vieteconomistblog.files.wordpress.com€¦ · 1 Tên người gửi: Địa chỉ: Đ Điện...
Transcript of vieteconomistblog.files.wordpress.com€¦ · 1 Tên người gửi: Địa chỉ: Đ Điện...
THƯ NGỎ GỬI THỦ TƯỚNG NGUYỄN XUÂN PHÚC
1
Tên người gửi:
Địa chỉ:
Điện thoại:
E-mail:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*****
Hà nội ngày 1/12/2017
THƯ NGỎ GỬI THỦ TƯỚNG NGUYỄN XUÂN PHÚC
V/v: Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng 2017 – Một vụ Lừa đảo
Tầm cỡ Quốc tế
Kính thưa Thủ tướng,
Tôi tên là XXXXXX, tiến sỹ Kinh tế, tốt nghiệp từ Đại hoc YYYYYY, quốc gia ZZZZZZ. Tôi
là công dân Việt nam, hiện đang sống và làm việc tại Hà nội. Tôi là người đại diện cho nhóm
soạn thảo bức Thư ngỏ này.
Chúng tôi đã tra cứu nhiều tài liệu, tham khảo ý kiến nhiều chuyên gia, trước khi quyết định gửi
cho Thủ tướng.1 Do tính chất nghiêm trọng của vụ việc, Thư ngỏ này cũng được đăng trên trang
http://www.vieteconomistblog.wordpress.com để công chúng cùng đọc và cảnh giác. Sau đây là
2 đề nghị quan trọng nhất của bức thư:
(i) Đề nghị Thủ tướng giải tán ngay nhóm 4 học giả gốc Việt trong Tổ Tư vấn Kinh tế
của Thủ Tướng 2017 (bao gồm: Trần Văn Thọ, Vũ Minh Khương, Trần Ngọc Anh,
Nguyễn Đức Khương), và để cho cộng đồng các nhà kinh tế gốc Việt ở hải ngoại tự lựa
chọn và giới thiệu những người đại diện cho họ trong Tổ Tư vấn Kinh tế.
Lý do cơ bản: Nhóm học giả này chất lượng quá tồi tệ: Cả hai ông Trần Ngọc Anh và Vũ
Minh Khương đều là tiến sỹ chính sách công đang làm việc ở các trường hành chính công,
nghĩa là “nghe hơi nồi chõ” về kinh tế, bởi bằng cấp và kinh nghiệm đều không phải là kinh tế.
Chính sách công/hành chính công không thuộc nhóm ngành kinh tế mà thuộc nhóm ngành
chính trị. Sở trường nghiên cứu và đề xuất trong buổi họp đầu tiên ở Tổ Tư vấn của họ đều về
hành chính và chính trị (HC&CT) chứ không phải kinh tế. Cả hai rất thiếu kinh nghiệm thực
tiễn về HC&CT Việt nam, cần trao đổi với các cơ quan chuyên trách về HC&CT để điều chỉnh
các đề xuất cho phù hợp với hoàn cảnh Việt nam, chứ không phải với các nhà kinh tế trong Tổ
Tư vấn Kinh tế. Ngoài ra, nhiều vấn đề HC&CT thuộc quyền chỉ đạo, giám sát của các cơ quan
Đảng chứ không phải Chính quyền (Thủ tướng), cho nên Thủ tướng được thông báo thông tin
chứ không cần gặp gỡ trao đổi về đề xuất và giải pháp với Tư vấn hải ngoại. Chưa kể sự phá
phách của chính trị ngoại bang đối với ngành kinh tế. Hơn nữa, đây là Tổ Tư vấn Kinh tế
chứ không phải Tổ Tư vấn HC&CT. Ông Trần Văn Thọ không phải là giáo sư trường Kinh tế
hay trường Thương mại, mà là của trường Khoa học Xã hội của đại học Waseda, (giống như
1 Chúng tôi xin chân thành cám ơn tất cả những ý kiến phê bình góp ý cho Thư ngỏ này. Mọi sai lầm nếu có là do lỗi
của nhóm tác giả.
Thư Ngỏ này đã được đăng ở trang: http://www.vieteconomistblog.wordpress.com để công chúng
đọc. Phiên bản này công khai trên Internet cho nên không có thông tin về người gửi. Tuy nhiên,
phiên bản gửi cho Thủ tướng và các quý vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước có đầy đủ các thông tin này.
2
trường KHXH&NV của Đại học Quốc gia Hà nội). Ông Thọ không biết nghiên cứu kinh tế
(không có bài báo nào trên các tạp chí kinh tế uy tín quốc tế), thậm chí không đạt chuẩn phó
giáo sư kinh tế của Việt nam2, chưa nói đến chuẩn rất cao của Nhật bản. Còn ông Nguyễn Đức
Khương cũng mới chỉ đạt đẳng cấp nhà kinh tế tiêu biểu Đông-Nam-Á chứ chưa đạt đẳng cấp
châu Á. Khả năng hội nhập với giới kinh tế quốc tế của 3 người đầu tiên vô cùng kém bởi
ngành kinh tế thế giới không quan tâm đến những người không có bằng tiến sỹ kinh tế đồng
thời không làm việc trong ngành kinh tế (do ngành kinh tế có sự tự tôn nghề nghiệp), và những
người không biết nghiên cứu kinh tế. Khả năng hội nhập giới kinh tế quốc tế của ông Đức
Khương cũng kém.
Vụ việc này là sự lừa đảo học thuật tầm cỡ quốc tế, xúc phạm sâu sắc cộng đồng các nhà kinh
tế Việt nam và gây tổn hại cho khoa học kinh tế Việt nam, và khiến cho công việc tư vấn cho
Thủ tướng trở nên rất kém hiệu quả. Tổ Tư vấn Kinh tế 2017 là bước thụt lùi nguy hiểm so với
các Tổ tư vấn trước đó, trệch khỏi xu thế của thế giới về một Tổ Tư vấn Kinh tế cấp quốc gia
đúng nghĩa.
(ii) Đề nghị Thủ tướng hỗ trợ để chấm dứt sự can thiệp của các trường hành chính công
của nước ngoài (trường Kennedy, đại học Harvard (và trường Fulbright mà họ đỡ đầu);
trường SPEA, đại học Indiana; và trường Lý Quang Diệu, đại học Quốc gia Singapore)3
vào ngành kinh tế Việt nam.
Lý do cơ bản: Hiện đang có nghi vấn các trường này đã “can thiệp” để nhồi nhét 2 tiến sỹ
chính sách công yếu kém do họ đào tạo và tuyển dụng vào Tổ Tư vấn Kinh tế 2017. Trường
hành chính công Kennedy-Harvard từng có tiền sử thao túng ngành kinh tế Việt nam vì mục
đích riêng. Các trường hành chính công đều có bản chất là các trường chính trị và không thuộc
nhóm ngành kinh tế. Và chính trị tây thì phục vụ cho lợi ích của tây trước tiên chứ không phục
vụ cho sự phát triển kinh tế Việt nam. Giới kinh tế quốc tế không công nhận các trường hành
chính công là các trường kinh tế, thậm chí rất xung khắc với nhóm ngành chính trị. Đã đến lúc
cần chấm dứt mọi sự can thiệp của các trường này vào ngành kinh tế Việt nam.
Để thành lập một Tổ Tư vấn Kinh tế cho Thủ tướng đúng nghĩa, tất cả các thành viên đến từ
hải ngoại phải là những người uyên bác về kinh tế (thể hiện ở bằng cấp, kinh nghiệm, và uy tín
trong ngành kinh tế thế giới), đặc biệt là phải có chuyên môn về các lĩnh vực kinh tế vỹ mô
trọng điểm. Trường hợp bất đắc dĩ phải mời những người thuộc ngành khác, thì họ chỉ có thể
đóng vai trò hỗ trợ cho các lĩnh vực kinh tế vỹ mô trọng điểm và phải là người đang làm việc
lâu năm ở trong nước để đảm bảo những đề xuất của họ phù hợp ngay với thực tiễn Việt nam,
và phải do một ban tuyển chọn bao gồm các nhà kinh tế đích thực phối hợp với văn phòng
chính phủ lựa chọn.
Kính thưa Thủ tướng,
2 Chuẩn mới về phó giáo sư của Việt nam là phải có 2 bài báo ISI/SCOPUS
3 Trường Kennedy, Harvard gọi đúng tên là trường Chính phủ Kennedy, Harvard; trường SPEA, Indiana gọi đúng
tên là trường Hành chính Công và Môi trường, Indiana; trường Lý Quang Diệu gọi đúng tên là trường Chính sách
công Lý Quang Diệu. Tuy nhiên chúng tôi gọi cả 3 trường là các trường hành chính công cho đỡ dài bởi bản chất
các trường này tương tự như nhau, chỉ là khác biệt đôi chút về tên gọi.
3
Chúng tôi biết tin về Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng 2017 hồi cuối tháng 7. Khác với các năm
trước, năm nay Tổ Tư vấn có thêm 4 người sống và làm việc chủ yếu ở hải ngoại. Điều này là hệ
trọng bởi nhóm này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của toàn bộ giới kinh tế Việt nam, trong đó
các nhà kinh tế gốc Việt ở hải ngoại là tiên phong. Giống như mọi ngành khoa học khác, cộng
đồng hải ngoại tập trung hầu hết các nhà kinh tế gốc Việt tài năng nhất.
Chính vì vậy, chúng tôi sửng sốt và phẫn nộ khi đọc thấy tên 4 người này. Nhóm học giả này
yếu kém một cách đáng xấu hổ. Thất vọng, bực tức, và phẫn nộ có lẽ là cảm giác chung của giới
kinh tế Việt nam khi chức danh “Tư vấn Kinh tế” đang bị nhóm này bôi bẩn. Đã có một số phản
ứng về vụ này, ví dụ bài viết của tiến sỹ Phạm Thế Anh, trưởng bộ môn Kinh tế Vĩ mô, đại học
Kinh tế Quốc dân, tuy mới chỉ là những lời bóng gió xa xôi.4 Trong Thư ngỏ này, chúng tôi sẽ lý
giải cho độc giả hiểu chi tiết hơn về vấn đề.
Có thể chia Tổ Tư vấn Kinh tế thành hai nhóm: (i) Nhóm hải ngoại: bao gồm 4 người làm việc
chủ yếu ở nước ngoài (Trần Văn Thọ, Vũ Minh Khương, Trần Ngọc Anh, Nguyễn Đức
Khương); và (ii) Nhóm trong nước: gồm 11 người còn lại làm việc chủ yếu ở Việt nam. Tiêu
chí lựa chọn thành viên của hai nhóm sẽ phải khác nhau, bởi Nhóm hải ngoại không có kinh
nghiệm thực tiễn gì đáng kể ở Việt nam, trong khi Nhóm trong nước rõ ràng yếu kém về chất
lượng nghiên cứu kinh tế và cập nhật kiến thức, chuẩn mực tư vấn của ngành kinh tế thế giới.
Thư ngỏ này sẽ chỉ đề cập đến 4 người ở Nhóm hải ngoại, bởi nhóm này ảnh hưởng trực
tiếp đến uy tín của toàn bộ giới kinh tế Việt nam, mà các nhà kinh tế gốc Việt ở hải ngoại là
tiên phong. Nhóm hải ngoại sống ở các quốc gia phát triển, đáng ra phải là nhóm tài năng, uyên
bác về kinh tế, vậy mà lại để cho những người yếu kém chiếm hết ghế thì làm sao có thể nói
được Nhóm trong nước. (Cần lưu ý, năng lực nghiên cứu của Nhóm trong nước kém xa Nhóm
hải ngoại là điều bình thường, bởi nếu không thì Việt nam trở thành quốc gia phát triển rồi.)
Kính thưa Thủ tướng,
Chúng tôi nghĩ rằng Thủ tướng bận trăm công nghìn việc và không có thời gian để tuyển chọn
nhân sự cho Tổ Tư vấn Kinh tế. Tuy nhiên, có lẽ các cố vấn nhân sự cho Thủ tướng đã phạm sai
lầm nghiêm trọng, thậm chí mắc lừa khi chọn 4 người này.
Dưới đây, chúng tôi sẽ trình bày tóm tắt 24 luận điểm quan trọng nhất của Thư ngỏ này. Kèm
theo Thư ngỏ là TÀI LIỆU BỔ SUNG CHO CÁC LUẬN ĐIỂM TRONG THƯ NGỎ, diễn
giải chi tiết về các luận điểm này. Chương XII của TÀI LIỆU BỔ SUNG có phần Giải pháp
Cải tạo Nhóm hải ngoại, và Phụ lục A có Danh sách các Nhà Kinh tế Tiêu biểu Gốc Việt
cùng với địa chỉ liên hệ của họ.
Việc đánh giá năng lực Tổ Tư vấn đòi hỏi am hiểu về nghiên cứu hàn lâm, bởi hầu hết thành viên
Tổ Tư vấn Kinh tế 2017 đều có bằng tiến sỹ. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ cố gắng giải thích một cách
đơn giản nhất để những người ở ngoài khu vực hàn lâm có thể hiểu được.
4 TS Phạm Thế Anh tốt nghiệp tiến sỹ Kinh tế từ đại học Manchester, Anh và hậu tiến sỹ ở ĐH Columbia, Hoa kỳ,
Bài viết của ông Thế Anh ở đây: https://www.facebook.com/theanh98/posts/10155443156727457
4
1. Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Tổng thống Hoa kỳ (CEA) là một tổ chức tương tự như
Tổ Tư vấn Kinh tế của Việt nam. Từ 1954 đến nay, CEA luôn luôn có ít nhất 3 thành viên
(cho mỗi nhiệm kỳ tổng thống), tất cả đều có bằng tiến sỹ thuộc nhóm ngành kinh tế từ các
trường danh tiếng và có thâm niên làm việc ở các khoa kinh tế, trường kinh doanh uy tín
cao5. Nhiều chủ tịch CEA thậm chí từng đoạt giải hoặc là ứng viên giải Nobel kinh tế.
Những điều đó đảm bảo rằng CEA là một tổ chức uyên bác về kinh tế và là Hội đồng Cố
vấn KINH TẾ chứ không phải Hội đồng Cố vấn LĨNH VỰC NÀO KHÁC. CEA cũng tuyển
thêm 15-25 người khác để hỗ trợ, phục vụ hội đồng. Trong số đó, các chuyên gia kinh tế cao cấp,
(tuyệt đai đa số đều có bằng tiến sỹ nhóm kinh tế hoặc tiến sỹ khác nhưng có thâm niên trong
ngành kinh tế), đều có nghiên cứu chất lượng rất cao, được tuyển để hỗ trợ 3 thành viên hội đồng
trong các lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng điểm của Hoa kỳ. Đó là các lĩnh vực phi chính trị. Tổng
thống Hoa kỳ cũng có nhiều cố vấn chính trị, nhưng không thuộc CEA. Mô hình Hoa kỳ được
giới thiệu bởi đây là quốc gia sở hữu trên 70% giải Nobel Kinh tế, là nền kinh tế năng động nhất
thế giới, và có phong trào khởi nghiệp sôi nổi. Hoa kỳ có 51 bang (tương đương 51 quốc gia).
