quan hệ không theo đẳng thức (2) thì
có nghĩa là hai danh mục đầu tư này có thứ tự xếp hạng
khác nhau, cụ thể như sau :
- Nếu Ri > Rf + βi [RM – Rf] (3) chứng tỏ danh mục
đầu tư i hoạt động tốt hơn danh mục thị trường, hay kém
hơn mức trung bình của thị trường.
- Nếu Ri < Rf + βi [RM – Rf] (3) chứng tỏ danh mục
đầu tư i hoạt động kém hơn danh mục thị trường, hay kém
hơn mức trung bình của thị trường.
Nhìn chung, nếu dùng danh mục thị trường làm
chuẩn so sánh thì có thể đánh giá năng lực hoạt động của
nhà quản lý danh mục đầu tư theo ba khả năng :
+ Nếu kết quả danh mục đầu tư đạt được thỏa mãn
đẳng thức (2) thì năng lực nhà quản lý ở mức trung bình
(tương đương với danh mục thị trường).
+ Nếu kết quả danh mục đầu tư đạt được có quan hệ
với danh mục thị trường theo bất đẳng thức (3) thì chứng tỏ
nhà quản lý có năng lực tốt trong việc dự báo nắm bắt thời
cơ thị trường hoặc trong việc chọn lựa những chứng khoán
hời về giá, hoặc cả hai.
312
+ Nếu kết quả danh mục đầu tư đạt được có quan hệ
với danh mục thị trường theo bất đẳng thức (4) thì chứng tỏ
nhà quản lý có năng lực dưới trung bình.
Tuy nhiên, các đánh giá trên chỉ mới so sánh được
kết quả của một danh mục đầu tư nào đó với danh mục thị
trường, chưa thể so sánh các danh mục đầu tư với nhau.
Để thực hiện được vấn đề này, cần phải tiến hành
thêm bước so sánh như sau :
Mối quan hệ giữa danh mục đầu tư đánh giá với danh
mục thị trường được thể hiện lại bằng đẳng thức:
Ri - Rf = Ai + βi [RM – Rf]
Trong đó, Ai được gọi là thước đo Jensen. Nếu Ai
càng cao thì càng tốt, song vì các danh mục đầu tư có độ rủi
ro khác nhau nên cần phải đo Ai trong mối tương quan với
hệ số rủi ro của chính danh mục i. Như vậy, hệ số Ai / βi
chính là thước đo so sánh của mỗi danh mục. Nếu hệ số
này càng cao thì danh mục đầu tư càng hiệu quả.
313
BÀI TẬP CHƢƠNG 5
Bài tập 1: Một danh mục đầu tư có tỷ suất sinh lời ước tính
là 20% và độ lệch chuẩn là 20%. Tín phiếu phi rủi ro có lợi
suất chắc chắn là 7%. Những nhà đầu tư có mức ngại rủi ro
A=4 sẽ thực hiện việc đầu tư không? Điều gì xảy ra nếu
A=8?
Bài tập 2: Một nhà đầu tư có số vốn là 100 triệu VNĐ dự
kiến đầu tư vào danh mục đầu tư hỗn hợp gồm 2 cổ phiếu
và tín phiếu kho bạc có các dữ liệu sau:
- Danh mục hỗn hợp có độ rủi ro β=1,5
- Danh mục cổ phiếu có độ rủi ro β=1; βcủa 2 cổ
phiếu tương ứng là 0,8 và 0,2
Xác định thành phần của danh mục đầu tư thỏa mãn
các điều kiện trên?
Bài tập 3: Ngân hàng bạn đang xem xét để đầu tư vào một
cổ phiếu có tỷ suất sinh lời mong đợi là 11%, lãi suất tín
phiếu kho bạc là 8%, lãi suất đầu tư bình quân của thị
trường cổ phiếu là 12%, cổ phiếu đang xem xét có hệ số rủi
ro β chỉ bằng một nửa của bình quân thị trường. Ban có nên
đầu tư hay không?