2. Một vấn đề rất nguy hiểm ở Việt nam là sự lẫn lộn giữa Kinh tế và Chính trị. Nhiều
người không hiểu rằng Chính sách Công/Hành chính Công không thuộc nhóm ngành kinh
tế mà thuộc nhóm ngành chính trị. Cần phân biệt Trường hành chính công Kennedy của đại
học Havard (trường đỡ đầu đại học Fulbright Việt nam) với Khoa Kinh tế của đại học Harvard.
Tổ Tư vấn Kinh tế cần kết nối với Khoa kinh tế, đại học Harvard chứ không cần kết nối với
trường Kennedy, Harvard. Tuyệt đối không nên coi các trường hành chính công (Kennedy-
Harvard, SPEA-Indiana, Lý Quang Diệu-NUS) là những nơi đáng tin cậy để tư vấn kinh tế bởi
các trường hành chính công bản chất đều là các trường chính trị. Và chính trị tây phục vụ cho lợi
ích của tây trước tiên chứ không phục vụ sự phát triển kinh tế Việt nam. Giới kinh tế quốc tế
không coi các trường hành chính công là các trường kinh tế. Ngành kinh tế thế giới rất xung khắc
với các ngành chính trị, (xem thêm chương V của TÀI LIỆU BỔ SUNG).
3. Có lẽ sự khác biệt lớn nhất giữa Tổ Tư vấn Kinh tế và CEA là CEA không có nhóm hải
ngoại. Nhóm hải ngoại của Tổ Tư vấn rất thiếu kinh nghiệm thực tiễn ở Việt nam do sống chủ
yếu ở nước ngoài. Tuy nhiên, họ được kỳ vọng phần nào đó giống như 3 thành viên hội đồng
CEA, hiểu biết uyên thâm về kinh tế thế giới, đủ năng lực đem về nước những tiến bộ kinh tế
mới nhất, đảm bảo hội nhập quốc tế và hướng đến chuẩn mực tư vấn kinh tế của thế giới.
4. Nhưng trên thực tế, 4 học giả hải ngoại của Tổ tư vấn yếu kém đến mức xấu hổ: Hai nhà kinh tế giả cầy Trần Ngọc Anh và Vũ Minh Khương: cả hai là tiến sỹ chính sách
công, tốt nghiệp từ trường Kennedy-Harvard và làm việc ở các trường hành chính công SPEA-
Indiana và Lý Quang Diệu-NUS (nghĩa là cả bằng cấp và kinh nghiệm đều không phải là kinh
tế), cho nên thiếu hụt trầm trọng kiến thức kinh tế (bậc nghiên cứu), nghĩa là còn dốt hơn cả các
nhà kinh tế đang làm việc trong nước. Chưa kể họ sẽ đem não trạng chính trị vào tư vấn kinh tế.
Khả năng hội nhập với giới kinh tế quốc tế của cả hai vô cùng kém, bởi giới kinh tế quốc tế
không hứng thú với những người không có bằng tiến sỹ kinh tế đồng thời không làm việc trong
ngành kinh tế, do ngành kinh tế có sự tự tôn nghề nghiệp. Chưa kể sự phá phách của chính trị
5 https://obamawhitehouse.archives.gov/administration/eop/cea/about/former-chairs
https://obamawhitehouse.archives.gov/administration/eop/cea/about/Former-Members
5
ngoại bang đối với ngành kinh tế. Lẽ ra như thế là quá đủ để không nên mời họ về nước
làm Tư vấn kinh tế.
+ Sở trường nghiên cứu của Trần Ngọc Anh6 (Tham nhũng, Minh bạch Chính Phủ, Mạng Chính
trị, mối quan hệ giữa Tham nhũng và Trốn Thuế) chỉ phù hợp làm tư vấn hành chính & chính trị
(HC&CT) cho các cơ quan phi-kinh tế (Ban Chỉ đạo TW Phòng Chống Tham nhũng
(BCĐTWPCTN), Bộ Chính trị, Bộ Nội vụ, Hội đồng Tư vấn Cải cách Thủ tục Hành chính, Học
viện Chính trị...) Ông Ngọc Anh “ngồi nhầm chỗ” trong Tổ tư vấn Kinh tế bởi ông ta sống ở hải
ngoại, rất thiếu kinh nghiệm thực tiễn về Việt nam, (đặc biệt, các lĩnh vực này đều nhạy cảm, rất
thiếu thông tin công khai). Ông ta cần thảo luận thường xuyên với các học giả đến từ các cơ quan
kể trên để điều chỉnh các đề xuất HC&CT sao cho phù hợp với Việt nam, chứ không phải với các
tiến sỹ kinh tế trong Tổ Tư vấn, bởi các nhà kinh tế không có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn
về các lĩnh vực đó để góp ý cho ông ta. Họ cũng rất ít quan hệ với các cơ quan kể trên. (GS
Nguyễn Xuân Thắng của Tổ Tư vấn mới làm giám đốc Học viện Chính Trị Quốc gia 1 năm, là vị
trí quản lý, nhưng thực ra ông là tiến sỹ kinh tế, cả đời nghiên cứu kinh tế ở các cơ quan kinh tế
chứ không có kiến thức và kinh nghiệm gì đáng kể về chính trị. PGS Trần Hoàng Ngân cũng
vậy7). Nói vắn tắt, các đề xuất HC&CT của ông Ngọc Anh rất thiếu giá trị thực tiễn ở Việt nam,
trong khi các tiến sỹ kinh tế trong Tổ Tư vấn không đủ năng lực để thẩm định các đề xuất đó là
đúng hay sai, có thật sự quan trọng và phù hợp với hoàn cảnh Việt nam không, thậm chí có phục
vụ mưu đồ chính trị ngoại bang không? Họ cũng không phải là đối tượng cần nghe và thảo luận
với ông Ngọc Anh về Tham nhũng hay Minh bạch. Hơn nữa, đây là Tổ Tư vấn kinh tế chứ
không phải Tổ Tư vấn Hành chính & Chính trị. Ông Ngọc Anh không biết gì về các lĩnh vực
kinh tế vĩ mô trọng điểm. (Sở đoản liên quan đến kinh tế phát triển thì kém đến mức thua nhiều
nhà kinh tế trong nước, và bản thân ông ta cũng không dám khoe trên website).
+ Ông Vũ Minh Khương8 cũng chỉ phù hợp tư vấn hành chính & chính trị, bởi chất lượng nghiên
cứu kinh tế rất kém ở mức không thể chấp nhận được, thua nhiều người trong nước chứ chưa nói
đến những người ở hải ngoại. Nếu xin việc trong ngành kinh tế, ông Minh Khương khó có khả
năng được nhận vào bất kỳ khoa kinh tế nào có đào tạo Ph.D của Hoa kỳ được Bộ Giáo dục Việt
nam công nhận. So sánh nghiên cứu kinh tế của ông Khương với các giáo sư khoa kinh tế cùng
trường (NUS) là một sự hổ thẹn. Ông Minh Khương “ngồi nhầm chỗ” trong Tổ tư vấn với lý do
tương tự ông Ngọc Anh.
Hai người còn lại: Ông Trần Văn Thọ9 là tiến sỹ kinh tế nhưng “ngồi nhầm chỗ” trong Tổ
tư vấn Kinh tế bởi ông ta không phải là giáo sư Kinh tế (không làm việc ở Trường Kinh tế hay
Trường Thương Mại của đại học Waseda) mà là giáo sư của Trường Khoa học Xã Hội của ĐH
Waseda (giống như trường KHXH&NV của Đại học Quốc gia Hà nội), và không biết nghiên cứu
kinh tế. Thậm chí, ông Thọ không đạt tiêu chuẩn về phó giáo sư kinh tế của Việt nam10
. So sánh
nghiên cứu kinh tế của ông Thọ với các giáo sư Trường Kinh tế Waseda là sự hổ thẹn lớn. Ông
Thọ không có bài báo nào trên các tạp chí kinh tế uy tín quốc tế.11
(Ông ta có xuất bản một số
sách theo yêu cầu của trường Khoa học Xã hội. Tuy nhiên ngành kinh tế thế giới chỉ đánh giá
6 https://spea.indiana.edu/faculty-research/directory/profiles/faculty/full-time/tran-anh.html 7 Các vấn đề về trọng án tham nhũng hay đào tạo cán bộ phải được sự giám sát, chỉ đạo trực tiếp của các cơ quan
Đảng chứ không phải Chính quyền (Thủ tướng), cho nên tư vấn ngoại chỉ cần làm việc với các cơ quan chuyên trách
các vấn đề đó rồi các cơ quan đó thông báo lại cho Thủ tướng chỉ để biết thông tin. Thủ tướng không cần gặp trực tiếp Tư vấn ngoại để bàn bạc, trao đổi về giải pháp. 8 https://lkyspp.nus.edu.sg/our-people/our-faculty/faculty-profile/vu-minh-khuong 9 https://www.waseda.jp/fsss/gsss/en/about/faculty/ 10 Chuẩn mới áp dụng cho phó giáo sư kinh tế yêu cầu 2 bài báo ISI/SCOPUS 11
Mặc dù đã làm nghiên cứu 24 năm nhưng chỉ có 1 bài báo ISI trên tạp chí Chính sách Kinh tế Châu Á.
6
năng lực nhà nghiên cứu dựa trên các bài báo xuất bản trên các tạp chí kinh tế chứ không quan
tâm đến xuất bản sách. Chương VI của TÀI LIỆU BỔ SUNG giải thích tin đồn ông Thọ tham gia
Hội đồng Cố vấn Kinh tế Nhật bản là tin bịa đặt.) Còn ông Nguyễn Đức Khương12
cũng chỉ là
nhà kinh tế tiêu biểu Đông-Nam-Á, chưa đạt đẳng cấp tiêu biểu châu Á. Nhiều nhà kinh tế gốc
Việt khác giỏi hơn ông ta. Khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của ông Trần Văn Thọ vô cùng
kém, còn ông Nguyễn Đức Khương cũng kém, bởi giới kinh tế quốc tế không quan tâm đến
những người có chất lượng nghiên cứu yếu kém như vậy.
5. Một sự lừa đảo trắng trợn: Buổi họp đầu tiên của Tổ Tư vấn Kinh tế đã biến thành
buổi Tư vấn về cải cách hành chính & chính trị (HC&CT)? Đề xuất đầu tiên của Tổ Tư vấn
trong buổi họp là: “Cắt giảm thủ tục hành chính xuống còn 1/3 so với hiện nay”13
. Hai tiến sỹ
chính sách công đều ba hoa về cải cách HC&CT chứ không phải về kinh tế. (Trần Ngọc Anh nói:
“cần xây dựng bảng theo dõi thực hiện nhiệm vụ của bộ, ngành, địa phương, là công cụ để “cân
đo đong đếm” việc thực thi chính sách, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng”14
. Vũ
Minh Khương nói: “Việt Nam cần khai thác công nghệ số để minh bạch thông tin về nhu cầu và
hiệu quả các dự án đầu tư công, chất lượng công tác của cán bộ - cơ quan chính quyền, sở hữu
tài sản và nộp thuế của quan chức”, “Mục tiêu và là động lực đầu tiên để chúng ta có đủ quả
cảm, mạnh dạn cải cách, đó là tiệt trừ tham nhũng và trọng dụng nhân tài15
”). Câu hỏi đặt ra là
có cần thiết để cho 2 ngài chính sách công lừa đảo cả hệ thống chính trị và công chúng rằng đó là
Tư vấn Kinh tế hay không? Tại sao đề xuất đầu tiên của Tổ Tư vấn kinh tế lại về thủ tục hành
chính? Các tiến sỹ kinh tế trong Tổ Tư vấn có kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu gì về thủ tục
hành chính mà lại đề xuất như vậy? Họ làm sao có khả năng đảm bảo những đề xuất về HC&CT
là đúng đắn và cấp thiết, phù hợp với thực tiễn của Việt nam?? Quan trọng hơn cả, đây là Tổ
Tư vấn Kinh tế chứ không phải Tổ Tư vấn về Hành chính & Chính trị.
Tóm tắt 4 và 5: Câu hỏi đặt ra là tại sao không để 2 tiến sỹ chính sách công tư vấn cho các
cơ quan chuyên trách về hành chính và chính trị (HC& CT) như Hội đồng Tư vấn Cải
cách Thủ tục Hành chính (HĐTVCCTTHC), Ban Chỉ đạo TW Phòng Chống Tham nhũng
(BCĐTWPCTN), Bộ Nội vụ, mà lại tham gia Tổ Tư vấn Kinh tế (TTVKT)?
Ở Việt nam hiện có nhiều cơ quan chuyên trách về HC&CT, và đều là các cơ quan phi-kinh tế
(ví dụ: Bộ Chính trị, Bộ Nội vụ, BCĐTWPCTN, HĐTVCCTTHC, Ban Chỉ đạo Cải cách Hành
chính, Học viện Chính trị & Hành chính Quốc gia). Các vấn đề về tham Nhũng và Minh Bạch
cũng thuộc trách nhiệm của các cơ quan HC&CT.
- Kiến thức, thâm niên làm việc, sở trường nghiên cứu, và đề xuất của 2 tiến sỹ chính sách
công đều chỉ phù hợp làm tư vấn HC&CT. Cả hai rất thiếu kinh nghiệm thực tiễn ở Việt nam,
rất cần trao đổi đề xuất với các chuyên gia về hành chính & chính trị để điều chỉnh các đề xuất
cho phù hợp với hoàn cảnh Việt nam. Các chuyên gia đó mới là những người cần nghe họ nói.
- Các nhà kinh tế trong Tổ Tư vấn Kinh tế không có kiến thức, kinh nghiệm gì về HC&CT để
góp ý cho họ. Họ chỉ cần giải quyết các vấn đề kinh tế trọng điểm là đã quá nhiều việc.
- Nhiều vấn đề về HC&CT (ví dụ các vấn đề quan trọng liên quan đến tham nhũng và minh
bạch, nâng cao năng lực cán bộ về hành chính công) thuộc trách nhiệm, sự giám sát chặt chẽ
của các cơ quan Đảng chứ không phải bên chính quyền (Thủ tướng) cho nên tư vấn ngoại chỉ
12 https://www.nguyenduckhuong.org/ 13 http://www.baodoi.com/tintuc/kinh-doanh/De-xuat-dau-tien-cua-To-tu-van-kinh-te-toi-Thu-tuong-zwNWY.html 14 http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/doanh-nhan/chan-dung-to-tu-van-kinh-te-cua-thu-tuong-387391.html 15
https://tuoitre.vn/to-tu-van-kinh-te-cua-thu-tuong-y-chi-den-dau-ke-sach-den-do-1362787.htm
7
cần làm việc trực tiếp với các cơ quan chuyên trách là đủ. Thủ tướng chỉ cần các cơ quan này
báo cáo để biết thông tin chứ không cần gặp gỡ, thảo luận với Tư vấn hải ngoại.
- Rõ ràng là để cho 2 tiến sỹ chính sách công tham gia Tổ Tư vấn kinh tế sẽ rất kém hiệu
quả so với tư vấn cho HĐTVCCTTHC, BCĐTWPCTN hay Bộ Nội vụ.
- Tương tự đối với trường hợp Trần Văn Thọ: chỉ nên làm tư vấn cho Bộ Ngoại giao,
Viện nghiên cứu Đông Bắc Á, Viện nghiên cứu Quốc tế, Trường KHXH&NV.
- Quan trọng hơn cả: không thể để 2 vị chính sách công và ông Trần Văn Thọ lạm dụng
chức danh “Tư vấn Kinh tế cho Thủ tướng” mà họ không xứng đáng.
6. Một số trường hợp để so sánh:
2 ông chính sách công không thể so sánh với Sheila Olmstead và Joel Zinberg của CEA
thời Obama và Trump, bởi CEA không có Nhóm hải ngoại, và Olmstead và Zinberg đều chỉ là
chuyên gia cao cấp hỗ trợ 3 thành viên hội đồng chứ không được trọng vọng như Nhóm hải
ngoại trong Tổ tư vấn. Các lĩnh vực họ hỗ trợ đều là lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng điểm của
Hoa kỳ, và phi chính trị. Olmstead và Zinberg đều là người “trong nước”, sống và làm việc ở
Hoa kỳ, am hiểu sâu sắc thực tiễn ở Hoa kỳ và đều có những nghiên cứu chất lượng rất cao. Họ
không nhất thiết phải trao đổi với ai khác ở “trong nước” để đảm bảo chất lượng các đề xuất
bởi chính họ đang sống ở Hoa kỳ. Olmstead là tiến sỹ chính sách công nhưng đã có 8 năm làm
việc trong ngành kinh tế. Bà hỗ trợ 3 thành viên hội đồng về Kinh tế Tài nguyên Môi trường, còn
Zinberg là tiến sỹ luật hỗ trợ 3 thành viên hội đồng về lĩnh vực Kinh tế Sức khỏe.
PGS Kinh tế Đỗ Quốc Anh là người có sở trường nghiên cứu (Kinh tế Chính trị, tập trung
vào tham nhũng, minh bạch chính phủ, đạo đức kinh doanh) giống ông Trần Ngọc Anh,
nhưng năng lực vượt xa cả hai vị chính sách công.16
(Kinh tế Chính trị và Hành chính công có
những mảng nghiên cứu giao thoa nhau). Tuy nhiên, theo giới kinh tế Việt nam, ông Quốc Anh
cũng chỉ phù hợp làm tư vấn kinh tế cho các cơ quan chuyên về chính trị & hành chính thay vì
Tổ Tư vấn Kinh tế cho Thủ tướng, bởi lĩnh vực sở trường giống Ngọc Anh. Ông Đỗ Quốc Anh là
nhà kinh tế gốc Việt xuất sắc: huy chương vàng toán quốc tế với điểm tuyệt đối 42/42, tốt nghiệp
tiến sỹ kinh tế Harvard, xuất bản trên các tạp chí hàng đầu của toàn ngành kinh tế, là giáo sư
của Khoa Kinh tế của Trường Khoa học và Chính trị Paris, có thâm niên làm việc trong ngành
kinh tế 9 năm và ở trưởng chính trị 3 năm, tốt nghiệp tiến sỹ trước ông Ngọc Anh.
7. Tiến sỹ Harvard cũng có dăm bảy loại. Chương trình tiến sỹ chính sách công của
trường hành chính công Kennedy-Harvard chú trọng tuyển chọn người có năng lực chính
trị, trong khi ngành kinh tế chú trọng tuyển chọn nghiên cứu sinh với năng lực học vấn,
năng lực nghiên cứu, và đặc biệt là năng lực toán học xuất sắc. Do cách tuyển chọn như vậy,
cho nên 2 tiến sỹ chính sách công trong Tổ tư vấn, tốt nghiệp từ trường Kennedy-Harvard, chưa
chắc đã có năng lực học vấn, năng lực nghiên cứu và năng lực toán học bằng các tiến sỹ kinh tế
của các trường xếp hạng thấp của Hoa kỳ và thế giới. Đã có nhiều đàm tiếu rằng các trường hành
chính công đánh bóng lý lịch, thành tích của những người họ đào tạo và tuyển dụng để họ thuận
lợi trong các hoạt động chính trị, gây ảnh hưởng lên các lãnh đạo quốc gia. Câu nói của ông Dale
Jorgenson về ông Vũ Minh Khương: “Một trong những nghiên cứu sinh Ph.D xuất sắc nhất của
16 Tất cả các ngành kinh tế ở Hoa kỳ đều học và thi các môn cơ bản giống nhau trong 2 năm đầu PhD. Sau đó ai
chọn nghiên cứu ngành gì thì mới bắt đầu chọn thầy hướng dẫn và đi sâu vào ngành đó.
8
Havard”17
là minh chứng về sự đánh bóng thiếu liêm sỷ của một giáo sư trường Kennedy-
Harvard. Có thể lý giải, những người như Jorgenson dối trá, điêu toa, bởi họ phải phục vụ sứ
mệnh chính trị của trường họ. Năng lực nghiên cứu yếu kém của ông Vũ Minh Khương còn thể
hiện ở chỗ mặc dù có nhiều bài báo viết chung với ông Jorgenson, thầy hướng dẫn của ông
Khương đồng thời là một nhà kinh tế nổi tiếng thế giới, tất cả các bài báo đó đều chỉ đăng được
trên các tạp chí chất lượng thấp, loại tạp chí không được sử dụng để tuyển giáo sư kinh tế ở các
trường nghiên cứu ở Hoa kỳ.18
Đại học Indiana, nơi ông Trần Ngọc Anh làm việc, có Trung tâm
Dân chủ Lập hiến, một tổ chức chính trị khét tiếng với một trong 3 mục tiêu chính là Thúc đẩy
Chính phủ Trách nhiệm, đã đưa Việt nam vào nhóm 5 quốc gia mục tiêu cùng với Nam Sudan,
Lybia, Miến điện, và Liberia.19
Năng lực học vấn của ông Ngọc Anh chỉ ở mức xoàng (căn cứ
trên CV công khai của trường SPEA, Indiana nơi ông ta làm việc), do bằng thạc sỹ ở Úc của ông
ta không được loại distinction (hạng cao nhất là high distinction). Nếu xin học tiến sỹ kinh tế
thay vì học tiến sỹ chính sách công, tương lai của ông Ngọc Anh rất mờ mịt bởi ngay cả các
khoa kinh tế hạng thấp của thế giới cũng có nhiều người tốt nghiệp thạc sỹ hạng distinction. Với
năng lực học vấn như vậy, lại không được đào tạo bài bản nghiên cứu kinh tế, không có kinh
nghiệm làm việc ở các trường kinh tế thì không hiểu ông Ngọc Anh có thể tư vấn cái gì?
8. Thủ tướng hãy cảnh giác: các trường hành chính công của tây không hề quan tâm đến
phát triển kinh tế Việt nam mà chỉ muốn đào tạo lãnh đạo, cài cắm người vào các cơ quan
quan trọng, để gây ảnh hưởng chính trị lên Việt nam vì lợi ích nước họ. Một số ví dụ: trong
khi các trường kinh tế của Việt nam rất khó hợp tác với các khoa kinh tế/trường kinh doanh hàng
đầu của Hoa kỳ bởi khoa học kinh tế của Việt nam còn rất kém không khiến họ quan tâm, trường
Hành chính công Kennedy-Harvard đã ve vãn Đại học Kinh tế TP HCM từ năm 1994 để sinh ra
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, nhưng rồi sau 20 năm, dần dần “treo đầu dê, bán thịt
chó”, biến nó thành chương trình giảng dạy và nghiên cứu chính sách công.20
Điều đó thể hiện
họ không hề thực tâm muốn phát triển kinh tế Việt nam. Trường hành chính công SPEA-Indiana
(nơi Trần Ngọc Anh làm việc) cũng có Chương trình đào tạo Lãnh đạo Trẻ riêng cho Việt nam,
cấp một phần học bổng. Hình như kịch bản “treo đầu kinh tế, bán thịt hành chính & chính trị”
đang lặp lại với Tổ tư vấn Kinh tế bởi 2 tiến sỹ chính sách công tốt nghiệp từ trường Kennedy,
Harvard?? (Xem thêm chương X của để hiểu thái độ của Hoa kỳ đối với Việt nam).
9. Chừng ấy lý do là quá đủ để cần giải tán ngay nhóm 4 học giả hải ngoại này. Số lượng
các vấn đề kinh tế vĩ mô trọng điểm rất nhiều, rất phức tạp, và cấp thiết, đòi hỏi nhiều thời
gian thảo luận. Tổ Tư vấn Kinh tế cần những người có chuyên môn sâu góp ý, chứ không
cần những kẻ không biết gì, đọc tài liệu vài ngày rồi chém gió, hoặc lảm nhảm những thứ
không phải là kinh tế, thậm chí có thể phục vụ mưu đồ chính trị của ngoại bang. Nhóm hải
ngoại giữ vị trí đặc biệt đối với công chúng, trong khi 2 nhà kinh tế giả cầy mới chỉ “nghe hơi
nồi chõ” về kinh tế, không đủ tư cách đại diện cho giới kinh tế gốc Việt. Đừng để họ đem hành
chính & chính trị ra lừa chính phủ và công chúng đó là kinh tế.
17 http://cafef.vn/14-thanh-vien-to-tu-van-kinh-te-cua-thu-tuong-vua-duoc-thanh-lap-co-gi-dac-biet-
20170729012519897.chn 18
Các tạp chí kinh tế rất nể ông Jorgenson. Vậy nên những bài báo ông Khương có ông Jorgenson là đồng tác giả sẽ
dễ đăng hơn các bài báo của những người khác cùng chất lượng, hoặc thậm chí chất lượng cao hơn một chút. 19 http://ccd.indiana.edu/projects/ 20 Xem dòng cuối cùng của site này thì thấy rõ mặc dù mang tên Chương Trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright nhưng
đã biến thành Đào tạo và Nghiên cứu Chính sách Công. http://www.fetp.edu.vn/
9
10. Việt nam và Hoa kỳ đều có các cơ quan chuyên trách về hành chính & chính trị
(HC&CT). Không thể ghép HC&CT vào Tổ Tư vấn kinh tế, bởi các nhà kinh tế của Tổ Tư vấn
không có kiến thức lẫn kinh nghiệm thực tiễn về HC&CT, kinh nghiệm đối phó với các mưu đồ
chính trị ngoại bang như các cơ quan chuyên về HC&CT, và khối lượng các vấn đề kinh tế trọng
điểm cần tư vấn đã quá nhiều. Hơn nữa, HC&CT là lĩnh vực nhạy cảm, cần các cơ quan chuyên
trách về HC&CT giám sát để đảm bảo các mục tiêu chính trị và quan điểm tổ chức bộ máy hành
chính của Đảng. Tổng thống Hoa kỳ có nhiều cố vấn chính trị, nhưng không thuộc CEA.
11. Đã đến lúc cần chấm dứt sự can thiệp của các trường hành chính công (Kennedy-
Harvard, SPEA-Indiana, Lý Quang Diệu) vào ngành kinh tế Việt nam. Tổ tư vấn Kinh tế
cần kết nối với Khoa kinh tế của đại học Harvard, chứ không cần kết nối với Trường hành
chính công Kennedy, Harvard. Thực tế, số giáo sư kinh tế quan tâm đến Việt nam của trường
Kennedy rất ít, không thể so sánh với cộng đồng kinh tế gốc Việt ở hải ngoại. Chất lượng nghiên
cứu kinh tế của trường Fulbright (trường được trường Kennedy đỡ đầu) rất kém, không thể so
sánh với nhiều trường đại học khác ở Việt nam. (Cần lưu ý rằng các tổ chức lớn trên thế giới
thuê tư vấn kinh tế đều dựa trên chất lượng nghiên cứu. Tất cả các thành viên hội đồng CEA và
các chuyên gia kinh tế cao cấp hỗ trợ hội đồng đều có các bài báo trên các tạp chí chất lượng rất
cao). Tốt hơn cả, chỉ nên thuê các trường này tư vấn về hành chính và chính trị.
12. Nhà nước cần giao cho các nhà kinh tế đích thực chủ trì mọi dự án nghiên cứu và tư
vấn kinh tế. Có người cho rằng Việt nam mang ơn các tác giả cuốn sách „Theo Hướng Rồng
Bay‟, bởi đó là một tài liệu về chiến lược được nhiều đời Thủ tướng Việt nam sử dụng21
. Tuy
nhiên, cũng thật mâu thuẫn khi người đó nói rằng Việt nam là “quốc gia không chịu phát triển”.
Thật ra, cả 3 tác giả của cuốn sách này đều là giáo sư tiến sỹ kinh tế và làm thuê cho trường
Kennedy, Harvard. (Các giáo sư chính sách công làm việc ở các trường hành chính công và giáo
sư khoa học xã hội không đủ trình độ để viết những tài liệu như vậy.) Cuốn sách đó cũng không
có gì đặc biệt và các nhà kinh tế gốc Việt hoàn toàn đủ khả năng soạn thảo những tài liệu như
vậy, nhưng các nguyên thủ quốc gia không biết điều đó. Mới đây nhất, Bộ Kế hoạch & Đầu tư
thuê ngân hàng thế giới chủ trì biên soạn tài liệu chiến lược phát triển „Báo cáo Việt nam 2035’
chứ không thuê trường Kennedy, Harvard là một hướng đi đúng đắn, tránh được sự can thiệp của
ngoại bang.22
Tuy nhiên, tư vấn chiến lược phát triển chỉ là một phẩn nhỏ trong công việc của Tổ
tư vấn kinh tế. Trước nay, nhiều nhà lãnh đạo Việt nam quá tin tưởng trường hành chính công
Kennedy-Harvard mà không biết rằng nhân sự kinh tế quan tâm đến Việt nam ở trường đó rất ít,
và đó không phải là trường kinh tế. Họ không hiểu được tiềm năng to lớn của cộng đồng các nhà
kinh tế gốc Việt ở hải ngoại. Đây là vấn đề nghiêm trọng cần phải thay đổi. (xem thêm chương
IX giải thích kỹ về chuyện này).
13. Quan trọng hơn cả, Thủ tướng nên để cho cộng đồng kinh tế gốc Việt ở hải ngoại tự lựa
chọn và giới thiệu những người đại diện cho họ trong Tổ Tư vấn Kinh tế. Cách làm có thể
tương tự như tuyển nhân sự cho CEA của Hoa kỳ (xem giải pháp chi tiết ở chương XII).