314
Bài tập 4: Có số liệu về hai cổ phiếu theo bảng sau:
Tình trang
kinh tế
Xác suất Tỷ suất sinh
lời đầu tư vào
cổ phiếu A
Tỷ suất sinh
lời đầu tư vào
cổ phiếu B
Suy thoái 20% -5% 6%
Bình thường 40% 10% -2%
Khá 30% -4% 8%
Hưng thịnh 10% 7% -9%
a. Xác định tỷ suất sinh lời kỳ vọng đầu tư vào cổ phiếu
A và B
b. Rủi ro đầu tư vào cổ phiếu A và B
c. Hệ số tích sai của A và B
d. Hệ số tương quan giữa A và B
e. Hai cổ phiếu này có thể kết hợp với nhau trong danh
mục đầu tư để trừ khử rủi ro không? Vì sao?
315
Bài 5: Nguyễn Bình đang sở hửu danh mục đầu tư gồm
4 cổ phiếu và thông số của chúng như sau:
Loại Cổ phiếu Giá trị thị trường Mức sinh lời(%)
A 50.000.000đ 8
B 20.000.000đ 14
C 30.000.000đ 16
D 10.000.000đ 15
Hãy xác định mức sinh lợi kỳ vọng tổng thể của Nguyễn
Bình?
Bài 6: Trong vòng 10 năm qua, tỷ suất lợi nhuận bình
quân của danh mục chứng khoán thị trường, ký hiệu RM bq
là 14%, lãi suất phi rủi ro bình quân của trái phiếu Kho bạc
nhà nước là 8% năm. Bạn đang xem xét trong số 3 quản trị
viên quản lý danh mục đầu tư A, B, C để chọn và thuê họ
quản lý danh mục đầu tư cho bạn. Trong vòng 10 năm qua,
tình hình hoạt động của họ được tóm tắt như sau:
Quản trị viên Mức lợi nhuận
bình quân thực tế
đạt được
Hệ số rủi ro β
A 12% 0.9
B 16% 1.05
C 18% 1.2
316
Bạn hãy sử dụng phương pháp Treynor để đánh giá hiệu
quả hoạt động của 3 quản trị viên A,B,C và cho biết Bạn
sẽ chọn ai? Vì sao?
Bài 7: Trong vòng 10 năm qua, tỷ suất lợi nhuận bình
quân của danh mục chứng khoán thị trường, ký hiệu RM là
14%, lãi suất phi rủi ro bình quân của trái phiếu Kho bạc
nhà nước là 8% năm.
Bạn đang xem xét trong số 3 quản trị viên quản lý danh
mục đầu tư A, B, C để chọn và thuê họ quản lý danh mục
đầu tư cho bạn.
Trong vòng 10 năm qua, tình hình hoạt động của họ
được tóm tắt như sau:
Quản trị viên Mức lợi nhuận
bình quân thực tế
đạt được
Hệ số rủi ro β
A 12% 0.9
B 16% 1.05
C 18% 1.2
Bạn hãy sử dụng phương pháp Jensen để đánh giá hiệu
quả hoạt động của 3 quản trị viên A,B,C và cho biết Bạn
sẽ chọn ai? Vì sao?
Bài 8: Giả sử trong vòng 10 năm qua, tỷ suất lợi nhuận
bình quân của danh mục chứng khoán thị trường là 14%, lãi
317
suất phi rủi ro bình quân của trái phiếu Kho bạc nhà nước là
8% năm. Độ lệch chuẩn của lợi nhuận hàng năm của thị
trường chứng khoán trong 10 năm qua là 0.2
Bạn đang xem xét trong số 3 danh mục đầu tư A, B, C
trong vòng 10 năm qua. Tình hình về 3 danh mục được tóm
tắt như sau:
Danh mục Mức LN bình
quân năm thực tế
đạt được
Độ lệch chuẩn
A 13% 0.18
B 17% 0.22
C 16% 0.23
Theo phương pháp Shape, hãy đánh giá và xếp loại hiệu
quả hoạt động của 3 danh mục trên? Giải thích.