21 http://cafef.vn/chuyen-gia-pham-chi-lan-nguyen-thanh-vien-ban-nghien-cuu-cua-thu-tuong-noi-gi-ve-to-tu-van-
kinh-te-moi-thanh-lap-20170729125909475.chn 22 Có người nói rằng một số người ở trường Fulbright tham gia viết cuốn sách này. Thật ra bộ phận nghiên cứu kinh
tế của Worldbank chất lượng rất cao là đơn vị chủ trì. Tuy nhiên, khi họ thuê lại các cơ quan Việt nam viết các phần
riêng lẻ của Báo cáo thì nhiều khi dựa trên quen biết và lobby. Thế nên nhiều người có trình độ không đảm bảo của
các đơn vị thuê lại cũng tham gia viết.
10
Trước nay, cộng đồng các nhà kinh tế Việt nam cũng có lỗi một phần khi chưa quảng bá tích cực
cho các giá trị của ngành và cho các tài năng kinh tế đích thực, khiến cho cho các trường hành
chính công và các nhà kinh tế giả cầy, yếu kém cố tình nhập nhèm Kinh tế với Chính sách
công/Hành chính công hay Quốc tế học, đánh bóng, thổi phồng về năng lực tư vấn kinh tế của
họ. Việc đánh giá năng lực các thành viên Tổ Tư vấn Kinh tế đòi hỏi phải có kiến thức về nghiên
cứu hàn lâm. Thủ Tướng bận trăm công nghìn việc và có lẽ không có thời gian cho việc này. Tuy
nhiên, chúng tôi hi vọng Thủ tướng sẽ chỉ đạo các cố vấn về nhân sự hợp tác với các nhà kinh tế
đích thực, đáng tin cậy trong mọi vấn đề liên quan đến kinh tế. Cộng đồng kinh tế gốc Việt là
một nguồn cung cấp rất tốt các nhà kinh tế như vậy. (Phụ lục A của TÀI LIỆU BỔ SUNG có
Danh sách các Nhà Kinh tế gốc Việt Tiêu biểu cùng với địa chỉ liên hệ).
Kết luận: Tất cả các thành viên hải ngoại của Tổ Tư vấn Kinh tế phải là những nhà kinh tế đích
thực và uyên bác. Trường hợp bất đắc dĩ, hiếm hoi phải mời những người thuộc các ngành nghề
khác tham gia vào Tổ tư vấn thì họ chỉ có thể giữ vai trò hỗ trợ cho các lĩnh vực kinh tế vỹ mô
trọng điểm và phải là những người đang làm việc lâu năm ở trong nước để đảm bảo đề xuất của
họ phù hợp ngay với thực tiễn Việt nam.
NHỮNG LUẬN ĐIỂM QUAN TRỌNG KHÁC
14. Nhà tư vấn kinh tế cấp quốc gia giỏi phải là nhà nghiên cứu giỏi, đồng thời phải có
chuyên môn về các vấn đề kinh tế vĩ mô trọng điểm của quốc gia. Nhà Tư Vấn Kinh Tế
Giỏi cấp Quốc Gia cũng đồng thời phải là Nhà Nghiên Cứu Kinh tế Giỏi, bởi lẽ mục tiêu tối
hậu của nghiên cứu kinh tế cũng là cung cấp những phân tích, thống kê, dự báo kinh tế với độ
chính xác cao nhất. Tư vấn kinh tế tầm quốc gia chủ yếu đòi hỏi khả năng hiểu và phân tích số
liệu vĩ mô, để từ đó đưa ra những khuyến nghị chính sách, đường lối và chiến lược. Số liệu, chỉ
tiêu, và dự báo kinh tế vĩ mô của Việt nam vốn nổi tiếng là không đáng tin cậy, nhưng các
nhà tư vấn kinh tế trước đây ít có khả năng khuyến nghị điều chỉnh bởi vì năng lực nghiên cứu
chưa đủ tốt. Nay Thủ tướng có thiện chí mời các học giả hải ngoại thì cần mời những người
xứng đáng nhất, đủ năng lực để giải quyết các vấn đề đó, đưa chất lượng tư vấn gần với chuẩn
quốc tế, chứ không nên mời những người chỉ giỏi chính trị hay quan hệ trong khi không biết gì
về lĩnh vực mà họ cần tư vấn hoặc chất lượng yếu kém. Thậm chí lựa chọn họ còn đem lại sự
nguy hiểm, bởi họ có thể thuyết phục chính phủ tin vào những kết quả không chính xác, những
hiểu biết sai của họ, hoặc diễn giải kết quả để phục vụ mục tiêu chính trị của ngoại bang. Các
thành viên hội đồng CEA và các chuyên gia kinh tế cao cấp của CEA đều hỗ trợ các lĩnh
vực kinh tế vĩ mô trọng điểm của Hoa kỳ.
15. Tổ Tư vấn Kinh tế cho Thủ tướng cần các nhà kinh tế đích thực để đảm bảo chất lượng
tư vấn kinh tế và kết nối với ngành kinh tế thế giới, không cần các tiến sỹ chính sách công.
Ở Hoa kỳ, các học giả chính sách công luôn có năng lực chính trị, kinh nghiệm thực tiễn (tư vấn
dự án, làm việc bán thời gian cho các tổ chức), kinh nghiệm lãnh đạo nhiều hơn các nhà kinh tế,
bởi lẽ ngay từ khi tuyển nghiên cứu sinh, trong quá trình học tập và công tác, ngành này luôn
luôn khuyến khích các kỹ năng đó. Các năng lực chính trị được họ đánh giá cao. Trong khi đó,
ngành kinh tế chỉ ưu tiên khuyến khích những người có năng lực toán học, năng lực học vấn, và
năng lực nghiên cứu. Thế nhưng, Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Tổng thống Hoa kỳ (CEA) luôn
luôn có 3 thành viên đều là các tiến sỹ nhóm ngành kinh tế và thâm niên làm việc trong ngành
11
kinh tế chứ không cần các ngành khác. (Các chuyên gia cao cấp trong CEA chỉ làm nhiệm vụ hỗ
trợ cho họ và tuyệt đại đa số cũng là tiến sỹ nhóm ngành kinh tế hoặc có thâm niên làm việc
trong ngành kinh tế). Khoa học Kinh tế Việt nam còn kém thế giới khá xa. Tổ tư vấn kinh tế
của Thủ tướng cần mời các nhà kinh tế hải ngoại tài năng để đảm bảo đó là Tổ Tư vấn
uyên thâm về kinh tế và đảm bảo kết nối với giới kinh tế quốc tế để cập nhật những tiến bộ
mới nhất. (Các tiến sỹ chính sách công chỉ nên tư vấn cho các cơ quan chuyên trách về
hành chính và chính trị.)
16. Chất lượng trung bình của giới kinh tế gốc Việt hải ngoại vẫn kém thế giới khá xa. Việc
không lựa chọn những người tài năng nhất vào Tổ tư vấn chỉ khiến chất lượng tư vấn càng
không được đảm bảo. Không hiểu 02 vị chính sách công làm việc ở trường hành chính công
(nghĩa là “nghe hơi nồi chõ” về kinh tế), 01 vị giáo sư Quốc tế học không biết nghiên cứu kinh
tế, và 01 nhà kinh tế đẳng cấp Đông-Nam-Á sẽ tư vấn Thủ tướng cái gì??
17. Ghế Tư vấn Kinh tế không phải là thứ để “dây máu ăn phần”. Ngành chính sách
công/hành chính công rất khuyến khích các học giả hoạt động chính trị, thể hiện tinh thần lãnh
đạo. Thế nên nhiều vị chính sách công hăng say hoạt động chính trị, xông vào cả những nơi mà
họ rất kém, thậm chí không biết gì, để tạo ảnh hưởng chính trị. Họ hợp tác, hỗ trợ các cơ quan
Việt nam vì miếng ăn chứ không chắc vì muốn giúp đỡ vô tư. Trần Ngọc Anh có nhiều hoạt
động hỗ trợ tuyển chọn và đào tạo lãnh đạo cho Việt nam, tổ chức nhiều hội nhóm, sáng kiến,
mạng lưới (cho dù mang tính hình thức), và tham gia nhiều tổ chức, hội nhóm. Vũ Minh Khương
hăng say viết nhiều đề xuất về cải cách hành chính, chính trị. Tuy nhiên, tất cả các hoạt động
đó không thể bù đắp cho những yếu kém của họ trong lĩnh vực kinh tế. Lựa chọn họ là
“dựa theo quan hệ và cống hiến phi-học thuật chứ không theo tài năng.” Dư luận còn đồn
đại có sự “can thiệp” của các trường hành chính công trong giới thiệu người cho Tổ Tư vấn kinh
tế. Nếu đúng vậy thì thật dơ bẩn.23
18. Các nhà kinh tế gốc Việt tài năng mới là những người đóng góp nhiều nhất cho sự phát
triển của ngành kinh tế Việt nam. Có một quan niệm sai lầm rằng những người trước nay có
nhiều hỗ trợ, hợp tác nghiên cứu với các cơ quan Việt nam là những người đóng góp nhiều nhất
cho ngành kinh tế Việt nam. Thật ra, các khoa/trường kinh tế uy tín ở phương tây đòi hỏi chất
lượng nghiên cứu rất cao (ví dụ, chỉ chấp nhận các bài báo top field trở lên), khiến cho các nhà
kinh tế tài năng ở hải ngoại rất khó kiếm người trong nước đủ năng lực và phù hợp sở trường
chuyên môn để hợp tác nghiên cứu. Thế nên những học giả hải ngoại trong độ tuổi nghiên cứu
sung sức (khoảng 55 trở xuống) mà dành quá nhiều thời gian cho việc hợp tác, hỗ trợ nghiên cứu
với trong nước thì chỉ có thể là những nhà kinh tế chất lượng thấp, làm việc các trường kém uy
tín quốc tế, hoặc các vị chính sách công hăng say hoạt động chính trị để kiếm ăn.
Các nhà kinh tế tài năng (cho dù phần lớn thời gian làm việc ở nước ngoài) mới là những
người đóng góp nhiều nhất cho Việt nam, bởi họ nâng tầm ngành kinh tế và chất lượng tư
vấn của Việt nam lên tiệm cận với thế giới. Giống như Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn, Vũ
Hà Văn thời kỳ chưa được những giải thưởng lớn, những người này dành hầu hết thời gian tập
trung làm nghiên cứu ở nước ngoài. Giới kinh tế quốc tế biết đến ngành kinh tế Việt nam là nhờ
những nghiên cứu chất lượng rất cao và danh tiếng nơi họ làm việc, chứ không phải nhờ 4 vị
23 Chúng tôi nghĩ rằng Thủ tướng rất bận rộn nhiều việc, không tự lựa chọn các nhà Tư vấn. Nhưng các cố vấn nhân
sự của ông có lẽ đã bị các trường hành chính công này lừa, nếu như chuyện “can thiệp” đó là có thật.
12
này. Ngoài ra, có thể họ muốn giúp đỡ quốc gia nhưng chưa có cơ hội phù hợp. (Xem danh sách
các nhà kinh tế tiêu biểu trong Phụ lục A). Mặt khác, các giáo sư Lê Văn Cường, Trần Nam
Bình, và nhiều nhà kinh tế tài năng đã dành thời gian đáng kể hỗ trợ Việt nam, bao gồm
hợp tác nghiên cứu, hội thảo, tư vấn cho các cơ quan chính phủ v.v…Tuy nhiên có thể họ
chưa có cơ hội tiếp cận với văn phòng Thủ tướng, nên nhiều người không biết hoặc cố tình phủ
nhận những đóng góp của họ. Mạng IVANET có danh sách hơn 80 nhà kinh tế hải ngoại, trong
đó có nhiều nhà kinh tế tiêu biểu đẳng cấp thế giới đăng ký, và sẵn sàng hỗ trợ quốc gia, (xem
Phụ lục B). Vấn đề là ở chỗ, nhà nước cần tạo cơ hội để họ đóng góp cho quốc gia xứng tầm với
họ. Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng là một cơ hội như vậy. Ghi nhận những đóng góp của các
nhà kinh tế tài năng mới là hướng đi đảm bảo sự phát triển lành mạnh và bền vững của
khoa học kinh tế cũng như của nền kinh tế Việt nam.
19. Thành phần nhóm hải ngoại của Tổ Tư vấn Kinh tế như hiện nay là sự lừa đảo đối với
công chúng. Uy tín của nhóm hải ngoại trong Tổ tư vấn kinh tế thậm chí còn cao hơn 11 người
trong nước, bởi công chúng kỳ vọng họ đem đến những tiến bộ mới nhất của ngành kinh tế thế
giới. Tuy nhiên, chất lượng của 4 vị hải ngoại như hiện nay là sự lừa đảo đối với công chúng.
Cũng cần nhắc lại, 3 thành viên CEA của Hoa kỳ đều có bằng tiến sỹ thuộc nhóm ngành kinh tế
từ các trường danh tiếng và thâm niên làm việc trong ngành kinh tế. Những người khác trong
CEA đều ở vị thế thấp hơn, chỉ hỗ trợ cho 3 thành viên hội đồng.
20. Kinh tế là một trong những ngành trụ cột của quốc gia. Nhà nước cần hỗ trợ để khoa
học kinh tế phát triển lành mạnh, theo chuẩn quốc tế. Trước nay, nhà nước luôn luôn tạo điều
kiện để các nhà toán học, nhà vật lý gốc Việt tài năng nhất được lắng nghe và có ảnh hưởng nhất
trong xã hội. Các nhà kinh tế tài năng nhất cũng cần được như vậy. Cơ hội tuyên truyền cho
các nhà kinh tế gốc Việt tài năng vốn ít ỏi. Thời gian vừa qua, hình ảnh 4 nhà kinh tế giả
cầy và chất lượng thấp tràn ngập báo chí với tư cách Tư vấn Kinh tế cho Thủ tướng là điều
vô cùng phản cảm, và là một hình thức phá hoại ngành kinh tế.
21. Tổ Tư vấn Kinh tế chỉ cần tập trung giải quyết các vấn đề kinh tế vĩ mô trọng điểm của
quốc gia, không cần và không có khả năng giải quyết nhu cầu tư vấn đa dạng thuộc nhiều
lĩnh vực khác nhau.24
Thủ tướng có Hội Đồng Tư vấn Cải cách Thủ tục Hành chính (nơi tập
trung các chuyên gia nhiều kiến thức và kinh nghiệm chuyên về Thủ tục Hành chính) và Ban
Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Tư nhân (bao gồm 6 doanh nhân thành đạt và giàu kinh nghiệm
phát triển kinh tế tư nhân). Tổ Tư vấn Kinh tế cũng vậy, chỉ tập trung các chuyên gia giỏi về các
vấn đề kinh tế vĩ mô trọng điểm của Việt nam. Như vậy đã là quá nhiều việc để làm. Tổ Tư vấn
Kinh tế có thể thu thập thêm ý kiến của các chuyên gia khác nhưng chỉ nhằm mục đích giải quyết
các vấn đề kinh tế vĩ mô trọng điểm, và không có khả năng giải quyết các lĩnh vực khác.
22. Ý tưởng phát triển mạng lưới chuyên gia kinh tế với 4 nhà kinh tế giả cầy và chất lượng
thấp làm hạt nhân, trong khi các nhà kinh tế tài năng làm vệ tinh25
không những là ý tưởng
tồi mà còn là sự xúc phạm, thiếu hiểu biết về sự tự tôn của các chuyên gia trình độ cao. 04 học
giả hải ngoại này không thể so sánh với giáo sư Trần Thanh Vân ngành Vật lý bởi giáo sư Vân
24 Bà Phạm Chi Lan hy vọng các thành viên của tổ tư vấn này là hạt nhân và sẽ "hình thành được môt mạng lưới
rông rãi hơn" để thu hút sự đóng góp ý kiến của các chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau của xã hôi.
https://ngocduonglc.blogspot.fr/2017/08/5447-bbc-to-tu-van-cua-thu-tuong-vn-la.html 25
https://ngocduonglc.blogspot.fr/2017/08/5447-bbc-to-tu-van-cua-thu-tuong-vn-la.html
13
vừa giỏi ngoại giao vừa khiêm tốn, biết tôn vinh những người giỏi hơn mình làm hạt nhân mạng
lưới vì lợi ích của ngành Vật lý, trong khi 4 vị này chiếm ghế Tổ tư vấn của nhiều người giỏi hơn
họ. Hơn nữa, các nhà kinh tế không bao giờ chấp nhận một mạng lưới kinh tế mà các tiến sỹ
chính sách công lại là hạt nhân26
. (Chương VIII của TÀI LIỆU BỔ SUNG giải thích vì sao
không nên bị các hội nhóm, mạng lưới, sáng kiến hình thức, giả tạo của các vị này lòe bịp).
23. Lợi ích đối với riêng Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: Nhóm ngành kinh tế là một trong
những nhóm ngành lớn nhất Việt nam. Việc xúc phạm cộng đồng kinh tế Việt nam chắc chắn
không đem lại điều gì tốt đẹp cho danh tiếng của Thủ tướng, và bản thân Thủ tướng cũng sẽ
không thu được thông tin gì hữu ích cho công việc từ Nhóm hải ngoại yếu kém như vậy.
24. Thủ tướng nên giải tán ngay 4 người này để nhường ghế cho các nhà kinh tế tài năng và
có chuyên môn sâu về những vấn đề kinh tế vĩ mô trọng điểm của quốc gia. Thủ tướng có
thể giới thiệu hai ông Trần Ngọc Anh và Vũ Minh Khương làm tư vấn cho các cơ quan chuyên
trách về hành chính và chính trị (HC&CT) bởi đó là vị trí phù hợp nhất với họ. (Tư vấn HC&CT
cũng phải am hiểu đôi chút về kinh tế.) Như vậy cũng đỡ lãng phí nguồn nhân lực, bởi Việt nam
đang rất thiếu chuyên gia cao cấp về HC&CT, trong khi chuyên gia kinh tế khá đông và giỏi hơn
họ nhiều. Điều đó cũng phù hợp nhất với họ bởi họ tham dự họp Tổ Tư vấn Kinh tế nhưng chỉ đê
xuất về cải cách HC&CT. Đó cũng là mục đích chính của các trường hành chính công đã đào tạo
và tuyển dụng họ. Thủ tướng có thể giới thiệu ông Trần Văn Thọ làm tư vấn cho các cơ quan liên
quan đến Châu Á, Quan hệ Quốc tế, và bố trí cho ông Nguyễn Đức Khương làm tư vấn kinh tế
cấp tỉnh/thành phố, thay vì cấp Thủ tướng bởi có nhiều người khác giỏi hơn.
Trên đây là những luận điểm cơ bản nhất trong Thư ngỏ của chúng tôi. Diễn giải chi tiết hơn về
các luận điểm này có thể xem trong TÀI LIỆU BỔ SUNG CHO CÁC LUẬN ĐIỂM gửi kèm
theo Thư ngỏ này. Trợ lý của Thủ tướng cũng có thể liên hệ với Các nhà Kinh tế Tiêu biểu gốc
Việt (xem danh sách trong phụ lục A của TÀI LIỆU BỔ SUNG). Kính mong Thủ tướng xem
xét và đưa ra những quyết định sáng suốt.
Cuối cùng, chúng tôi kính chúc Thủ tướng gặt hái được nhiều thành công trên cương vị của mình
và đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế cũng như khoa học kinh tế Việt nam.
Chúng tôi rất hi vọng rằng Thủ tướng, Chính phủ và cộng đồng các nhà kinh tế Việt nam sẽ cùng
nỗ lực xây dựng một mối quan hệ tốt đẹp, để cộng đồng có thể đóng góp hiệu quả vào sự phát
triển của nền kinh tế nước nhà.
Kính thư,
Đại diện cho nhóm soạn thảo Thư ngỏ
XXXXXX
26 Trần Ngọc Anh tham gia ban lãnh đạo của 1 mạng ISVE do sai lầm của người mời là 1 giáo sư toán học chứ
không phải 1 nhà kinh tế gốc gác, và mạng đó có số lượng rất đông người trong nước tham gia, không am hiểu gì
mấy về khu vực hàn lâm ở nước ngoài, nhưng cũng bị tẩy chay dữ dội.
TÀI LIỆU BỔ SUNG
CHO THƯ NGỎ GỬI CHO THỦ TƯỚNG
MỤC LỤC
BẢNG MÔ TẢ TÓM TẮT 4 NHÀ TƯ VẤN HẢI NGOẠI .................................................................................. 3
I. TỔ TƯ VẤN KINH TẾ CẦN LỰA CHỌN CÁC NHÀ KINH TẾ ĐÍCH THỰC VÀ CÓ CHUYÊN MÔN SÂU VỀ
CÁC LĨNH VỰC KINH TẾ VỸ MÔ TRỌNG ĐIỂM ........................................................................................... 5
1.1. Quan niệm về nhà kinh tế đích thực ......................................................................................... 5
1.2. Tất cả thành viên Hội đồng Cố Vấn Kinh tế của Tổng thống Hoa kz (CEA) xưa nay đều uyên bác về
kinh tế. Các cố vấn chính trị của Tổng thống không thuộc CEA ............................................................. 6
1.3. Ở Việt nam, các lĩnh vực hành chính, chính trị do các cơ quan phi-kinh tế phụ trách ................ 8
II. KHÁI NIỆM TƯ VẤN KINH TẾ CHO THỦ TƯỚNG ................................................................................ 9
2.1. Tư vấn giỏi cấp quốc gia phải là nhà nghiên cứu giỏi và có chuyên môn sâu về các lĩnh vực kinh
tế vĩ mô trọng điểm của quốc gia ......................................................................................................... 9
2.2. Những ngộ nhận về Tư vấn kinh tế cho Thủ tướng ................................................................. 10
III. TƯ VẤN KINH TẾ GIỎI CẤP QUỐC GIA PHẢI LÀ NHÀ NGHIÊN CỨU KINH TẾ GIỎI ......................... 12
3.1. Khái niệm nhà nghiên cứu kinh tế giỏi .................................................................................... 12
3.2. Đánh giá năng lực nhà nghiên cứu kinh tế .............................................................................. 12
IV. CÁC LĨNH VỰC KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM ......................................................................................... 13
V. CHÍNH SÁCH CÔNG/HÀNH CHÍNH CÔNG KHÔNG THUỘC NHÓM NGÀNH KINH TẾ MÀ THUỘC NHÓM
NGÀNH CHÍNH TRỊ ................................................................................................................................. 14
5.1. Sự khác biệt giữa ngành chính sách công và ngành kinh tế ..................................................... 14
5.2. Các tiến sỹ kinh tế chủ trì và thực hiện mọi nghiên cứu chính sách, đường lối, chiến lược phát
triển liên quan đến kinh tế chứ không phải các tiến sỹ chính sách công ............................................. 17
5.3. Ngành kinh tế thế giới xung khắc với nhóm ngành chính trị và không công nhận các trường
hành chính công là các trường kinh tế ............................................................................................... 18
VI. BỐN NHÀ TƯ VẤN HẢI NGOẠI: KHÔNG CÓ CHUYÊN MÔN VỀ CÁC LĨNH VỰC KINH TẾ TRỌNG
ĐIỂM, CHẤT LƯỢNG KÉM, NGUY CƠ NGOẠI BANG THAO TÚNG ............................................................ 19
6.1. Hai nhà kinh tế giả cầy Vũ Minh Khương và Trần Ngọc Anh ......................................................... 20
6.2. Nhà Quốc tế học Trần Văn Thọ và nhà kinh tế đẳng cấp Đông-Nam-Á Nguyễn Đức Khương ........ 27
6.3. Nguy cơ bị ngoại bang thao túng ................................................................................................. 30
VII. NHỮNG ĐỀ XUẤT TỐI TĂM VÀ TRƠ TRẼN VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH VÀ CHÍNH TRỊ TRONG BUỔI
HỌP ĐẦU TIÊN CỦA TỔ TƯ VẤN KINH TẾ CỦA THỦ TƯỚNG ................................................................... 32
VIII. NẾU CẦN THIẾT, NÊN THÀNH LẬP MỘT TỔ TƯ VẤN CHÍNH TRỊ VÀ HÀNH CHÍNH RIÊNG ............. 37
2
IX. NHỮNG HẠT NHÂN KÉM VÀ VỤ LỢI KHÔNG THỂ SINH RA MẠNG LƯỚI TỐT ............................... 38
X. ĐÃ ĐẾN LÚC CẦN CHẤM DỨT SỰ CAN THIỆP CỦA CÁC TRƯỜNG HÀNH CHÍNH CÔNG (KENNEDY-
HARVARD, SPEA-INDIANA, LÝ QUANG DIỆU-NUS) VÀO NGÀNH KINH TẾ VIỆT NAM ................................ 41
10.1. Tổ Tư vấn Kinh tế cần kết nối với khoa kinh tế, đại học Harvard, chứ không cần kết nối với
trường hành chính công Kenneny, Harvard ........................................................................................ 41
10.2. Nước Mỹ chỉ quan tâm tạo ảnh hưởng chính trị lên Việt nam, không quan tâm phát triển khoa
học kỹ thuật (bao gồm khoa học kinh tế) của Việt nam. ..................................................................... 43
10.3. Số lượng chuyên gia kinh tế quan tâm đến Việt nam của trường Kennedy-Harvard rất ít. Chất
lượng nghiên cứu kinh tế của đại học Fulbright rất kém. .................................................................... 44
10.4. Nhà nước cần giao cho các nhà kinh tế đích thực chủ trì mọi dự án nghiên cứu và tư vấn kinh tế
.......................................................................................................................................................... 45
XI. LỰA CHỌN TỔ TƯ VẤN NHƯ HIỆN NAY LÀ SỰ PHÁ HOẠI NGÀNH KINH TẾ VIỆT NAM ................. 46
XII. GIẢI PHÁP CẢI TẠO TỔ TƯ VẤN KINH TẾ 2017 ............................................................................ 48
12.1 Thủ tướng nên để cho cộng đồng các nhà kinh tế gốc Việt ở hải ngoại tự lựa chọn và tiến cử
những người đại diện cho họ trong Tổ Tư vấn kinh tế ........................................................................ 48
12.2. Giải pháp cải tạo Tổ Tư vấn kinh tế............................................................................................ 48
XIII. KẾT LUẬN........................................................................................................................................ 51
PHỤ LỤC A: DANH SÁCH CÁC NHÀ KINH TẾ TIÊU BIỂU GỐC VIỆT Ở HẢI NGOẠI ....................................... 52
PHỤ LỤC B: DANH SÁCH CÁC NHÀ KINH TẾ GỐC VIỆT Ở HẢI NGOẠI TRÊN MẠNG IVANET ...................... 59
PHỤ LỤC C: BẰNG CHỨNG VỀ TRƯỜNG KENNEDY, HARVARD ................................................................ 63
3
BẢNG MÔ TẢ TÓM TẮT 4 NHÀ TƯ VẤN HẢI NGOẠI
“Thế giới đã phải chịu tổn thất rất lớn. Không phải vì sự bạo hành của những người xấu,
mà vì sự im lặng của những người tốt” - Napoleon Bonaparte –
“Yếu tố chính trị đang len lỏi vào nghiên cứu kinh tế, và dư luận lại đánh giá cao
các động tác giả mang tính chính trị.” - Robert Shiller, chủ nhân giải Nobel Kinh tế 201327
-
“Mù đi công tác. Lác lái máy bay. Cụt tay đào hầm. Câm gọi điện. Điếc nghe đài.” - Thơ của trẻ đồng dao –
Nhà kinh tế giả cầy Trần Ngọc Anh
- Thiếu hụt trầm trọng kiến thức kinh tế (bậc nghiên cứu) và kinh nghiệm làm việc trong
ngành kinh tế: do cả bằng tiến sỹ và nơi làm việc đều không phải là kinh tế. (Bằng tiến sỹ chính
sách công Kennedy, Harvard, làm việc ở trường hành chính công SPEA-Indiana.). Kiến thức,
phương pháp, thế giới quan đặc thù của nhóm ngành chính trị chứ không phải ngành kinh tế.
- Chỉ phù hợp làm tư vấn hành chính & chính trị cho các cơ quan phi-kinh tế (Ban Chỉ đạo
Phòng chống Tham nhũng, Bộ nội vụ, Bộ công an, Học viện Chính trị và Hành chính quốc
gia…), do lĩnh vực nghiên cứu sở trường là Tham nhũng, Minh bạch Chính phủ, Mạng Chính
trị, và mối quan hệ giữa Trốn thuế và Tham nhũng, và Thực thi Luật pháp.
- “Ngồi nhầm chỗ” trong Tổ tư vấn kinh tế: do sống và làm việc chủ yếu ở hải ngoại, rất thiếu
kinh nghiệm thực tiễn về Việt nam, cần trao đổi thường xuyên với các học giả đến từ các cơ
quan phi-kinh tế kể trên để điều chỉnh các đề xuất phù hợp với Việt nam, chứ không phải với các
nhà kinh tế trong Tổ tư vấn kinh tế. Bởi lẽ các nhà kinh tế không có kiến thức cũng như kinh
nghiệm về các lĩnh vực đó để có thể góp ý cho ông ta. Họ cũng ít mối quan hệ với các cơ quan
đó để có thể hỗ trợ xúc tiến các đề nghị của ông ta.28
Hơn nữa, đây là Tổ Tư vấn Kinh tế chứ
không phải Tổ Tư vấn Hành chính & Chính trị.