318
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phân Tích & Đầu Tư Chứng Khoán – PGS TS Bùi Kim
Yến- NXB Thông Kê -Trường ĐH Kinh Tế TPHCM-
2007
2. Phân Tích & Đầu Tư Chứng Khoán – Hồng Anh- NXB
Thông Kê -2002
3. Quản Trị Học – TS Phan Thị Minh Châu – Trường Đại
học Kinh tế TPHCM – NXB Phương Đông- 2007
4. Giáo Trình Thị Trường Chứng Khoán - PGS-TS Phan
Thị Cúc, NCS-Ths Đoàn Văn Huy, TS Nguyễn Trung
Trực, CH Từ Thị Hoàng Lan- Khoa TCKT- Trường ĐH
Công nghiệp TPHCM – -2006.
5. Phạm Văn Quang (2001), Chứng khóan và tìm hiểu Thị
Trường Chứng Khoán, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
6. TS. Lý Vinh Quang (2006), Chứng khoán và Phân tích
đầu tư chứng khóan, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
7. PGS,TS.Phan Thị Cúc và tập thể tác giả (2007)Tài chính
doanh nghiệp phần 2 .Trường Đại học Công nghiệp
Tp.Hồ Chí Minh
319
MỤC LỤC
Đề mục Trang
Chƣơng 1:MÔI TRƢỜNG ĐẦU TƢ VÀ
THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1 Môi trƣờng đầu tƣ ................................................... 1
1.1.1 Khái niệm về môi trường đầu tư ............................ 1
1.1.2 Phân lọai môi trường đầu tư ................................... 2
1.1.3 Sự cần thiết của việc nghiên cứu
môi trường đầu tư ................................................... 5
1.2 Môi trƣờng vĩ mô .................................................... 9
1.2.1 Môi trường kinh tế ................................................. 9
1.2.2 Môi trườnh chính trị và pháp luật ......................... 27
1.2.3 Môi trường văn hóa xã hội ................................... 30
1.2.4 Môi trường dân số ................................................ 32
1.2.5 Môi trường tự nhiên ............................................. 33
1.2.6 Môi trường công nghệ .......................................... 35
1.3 Môi rường vi mô ..................................................... 36
1.4 Môi trường quốc tế .................................................. 38
1.5 Môi trường nội bộ ................................................... 41
1.6 Cơ sở hạ tầng của thị trường chứng khoán............... 43
Chƣơng 2: RỦI RO VÀ MỨC SINH LỜI
TRONG ĐẦU TƢ CHỨNG KHOÁN
2.1 Mức sinh lời trong đầu tƣ chứng khoán............... 45
2.1.1 Mức sinh lời tính bằng số tuyệt đối ...................... 45
2.1.2 Mức sinh lời tính bằng số tbương đối ................... 49
320
2.2 Rủi ro trong đầu tƣ chứng khoán ......................... 52
2.2.1 Khái niệm rủi ro ................................................... 52
2.2.2 Phân lọai rủi ro trong đầu tư chứng khoán ............ 53
2.3 Đánh giá rủi ro và mức sinh lời kỳ vọng .............. 61
2.3.1 Mức sinh lời kỳ vọng ........................................... 61
2.3.2 Đo lường rủi ro..................................................... 63
2.4 Phân tích và quản lý rủi ro ................................... 69
Chƣơng 3: LÝ THUYẾT THỊ TRƢỜNG
HIỆU QUẢVÀ MÔ HÌNH ĐỊNH GIÁ TÀI
SẢN VỐN
3.1 Lý thuyết thị trƣờng hiệu quả .............................. 81
3.1.1 Thị trường hiệu quả .............................................. 81
3.1.2 Các bất thường có ý nghĩa đối với
giám đốc tài chính ................................................ 89
3.1.3 Bài học của thị trường hiệu quả ............................ 99
3.2 Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) ............... 116
3.2.1 Những giả định kinh tế cho thị trường vốn ......... 116