- Họp Tổ tư vấn kinh tế nhưng lại đề xuất về cải cách hành chính & chính trị.29
- Năng lực học vấn tầm thường: Tốt nghiệp thạc sỹ Úc không được distinction (cao nhất là
high distinction), theo thông tin trên CV đăng công khai trên website của trường SPEA-Indiana.
Nếu xin học tiến sỹ kinh tế (thay vì tiến sỹ chính sách công) thì không biết cuộc đời sẽ đi về đâu
vì các khoa kinh tế xếp hạng thấp của thế giới cũng có nhiều người được distinction.
- Khả năng kết nối, hội nhập với giới kinh tế quốc tế siêu kém. Ngành kinh tế thế giới không
hứng thú với những người không có bằng tiến sỹ kinh tế và không phục vụ trong ngành kinh tế.
- Nguy cơ ngoại bang thao túng nền kinh tế và khoa học kinh tế Việt nam thông qua nhân
vật này: do chính sách công/hành chính công có bản chất chính trị.
27 http://www.phantichkinhte123.com/2014/11/kinh-te-hoc-co-phai-la-mon-khoa-hoc-hay.html 28 Giáo sư Nguyễn Xuân Thắng trong Tổ tư vấn được giao làm giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia mới được 1
năm, là vị trí quản lý, tuy nhiên ông là tiến sỹ kinh tế và cả đời nghiên cứu kinh tế ở các cơ quan kinh tế. chứ không
có kiến thức gì đáng kể về chính trị để có thể góp ý cho ông Ngọc Anh. 29 Ông Trần Ngọc Anh đề xuất: “cần xây dựng bảng theo dõi thực hiện nhiệm vụ của bộ, ngành, địa phương, là công
cụ để “cân đo đong đếm” việc thực thi chính sách, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng”
4
- Đề nghị: Thủ tướng nên chuyển người này sang tư vấn cho Ban Chỉ Đạo TW Phòng Chống
Tham Nhũng (BCĐTWPCTN), Bộ Nội Vụ, Hội đồng Tư vấn Cải Cách Thủ tục Hành Chính
(HĐTVCCTTHC), Ban chỉ đạo Cải cách Hành chính (BCĐCCHC).
Nhà kinh tế giả cầy Vũ Minh Khương
- Thiếu hụt trầm trọng kiến thức kinh tế (bậc nghiên cứu) và kinh nghiệm làm việc trong
ngành kinh tế: do cả bằng tiến sỹ và nơi làm việc đều không phải là kinh tế. (Bằng tiến sỹ chính
sách công Kennedy, Harvard, làm việc ở trường hành chính công Lý Quang Diệu.) Kiến thức,
phương pháp, thế giới quan đặc thù của nhóm ngành chính trị chứ không phải ngành kinh tế.
- Chỉ phù hợp làm tư vấn hành chính & chính trị cho các cơ quan liên quan (Ban Chỉ đạo
Cải cách Hành chính, Bộ nội vụ, Bộ công an, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia…): do
nghiên cứu kinh tế rất kém, thua kém nhiều nhà kinh tế trong nước chứ chưa nói đến các học giả
hải ngoại, khó có khả năng được tuyển vào bất kỳ khoa kinh tế nào có đào tạo tiến sỹ của Hoa
kỳ được Bộ giáo dục Việt nam công nhận.
- Năng lực nghiên cứu kém: Nhiều bài báo viết chung với Dale Jorgenson nhưng đều chỉ xuất
bản trên các tạp chí không được sử dụng để xét tuyển giáo sư ở các trường nghiên cứu ở Hoa kỳ,
kể cả các trường không được xếp hạng.30
So sánh những nghiên cứu kinh tế của ông Khương với
các giáo sư kinh tế NUS (cùng trường, nhưng khác khoa ông ta) là sự hổ thẹn.
- “Ngồi nhầm chỗ” trong Tổ tư vấn kinh tế: lý do giống Trần Ngọc Anh.
- Họp Tổ tư vấn kinh tế nhưng lại đề xuất về cải cách hành chính & chính trị.31
- Lời khen dối trá, điêu toa: Dale Jorgenson nói về ông Vũ Minh Khương: “Một trong những
nghiên cứu sinh Ph.D xuất sắc nhất của Havard”. Có thể Jorgenson nỏi vậy vì ông ta là giáo sư
trường Kennedy, Harvard, một trường có bản chất chính trị, vốn có điều tiếng về đánh bóng hồ
sơ nghiên cứu sinh để họ dễ hoạt động chính trị và tạo ảnh hưởng chính trị lên yếu nhân.
- Khả năng kết nối, hội nhập với giới kinh tế quốc tế siêu kém. Ngành kinh tế thế giới không
hứng thú với những người không có bằng tiến sỹ kinh tế và không làm việc trong ngành kinh tế.
- Nguy cơ ngoại bang thao túng nền kinh tế và khoa học kinh tế Việt nam thông qua nhân
vật này: do chính sách công/hành chính công có bản chất chính trị.
- Đề nghị: Thủ tướng nên chuyển người này sang tư vấn cho HĐTVCCTTHC, BCĐCCHC, Bộ
Nội Vụ, BCĐTWPCTN.
Nhà Quốc tế học Trần Văn Thọ
- Không biết nghiên cứu kinh tế: tiến sỹ kinh tế nhưng không làm việc ở trường Kinh tế hay
trường Thương mại của đại học Waseda, mà làm việc ở trường Khoa học Xã hội của đại học
Waseda, Nhật bản (trường này tương tự như trường KHXH&NV của Đại học Quốc gia Hà nội),
sở trường nghiên cứu là Châu Á và Việt nam. Không có bài báo nào trên các tạp chí kinh tế uy
tín quốc tế. (Ông Thọ có xuất bản một số sách. Tuy nhiên ngành kinh tế thế giới chỉ đánh giá
năng lực nhà kinh tế thông qua xuất bản bài báo chứ không quan tâm đến xuất bản sách.) Thậm
chí không đạt tiêu chuẩn mới về phó giáo sư kinh tế của Việt nam.
- Tin đồn không chính xác: Từ năm 1990 (nghĩa là 3 năm trước khi tốt nghiệp tiến sỹ kinh tế)
30 Jorgenson, thầy hướng dẫn của Vũ Minh Khương, là nhà kinh tế nổi tiếng của thế giới và các tòa báo rất nể ông
ta. Có ông ta là đồng tác giả thì bài báo sẽ dễ được đăng hơn bài báo của những người khác có chất lượng bằng hoặc
thậm chí cao hơn một chút. Vậy mà những bài báo của ông Khương vẫn chỉ có thể đăng trên các tạp chí chất lượng
thấp, không dùng để xét tuyển giáo sư kinh tế ở các trường nghiên cứu của Hoa kỳ (kế cả các trường không xếp hạng). 31 Ông Vũ Minh Khương nói: “Việt Nam cần khai thác công nghệ số để minh bạch thông tin về nhu cầu và hiệu quả
các dự án đầu tư công, chất lượng công tác của cán bộ - cơ quan chính quyền, sở hữu tài sản và nộp thuế của quan
chức”, “Mục tiêu và là động lực đầu tiên để chúng ta có đủ quả cảm, mạnh dạn cải cách, đó là tiệt trừ tham nhũng và
trọng dụng nhân tài”
5
đã là 1 trong 3 người nước ngoài là thành viên trong Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Nhật bản.
(Xem lý giải về nghi vấn là tư vấn về Quốc tế học chứ không phải Kinh tế ở chương VI).
- Khả năng kết nối hội nhập với giới kinh tế quốc tế siêu kém. Ngành kinh tế thế giới không
quan tâm đến những người không biết nghiên cứu kinh tế.
- Đề nghị: Thủ tướng nên chuyển người này sang tư vấn cho Bộ Ngoại Giao, Viện Nghiên cứu
Đông Bắc Á, Viện Nghiên cứu Quốc tế và Đối ngoại, Trường đại học KHXH&NV.
Nhà kinh tế tiêu biểu Đông-Nam-Á Nguyễn Đức Khương
- Nơi tốt nghiệp tiến sỹ kinh tế, nơi làm việc đều ít uy tín. Chất lượng nghiên cứu mới chỉ
đạt chuẩn tiêu biểu Đông-Nam-Á và châu Phi: chưa đạt đẳng cấp các khu vực có khoa học
kinh tế phát triển, ví dụ các trường danh tiếng châu Á, Âu, Úc, và top 120 của Hoa kỳ.
- Xếp hạng REPECT: Bảng xếp hạng này không được sử dụng trong các công việc quan trọng
như tuyển giáo sư, cấp biên chế, và nâng bậc giáo sư ở các trường uy tín khá trên thế giới.
- Khả năng kết nối hội nhập với giới kinh tế quốc tế kém. Chất lượng nghiên cứu không cao
khiến cho ngành kinh tế thế giới không nể trọng.
- Đề nghị: Thủ tướng nên chuyển người này sang tư vấn kinh tế cho các cơ quan cấp tỉnh, thành
phố, thay vì cấp Thủ tướng.
I. TỔ TƯ VẤN KINH TẾ CẦN LỰA CHỌN CÁC NHÀ KINH TẾ
ĐÍCH THỰC VÀ CÓ CHUYÊN MÔN SÂU VỀ CÁC LĨNH
VỰC KINH TẾ VỸ MÔ TRỌNG ĐIỂM
1.1. Quan niệm về nhà kinh tế đích thực
Nhà kinh tế đích thực: là những người có bằng tiến sỹ thuộc khối ngành kinh tế hoặc có
thâm niên làm nghiên cứu ở các cơ sở nghiên cứu kinh tế uy tín. Điều đó rằng đảm bảo họ
am hiểu sâu sắc về các đặc trưng của ngành kinh tế (thế giới quan, kiến thức, phương pháp, văn
hóa, giá trị, đạo đức…của ngành) và có quan hệ gắn bó mật thiết với giới kinh tế quốc tế.
Khái niệm nhà kinh tế đích thực còn quan trọng ở chỗ những thành công/thất bại của người
như vậy gắn liền với ngành kinh tế, bởi ngành kinh tế đã đào tạo họ hoặc huấn luyện họ trong
thời gian họ phục vụ trong ngành. Cũng giống như các ngành khác, ngành kinh tế có sự tự tôn
nghề nghiệp và bảo tồn các đặc trưng. Chỉ những người đảm bảo duy trì và phát huy được những
đặc trưng ấy mới đáng gọi là nhà kinh tế đích thực.
Lấy ví dụ, Hiệp hội Kinh tế Hoa kỳ (ASA) là hiệp hội kinh tế quan trọng nhất thế giới, với hơn
70% giải Nobel kinh tế của thế giới thuộc về các thành viên của hội. ASA không bao giờ để cho
ai vừa không có bằng tiến sỹ kinh tế vừa không làm việc trong ngành kinh tế (nghĩa là không làm
6
việc ở các khoa/viện/trường kinh tế uy tín thế giới) chui vào Ban điều hành của Hiệp hội, (kể cả
những người Mỹ thuộc các ngành khác từng được giải Nobel kinh tế như ông Kahneman, ông
Nash, bà Ostrom.).
Một ví dụ khác, khi bà Ostrom, một nhà khoa học chính trị làm việc ở trường hành chính công
SPEA, đại học Indiana đoạt giải Nobel Kinh tế năm 2009, giáo sư kinh tế Levitt, chủ nhân của
huy chương Clark viết: “Câu trả lời ngắn gọn là ngành kinh tế ghét giải thưởng cho Ostrom còn
hơn cả dân Cộng hòa ghét giải Nobel Hòa bình cho Obama. Các nhà kinh tế muốn đó là giải
thưởng cho các nhà kinh tế”. Trên thực tế, giới nghiên cứu kinh tế không gọi bà Ostrom là nhà
kinh tế trên các văn bản chính thức mà chỉ gọi là phụ nữ đầu tiên đoạt giải Nobel. Điều đó mang
một số ý nghĩa: (i) Thành công của bà Ostrom không thể che lấp những bê bối trong ngành chính
trị của bà (một số người của các ngành khác cũng được giải Nobel Kinh tế nhưng không gây ra
phản ứng dữ dội như bà Ostrom năm 2009); (ii) Bà Ostrom không được giới kinh tế quốc tế công
nhận là nhà kinh tế (đích thực), mặc dù bà này có nhiều bài báo chất lượng cao trên các tạp chí
kinh tế; (iii) Trường hành chính công SPEA-Indiana không được giới kinh tế công nhận là một
trường kinh tế. Ủy ban xét duyệt giải Nobel kinh tế có nhiều người của các ngành khác cho nên
một số người thuộc những ngành ngoài kinh tế được giải. Tuy nhiên, huy chương Clack, giải
thưởng quan trọng thứ 2 của ngành kinh tế thế giới, do Hiệp hội Kinh tế Hoa kỳ phụ trách, luôn
luôn chỉ trao cho các nhà kinh tế đích thực.
Chỉ có các cơ quan không ngoài khu vực hàn lâm và những người không thuộc giới nghiên cứu
kinh tế gọi bà Ostrom là nhà kinh tế một cách nôm na.
Những điều này cho thấy những người không phải là nhà kinh tế đích thực sẽ rất khó có
mối quan hệ gắn bó với giới kinh tế quốc tế.
1.2. Tất cả thành viên Hội đồng Cố Vấn Kinh tế của Tổng thống Hoa kỳ (CEA)
xưa nay đều uyên bác về kinh tế. Các cố vấn chính trị của Tổng thống không
thuộc CEA
CEA là một tổ chức tương tự như Tổ tư vấn Kinh tế cho Thủ tướng của Việt nam.32
Xưa
nay CEA luôn có ít nhất 3 thành viên cho mỗi nhiệm kỳ tổng thống. Tất cả các thành viên
của hội đồng từ năm 1954 đến nay luôn luôn là những người có bằng tiến sỹ nhóm ngành
kinh tế (kinh tế, kinh doanh, quản lý33
) từ các trường danh tiếng đồng thời có thâm niên
nhiều năm làm việc ở các khoa kinh tế, trường kinh doanh có uy tín cao. Chủ tịch CEA xưa
nay luôn luôn là các tiến sỹ nhóm ngành kinh tế tốt nghiệp từ các trường danh tiếng ở Hoa kỳ và
là giáo sư kinh tế hàng đầu của Hoa kỳ, thậm chí một số người đã được giải hoặc vào danh sách
ngắn giải Nobel kinh tế. Những điều này đảm bảo các thành viên CEA đều có hiểu biết uyên
thâm về kinh tế và đảm bảo CEA là Hội đồng Tư vấn về KINH TẾ chứ không phải Hội
32 https://en.wikipedia.org/wiki/Council_of_Economic_Advisers 33 Quản lý ở đây là quản lý kinh doanh. Các loại quản lý khác như Quản lý Công hay Quản lý Rác thải không thuộc
nhóm ngành kinh tế.
7
đồng Tư vấn về MỘT LĨNH VỰC NÀO KHÁC. Các vị trí hành viên hội đồng này rất quan
trọng cho nên lý lịch tóm tắt của những người này được lưu trữ trên website của Nhà trắng.34
CEA cũng thường thuê thêm 15-25 người nữa để hỗ trợ các thành viên hội đồng.35
Họ là các
chuyên gia kinh tế cao cấp, chuyên gia thống kê (ví dụ giám đốc văn phòng thống kê, dưới triều
đại Obama), và các nhân viên cấp thấp. Các chuyên gia kinh tế cao cấp đều phải có bằng tiến sỹ,
tuyệt đại đa số đều có bằng tiến sỹ nhóm ngành kinh tế hoặc có thâm niên lâu năm làm việc ở
các khoa kinh tế/trường kinh doanh uy tín cao. (Các vị trí nhà nghiên cứu cấp thấp, trợ lý, thực
tập sinh có thể là những sinh viên chưa tốt nghiệp cao học). Cũng giống như các nhân viên
khác, các chuyên gia kinh tế cao cấp phục vụ 3 thành viên hội đồng để thiết kế các chính
sách, đường lối, chiến lược cho các lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng điểm của Hoa kỳ, và đó là
các lĩnh vực phi chính trị.
Cụ thể dưới triều đại Obama, các chuyên gia kinh tế cao cấp đều có bằng tiến sỹ kinh tế và tài
chính, tiến sỹ kinh doanh-chính sách công (chú ý là bằng tiến sỹ này cũng có chữ kinh doanh để
đảm bảo thuộc khối ngành kinh tế, PhD in Business-Public Policy), và chỉ có 1 người có bằng
tiến sỹ chính sách công, bà Sheila Olmstead. Tuy nhiên, bà Sheila đã có 8 năm làm việc ở Khoa
kinh tế, Trường Lâm nghiệp và Môi trường, Đại học Yale (trong đó 3 năm là phó giáo sư, 5 năm
là giáo sư tập sự). Đại học Yale là một trong 7 đại học hàng đầu về Kinh tế của Hoa kỳ. Lĩnh vực
sở trường của bà Olmstead là Kinh tế Tài nguyên và Môi trường, một lĩnh vực kinh tế vĩ mô
quan trọng của Hoa kỳ, và bà có nhiều nghiên cứu chất lượng cao. (ví dụ các bài báo trên các tờ
Journal of Economic Perspectives, Journal of Urban Economics, Journal of Business and
Economic Statistics, v.v…).
Dưới triều đại Trump, ngoài 3 thành viên hội đồng, 11 chuyên gia kinh tế cao cấp thì 10 người
có bằng tiến sỹ kinh tế, tài chính, chỉ có 1 người là tiến sỹ luật (Joel Zinberg) nghiên cứu về
chính sách y tế và có nhiều bài báo trên tạp chí Journal of the American Medical Association, là
tạp chí hàng đầu của ngành y của thế giới. Zinberg chỉ là chuyên gia cao cấp hỗ trợ 3 thành viên
hội đồng về lĩnh vực Kinh tế Sức Khỏe. Kinh tế Sức khỏe là lĩnh vực vỹ mô trọng điểm của Hoa
kỳ, bởi đang có những tranh cãi gay gắt về Obamacare. Đảng cộng hòa và ông Trump đang tìm
mọi cách để xóa bỏ Obamacare.36
Chính quyền ông Trump cần CEA hỗ trợ để tính toán chi phí
bảo hiểm y tế hiệu quả nhất. Kinh tế Sức khỏe là lĩnh vực phi chính trị.
Như vậy toàn bộ các chuyên gia kinh tế cao cấp của CEA thời Obama đều có bằng tiến sĩ
thuộc nhóm ngành kinh tế hoặc nếu có bằng tiến sỹ ngành thì phải có kinh nghiệm làm việc
lâu năm trong ngành kinh tế. CEA thời Trump cũng vậy, trừ Zinberg là trường hợp rất
hiếm. Tuy nhiên, tất cả các chuyên gia kinh tế cao cấp đều chỉ làm nhiệm vụ hỗ trợ 3 thành
viên hội đồng trong các lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng điểm. Tất cả đều có những xuất bản
trên các tạp chí chất lượng rất cao.
34 https://obamawhitehouse.archives.gov/administration/eop/cea/about/former-chairs
https://obamawhitehouse.archives.gov/administration/eop/cea/about/Former-Members 35 http://www.investopedia.com/terms/c/council_economic_advisors.asp 36
Journal of the American Medical Association
8
Tổng thống Hoa kỳ cũng có nhiều cố vấn khác: cố vấn chính trị, cố vấn an ning quốc gia, cố
vấn đối ngoại, cố vấn kinh doanh. Tuy nhiên các vị trí đó đều không nằm trong CEA. Ví
dụ, Steve Bannon từng là cố vấn chính trị cho ông Trump.37
Mô hình của Hoa kỳ được giới thiệu trong bài viết này bởi Hoa kỳ là quốc gia có 51 bang, (tầm
vóc bằng 51 quốc gia khác), với hơn 70% giải Nobel kinh tế thuộc về người Mỹ, là nền kinh tế
năng động nhất và cũng là một trong những nơi tốt nhất cho khởi nghiệp (Bill Gates, Steve Jobs,
Mark Zukeberg, Elon Must ít có cơ hội hơn nếu sinh ra ở các quốc gia khác). Dĩ nhiên, Hoa kỳ
có đặc điểm khác với Việt nam, bởi những người làm việc cho CEA phải là những người làm
việc toàn thời gian. Nghĩa là họ phải nghỉ làm ở cơ quan chính của họ để phục vụ CEA. Hoa kỳ
cũng là nơi đào tạo hai vị tiến sỹ chính sách công trong Tổ Tư vấn.
1.3. Ở Việt nam, các lĩnh vực hành chính, chính trị do các cơ quan phi-kinh tế
phụ trách
Ở Việt nam, Bộ chính trị và các cơ quan Đảng phụ trách các vấn đề chính trị, hành chính lớn, ví
dụ các vụ án tham nhũng lớn hoặc các vấn đề cải cách lớn bộ máy hành chính nhà nước. Chính
phủ, Thủ tướng phụ trách các vấn đề nhỏ hơn liên quan đến chính trị và hành chính.
Ban Chỉ đạo Trung Ương về Phòng Chống Tham nhũng là cơ quan do Bộ chính trị, đứng đầu là
Tổng Bí thư phụ trách, trực tiếp chỉ đạo, giám sát và đôn đốc các vụ trọng án tham nhũng. Ngoài
ra, Bộ nội vụ, Bộ công an, Bộ tư pháp cũng là các cơ quan trực tiếp tham gia giải quyết các vấn
đề tham nhũng và chính trị. Các cơ quan liên quan đến cải cách hành chính bao gồm Ban Chỉ đạo
Cải cách Hành chính của Chính phủ, Hội Đồng Tư vấn Cải cách Thủ Tục Hành chính, Bộ nội vụ,
Văn phòng Chính phủ, Cục kiểm soát Thủ tục Hành chính. Đó là đầu mối giải quyết chung các
vấn đề cải cách hành chính và chính trị, bao gồm cả chống tham nhũng và minh bạch.
Thật ra, tất cả các bộ ngành đều có các đề án cải cách hành chính riêng. Các cơ quan kinh tế như
Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước cũng có các đề án
liên quan đến cải cách hành chính chẳng hạn cải cách hệ thống thuế, hệ thống tiền lương, cải
cách bảo hiểm xã hội. Các cải cách này sẽ do các nhà kinh tế đề xuất và các cơ quan này thực
hiện. Các bộ, ngành khác như Bộ giáo dục, Bộ Thông tin & Truyền thông cũng có những đề án
cải cách riêng.
Những người theo học các chương trình hành chính công thường được học những kiến thức nền
tảng về chính trị và hành chính nói chung và phi-kinh tế. Tuy nhiên, để tiền hành cải cách hành
chính trong mỗi ngành nghề cần các chuyên gia của các ngành nghề đó để đảm bảo hiểu biết sâu
về chuyên môn và có kinh nghiệm thực tiễn.
Cần phân biệt cải cách hành chính liên quan đến các lĩnh vực kinh tế trọng điểm sẽ do các nhà
kinh tế trong Tổ tư vấn đề xuất với Thủ tướng (nơi thực thi sẽ là các cơ quan kinh tế: Bộ tài
37
https://news.zing.vn/ong-trum-dung-sau-nhung-quyet-dinh-tranh-cai-cua-trump-post717220.html
9
chính, Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ công thương, Ngân hàng Nhà nước…) với các cải cách hành
chính & chính trị liên quan đến các cơ quan phi-kinh tế (Bộ chính trị, Bộ nội vụ…) mà những
người theo học cao học và tiến sỹ chính sách công/hành chính công/quản lý công được đào tạo.
Nhà kinh tế đích thực là những người có bằng tiến sỹ nhóm ngành kinh tế hoặc có thâm niên
làm việc ở các khoa kinh tế, trường kinh doanh uy tín cao. Khái niệm nhà kinh tế đích thực rất
quan trọng trong ngành kinh tế: Hiệp hội Kinh tế của Tổng thống Hoa kỳ không bao giờ để cho
ai không phải là nhà kinh tế đích thực chui vào ban điều hành của Hiệp hội.
Cả 3 vị trí quan trọng nhất của Hội đồng Cố vấn Kinh tế cho Tổng Thống Hoa kỳ (CEA) xưa
nay đều là do các giáo sư có bằng tiến sỹ nhóm ngành kinh tế và làm việc lâu năm ở các
khoa/trường kinh tế, kinh doanh uy tín cao để đảm bảo hiểu biết sâu rộng về kinh tế. Có thể nói,
CEA của Hoa kỳ xưa nay được quản lý bởi các nhà kinh tế đích thực. Các vị trí thấp hơn, các
chuyên gia kinh tế cao cấp, hỗ trợ cho hội đồng tuyệt đại đa số đều có bằng tiến sỹ nhóm ngành
kinh tế hoặc thâm niên làm việc lâu năm trong ngành kinh tế. Tất cả các chuyên gia kinh tế cao
cấp đều hỗ trợ hội đồng trong các lĩnh vực kinh tế vĩ mô nóng bỏng của Hoa kỳ, và là các lĩnh
vực phi chính trị. Tổng thống cũng có nhiều cố vấn chính trị, an ninh, đối ngoại, nhưng không
thuộc CEA.
Khoa học kinh tế Việt nam còn kém thế giới khá xa. Bởi vậy, rất cần các nhà kinh tế đích thực
tham gia Tổ tư vấn Kinh tế để đảm bảo việc hội nhập và kết nối với giới kinh tế quốc tế, và cập
nhật thông tin về ngành kinh tế thế giới. Đồng thời, những người này cần có chuyên môn sâu về
các lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng điểm của quốc gia để đảm bảo tư vấn hiệu quả.
II. KHÁI NIỆM TƯ VẤN KINH TẾ CHO THỦ TƯỚNG
2.1. Tư vấn giỏi cấp quốc gia phải là nhà nghiên cứu giỏi và có chuyên môn
sâu về các lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng điểm của quốc gia
Tất cả các thành viên hội đồng CEA xưa nay đều phải có bằng tiến sỹ thuộc nhóm ngành
kinh tế từ các trường danh tiếng đồng thời có thâm niên nhiềm năm làm việc ở các khoa
kinh tế uy tín cao. Công việc cố vấn kinh tế quốc gia chủ yếu đòi hỏi kỹ năng nghiên cứu, tổng
hợp, phân tích, dự báo các data kinh tế vĩ mô, theo những phương pháp nghiên cứu kinh tế tiên
tiến nhất để đạt được độ tin cậy/độ chính xác cao nhất. Trên cơ sở đó đưa ra những khuyến nghị
chính sách, kế hoạch, đường lối, chiến lược. Chính vì vậy, nền tảng kiến thức kinh tế và kỹ năng
nghiên cứu và mà hầu như chỉ các tiến sỹ các ngành kinh tế mới đáp ứng được. Ngành kinh tế là
ngành ưu tiên tuyển chọn những người có năng lực toán học nhiều nhất trong các ngành
KHXH&NV, bên cạnh năng lực học vấn và năng lực nghiên cứu. Các thành viên hội đồng có thể
10
không trực tiếp thực hiện toàn bộ các công việc đấy nhưng họ phải nắm vững các nguyên tắc và
chỉ đạo các chuyên gia và nhân viên của hội đồng thực hiện.
Nếu không phải là tiến sỹ khối ngành kinh tế thì phải có thâm niên nhiều năm làm việc ở
các cơ sở nghiên cứu kinh tế uy tín cao, bởi lẽ những người của các ngành khác cần có thời
gian để thẩm thấu các phương pháp nghiên cứu kinh tế tiên tiến cũng như tiếp thu thế giới quan,
kiến thức chung về kinh tế, văn hóa, giá trị, và đạo đức nghề nghiệp của ngành kinh tế. Lấy ví
dụ, nhiều chuyên gia chính sách công không phù hợp với công việc tư vấn kinh tế mặc dù cũng
có nhiều người nghiên cứu liên quan đến kinh tế. Bởi vì não trạng chính trị có thể khiến họ bóp
méo kết quả phân tích dữ liệu hoặc diễn giải kết quả nghiên cứu để phục vụ các mục tiêu chính
trị, chứ không tôn trọng thực tế khách quan như các nhà kinh tế.
Tư vấn kinh tế giỏi cấp quốc gia phải là nhà nghiên cứu kinh tế tài năng, và am hiểu các
lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng điểm. Trình độ trung bình của giới kinh tế gốc Việt ở hải ngoại
vẫn kém thế giới khá xa, việc không chọn những người tài năng sẽ khiến cho chất lượng tư
vấn càng không được đảm bảo. Mục tiêu tối hậu của nghiên cứu kinh tế là để xây dựng được
những mô hình kinh tế chính xác nhất, đưa ra các kết quả phân tích, thống kê, dự báo với độ tin
cậy cao nhất. Tư vấn kinh tế cấp quốc gia không phải là tư vấn doanh nghiệp. Tư vấn cấp quốc
gia những người có khả năng hiểu và và phân tích số liệu vĩ mô với độ chính xác cao. Sổ liệu,
chỉ tiêu, dự báo kinh tế của Việt nam nổi tiếng không đáng tin cậy nhưng trước nay các tư vấn
kinh tế không có khả năng điều chỉnh. Nay Thủ tướng có thiện chí mời các nhà kinh tế hải ngoại
thì cần mời những người giỏi nhất, đồng thời am hiểu về những lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng
điểm, để đảm bảo chất lượng tư vấn.