3.2.2 Hệ số beta .......................................................... 128
3.2.3 Quan hệ giữa lý thuyết thị trường vốn
Và mô hình định giá tài sản vốn CAPM ............. 132
3.2.4 Mô hình CATM trong điều kiện thị trƣờng
vốn Việt nam ..................................................... 132
Chƣơng 4: PHÂN TÍCH CƠ BẢN; PHÂN TÍCH
KỸ THUẬT VÀ PHÂN TÍCH ĐẦU TƢ CỔ PHIẾU,
TRÁI PHIẾU
4.1 Phân tích cơ bản .................................................. 138
321
4.1.1 Chỉ tiêu tổng quát ............................................... 142
4.1.2 Chỉ số thanh khoản ............................................. 143
4.1.3 Chỉ số về khả năng tạo vốn ................................. 146
4.1.4 Chỉ số bảo chứng ................................................ 147
4.1.5 Chỉ số về khả năng lợi nhuận và sử
dụng tài sản ........................................................ 149
4.1.6 Đánh giá thu nhập .............................................. 151
4.2 Phân tích kỹ thuật ............................................... 153
4.2.1 Lý thuyết Dow ................................................... 155
4.2.2 Một vài dạng thức đồ thị .................................... 162
4.2.3 Đường trung bình di động
(Moving Average-MA) ...................................... 176
4.2.4 Chỉ số giá chứng khoán ..................................... 182
4.2.5 Các chỉ tiêu phân tích kỹ thuật ........................... 196
4.2.6 Hệ thống xếp hạng Value Line ........................... 201
4.3 Phân tích lự chọn cổ phiếu .................................. 204
4.3.1 Định giá cổ phiếu ............................................... 205
4.3.2 Các lọai giá cổ phiếu .......................................... 206
4.3.3 Lợi tức rủi ro ...................................................... 208
4.3.4 Cổ tức (dividend) ............................................... 211
4.3.5 Định giá cổ phiếu theo phương pháp
chiết khấu cổ tức (phương pháp DDM) .............. 212
4.3.6 Phương pháp sử dụng tỉ số P/E (Price earning
ratio) và P/B (Price book value ratio) ................. 223
4.3.7 Định giá dự vào dòng tiền thuần (FCF) .............. 225
4.4 Phân tích quyết định đầu tƣ trái phiếu .............. 230
322
4.4.1 Lợi tức rủi ro của đầu tư trái phiếu .................... 230
4.4.2 Định giá trái phiếu ............................................. 236
4.4.3 Đo lường lợi suất trái phiếu ................................ 251
4.4.4 Thời gian đáo hạn bình quân (Duration) ............. 256
4.4.5 Độ lồi( Convexity) ............................................. 261
Chƣơng 5: ĐẦU TƢ THEO DANH MỤC
VÀ QUẢN LÝ ĐẦU TƢ
5.1 Phân tích lựa chọn danh mục ............................. 266
5.1.1 Nguyên tắc đầu tư .............................................. 266
5.1.2 Lựa chọn danh mục đầu tư tối ưu ....................... 284
5.2 Quản lý danh mục đầu tƣ ................................... 292
5.2.1 Quản lý danh mục trái phiếu ............................... 293
5.2.2 Quản lý danh mục đầu tư cổ phiếu ..................... 300
5.3 Một số phƣơng pháp đánh giá kết quả
danh mục đầu tƣ đa hợp ..................................... 304
5.3.1 Những yêu cầu đặt ra đối với nhà quản
lý danh mục đầu tư ............................................. 304
5.3.2 Đánh giá kết quả quản lý danh mục
đầu tư hổn hợp ( đa hợp) ................................... 306
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................ 318