Tư vấn kinh tế cấp quốc gia cần những người có kinh nghiệm nghiên cứu lâu năm về
những lĩnh vực cần tư vấn chứ không cần những người chỉ đọc tài liệu vài ngày rồi chém
gió, hoặc ba hoa về những thứ không phải là kinh tế. Tư vấn cấp quốc gia phải có khả năng
đề xuất và khuyến nghị điều chỉnh những tính toán không hợp lý về các thống kê, dự báo kinh tế,
các chỉ số và chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, ước lượng tỷ số chi phí và lợi ích một cách chính xác nhất
v.v.. Muốn “chém gió” được thì cũng phải có thâm niên nghiên cứu về những lĩnh vực ấy, để
đảm bảo “chém” đúng.
Số lượng các vấn đề kinh tế nhức nhối của Việt nam khá nhiều, và là các vấn đề phức tạp,
cấp thiết, tốn rất nhiều thời gian để giải quyết. Tổ Tư vấn Kinh tế cần tập trung giải quyết các
vấn đề đó chứ không nên lan man những thứ khác. Nếu cần tư vấn về các vấn đề khác (ví dụ
Hành chính và Chính trị), Thủ tướng có thể bố trí hoặc giới thiệu các học giả gốc Việt vào các cơ
quan chuyên trách ví dụ Hội đồng Tư vấn Cải cách Thủ tục Hành chính, Ban Chỉ Đạo TW về
Phòng Chống Tham Nhũng. Không nên để những kẻ ngoại đạo (không có bằng tiến sỹ kinh tế và
không làm việc trong ngành kinh tế) lạm dụng danh từ Tư vấn Kinh tế mà họ không xứng đáng.
2.2. Những ngộ nhận về Tư vấn kinh tế cho Thủ tướng
11
Chức năng chủ yếu của Tổ Tư vấn Kinh tế cho Thủ tướng không phải là biên soạn những
cuốn sách chiến lược phát triển như „Theo Hướng Rồng bay‟38
. Mặc dù thật ra. tất cả các
tác giả của cuốn sách này đều là các tiến sỹ kinh tế đồng thời có thâm niên nghiên cứu kinh
tế lâu năm với chất lượng cao, (các tiến sỹ chính sách công làm việc ở các trường hành chính
công, hay giáo sư Việt nam học không đủ trình độ để viết những cuốn sách như vậy). Công việc
chủ yếu của tư vấn kinh tế cho Thủ tướng là đề xuất và điều chỉnh các chỉ tiêu, dự báo kinh tế vĩ
mô, và trên cơ đó đề xuất các chính sách, đường lối cụ thể để phản ứng nhanh với những biến
động của nền kinh tế, và thực hiện các chiến lược phát triển. Tư vấn đề xuất chiến lược phát triển
chỉ là một phần nhỏ trong công việc của họ. Gần đây nhất Bộ Kế hoạch Đầu tư thuê Ngân hàng
thế giới chủ trì cuốn sách về chiến lược phát triển quan trọng „Báo cáo Việt Nam 2035‟ chứ
không thuê các tác giả của cuốn Theo Hướng Rồng Bay nữa. Đó là một hướng đi đúng đắn, tránh
được nguy cơ bị ngoại bang thao túng chính trị, bởi các tác giả này đều đến từ trường hành chính
công Kennedy-Harvard.
Tư vấn kinh tế không phải là tư vấn chính trị. Có người cho rằng không cần chọn những nhà
nghiên cứu giỏi nhất mà chỉ cần chọn những người năng lực vừa phải và có năng lực ngoại giao,
chính trị, quan hệ để thuyết phục lãnh đạo quốc gia. Đấy là lối tư duy nguy hiểm, bởi vì những
người năng lực vừa phải có thể đưa ra những kết quả nghiên cứu có độ chính xác không cao hoặc
hiểu biết của họ hạn chế mà thuyết phục được lãnh đạo quốc gia tin vào những hiểu biết và kết
quả đó thì còn gì tai hại hơn. Trên thực tế, Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Tổng thống Hoa kỳ ưu
tiên lựa chọn các tiến sỹ kinh tế chứ không ưu tiên lựa chọn các tiến sỹ của các ngành chính trị
như chính sách công, mặc dù các vị này thường có năng khiếu ngoại giao tốt hơn các tiến sỹ kinh
tế do ngành chính sách công ưu tiên tuyển chọn những người có năng lực ấy.
Tư vấn kinh tế cấp quốc gia không phải là tư vấn về kinh doanh. Ở Hoa kỳ có Hội đồng Cố
vấn Kinh doanh cho Tổng thống Hoa kỳ bao gồm các doanh nhân nổi tiếng bên cạnh Hội đồng
Cố vấn Kinh tế. Việt nam cũng có Tổ Tư vấn Kinh doanh cho Thủ tướng bao gồm các doanh
nhân hàng đầu song hành với Tổ tư vấn Kinh tế cho Thủ tướng. Các doanh nhân sẽ đóng góp ý
kiến về các nhu cầu của doanh nghiệp dưới góc độ nhà tư vấn kinh doanh. Tuy nhiên vẫn cần các
nhà kinh tế để tư vấn về các chính sách, kinh nghiệm xử lý các vấn đề liên quan đến kinh doanh
dưới góc độ lợi ích quốc gia và đảm bảo lợi ích của tất cả các bên tham gia nền kinh tế.
Tư vấn kinh tế cấp quốc gia cũng không phải là những người đi vận động chính sách kinh
tế hay thương mại ở nước ngoài, hoặc hỗ trợ xúc tiến thương mại. Những công việc đó cần
những người có kinh nghiệm làm việc thực tiễn lâu năm trong các lĩnh vực đó và nắm vững các
điều luật, nguyên tắc về xuất nhập khẩu, kinh doanh quốc tế ở các quốc gia sở tại. Các giáo sư,
tiến sỹ công tác ở các trường đại học, viện nghiên cứu chỉ tư vấn chứ không trực tiếp thực hiện
các công việc đó.
38 Bà Phạm Chi Lan nói rằng trường Fulbright đã đóng góp cho Việt nam cuốn sách “Theo Hướng Rồng Bay” là
một cuốn sách quan trọng được nhiều đời Thủ tướng Việt nam tham khảo. Xem thêm Chương IX „HÃY CHẤM
DỨT SỰ CAN THIỆP CỦA CÁC TRƯỜNG HÀNH CHÍNH CÔNG VÀO NGÀNH KINH TẾ VIỆT NAM, bàn
bạc sâu thêm về vấn đề này.
12
III. TƯ VẤN KINH TẾ GIỎI CẤP QUỐC GIA PHẢI LÀ NHÀ
NGHIÊN CỨU KINH TẾ GIỎI
3.1. Khái niệm nhà nghiên cứu kinh tế giỏi
Như đã nêu, tư vấn kinh tế giỏi cấp quốc gia cần phải là một nhà nghiên cứu kinh tế giỏi
bởi công việc chủ yếu của tư vấn quốc gia là xử lý sổ liệu điều chỉnh chỉ tiêu, dự báo kinh tế vĩ
mô, những chức năng quan trọng nhất của nghiên cứu kinh tế. Cả 3 thành viên hội đồng và tất cả
các vị trí chuyên gia kinh tế cao cấp của CEA đều tốt nghiệp từ các trường danh tiếng và có các
nghiên cứu chất lượng cao về các lĩnh vực kinh tế trọng điểm của Hoa kỳ.
Một nhà nghiên cứu kinh tế giỏi là nhà kinh tế xuất bản được nhiều bài báo trên các tạp
chí chất lượng cao hoặc là làm việc ở những cơ sở nghiên cứu kinh tế được xếp hạng khá
trong các bảng xếp hạng của Hoa kỳ hoặc thế giới. Hoa kỳ là nơi có nhiều trường/viện nổi
tiếng nhất về kinh tế, với hơn 70% số giải Nobel kinh tế thuộc về những người đang làm việc ở
quốc gia này. Chính vì vậy bảng xếp hạng của Hoa kỳ rất quan trọng. Những vị trí nghiên cứu
kinh tế của một số tổ chức như Worldbank, RAND…cũng đòi hỏi chất lượng nghiên cứu tương
đương với các khoa kinh tế xếp hạng khoảng 50-150 của Hoa kỳ.
Các khoa kinh tế/trường kinh doanh uy tín của Hoa kỳ và của châu Âu, châu Úc, và các
trường lớn ở châu Á quy định chỉ sử dụng những bài báo chất lượng cao để xét biên chế.
Ngành kinh tế chỉ coi trọng xuất bản bài báo, ít quan tâm đến xuất bản sách. (Ví dụ các
khoa kinh tế ở Hoa kỳ sử dụng các bài top field (second tier top field lớn hoặc first tier top field
trung bình) trở lên để xét biên chế (phong phó giáo sư) và bổ nhiệm giáo sư. Với các trường từ
hạng 40 đến hạng 200 của Hoa kỳ đòi hỏi có từ 6-1 bài báo top field trong vòng 6 năm để có
biên chế. Còn các trường từ hạng 1 đến hạng 40 thì đòi hỏi có bài báo top general, TOP10,
TOP5, thậm chí nghiên cứu đột phá của toàn ngành để có được biên chế.) Chính vì xuất bản trên
các tạp chí này rất khó và lâu (trung bình 2-3 năm/bài) cho nên số lượng bài báo của các giảng
viên ở các khoa này không nhiều, trung bình trong vòng 15-20 năm đầu tiên, đa số những người
này chỉ xuất bản từ 0.5 - 2 bài/năm. Trong khi đấy, nhiều khoa kinh tế ở Đông Nam Á, châu Phi,
và các khoa kinh tế ít uy tín ở các châu lục khác chấp nhận các bài báo trên các tạp chí chất
lượng thấp hơn nhiều cho nên có thể xuất bản nhiều hơn. Chính vì xuất bản trên các tạp chí top
field trở lên rất khó và lâu cho nên nhiều nghiên cứu chưa xuất bản, nhưng đã báo cáo ở nhiều cơ
sở nghiên cứu kinh tế lớn, hoặc các hội thảo quan trọng cũng được quan tâm. Có nhiều người
được nhận vào làm giảng viên tập sự (assistant professor) của các khoa kinh tế (thậm chí của các
trường hàng đầu như Harvard, Stanford, MIT và các trường đại học uy tín khác) mặc dù vài năm
sau mới xuất bản bài báo đầu tiên.
3.2. Đánh giá năng lực nhà nghiên cứu kinh tế
Ngành kinh tế (bao gồm kinh tế, tài chính, quản trị kinh doanh) đánh giá năng lực nhà nghiên
cứu chủ yếu thông qua các bài báo xuất bản trên các tạp chí kinh tế uy tín. Ngành kinh tế ít quan
tâm đến việc xuất bản sách, và không coi đó là yêu cầu bắt buộc của một nhà nghiên cứu kinh tế.
13
Ngành kinh tế (economics) có 5 tạp chí hàng đầu, gọi là TOP5, là quan trọng nhất được
đánh giá cao nhất: American Economic Review, Econometrica, Quaterly Jounrnal of
Economics, Journal of Political Economy và Review of Economic Studies (AER, Ecca, QJE,
JPE, RES, trừ AER số tháng 5, hay còn gọi là số paper and proceedings, hoặc viết tắt là pp. Từ
năm 2018, AER số tháng 5 sẽ tách thành tờ báo riêng). Ngành tài chính có 3 tạp chí được đánh
giá cao nhất, gọi là BIG3, Journal of Finance, Journal of Financial Economics, và Review of
Financial Studies (JF, JFE, RFS). Tuy nhiên BIG3 chỉ áp dụng cho lĩnh vực tài chính doanh
nghiệp, thị trường, không áp dụng đối với các lĩnh vực tài chính công, ví dụ thuế khóa, ngân
sách, v.v…bởi vì các lĩnh vực này được xếp vào ngành kinh tế, phải tuân theo tiêu chí của ngành
kinh tế (TOP5 là cao nhất) chứ không phải ngành tài chính. Đôi khi ở một số trường xếp hạng
không cao coi Journal of Financial and Quantitative Analysis (JFQA) trong nhóm BIG3+1 để
đánh giá những việc quan trọng như tuyển dụng giảng viên hoặc xét biên chế (phong phó giáo
sư). Ngành kế toán có 3 tạp chí được đánh giá cao nhất (TOP3) là Journal of Accounting and
Economics, Journal of Accounting Research, The Accounting Review. Ngành tài chính cũng coi
những bài báo xuất bản ở TOP5 Kinh tế hoặc TOP3 Kế toán là tương đương với BIG3. Nhưng
ngược lại các bài báo xuất bản ở BIG3 chỉ được coi là top field đối với ngành kinh tế. Các
ngành kinh doanh có các tạp chí quan trọng khác, tùy theo từng ngành.
IV. CÁC LĨNH VỰC KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM
Kinh tế nghiên cứu rất nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên một Tổ Tư vấn Kinh tế cho Thủ tướng cần phải
ưu tiên tập trung vào các lĩnh vực quan trọng của quốc gia bởi thời gian cho Tổ Tư vấn không
nhiều. Những lĩnh vực như Kinh tế Chính trị thường không được vào làm lĩnh vực kinh tế trọng
điểm ở Việt nam bởi không phải là lĩnh vực do các cơ quan kinh tế phụ trách, mà do các cơ quan
chuyên trách về hành chính và chính trị. Các chuyên gia hành chính, chính trị ở các cơ quan
chuyên trách này mới quan tâm, và có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn về hành chính và chính
trị chứ không phải các nhà kinh tế trong Tổ Tư vấn.) Lĩnh vực Chính trị rất khác với Lĩnh vực
Nông nghiệp, Tài nguyên Môi trường chẳng hạn, bởi Chính trị gắn chặt với các cơ quan
Đảng, chịu sự chỉ đạo tối cao của các cơ quan Đảng, và trách nhiệm của Đảng trong các
lĩnh vực này cao hơn Chính quyền (Thủ tướng, Chính phủ). Mọi đề xuất liên quan đến
Hành chính, Chính trị đều phải tính đến các mục tiêu chính trị và quan điểm tổ chức bộ
máy hành chính của Đảng, chứ không chỉ quan tâm đến các mục tiêu khoa học như các
lĩnh vực khác. Trong khi Nông nghiệp, Tài nguyên Môi trường là các lĩnh vực phi chính trị,
các cơ quan Đảng ít can thiệp và Chính quyền chỉ đạo là chủ yếu. Các lĩnh vực như Kinh tế
Lịch sử, Kinh tế Thể thao…cũng không quan trọng đến mức phải trở thành lĩnh vực kinh tế trọng
điểm.
14
Căn cứ vào Nghị Quyết về Kế hoạch Phát triển Kinh tế-Xã hội 2016-2020, đã được Quốc hội
khóa 13 thông qua39
và phân loại JEL của ngành kinh tế, các lĩnh vực kinh tế trọng điểm được
lựa chọn có thể bao gồm như dưới đây (chữ xanh):
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi
trường và động lực cho phát triển kinh tế-xã hội: (Kinh tế vĩ mô; các tổ chức công nghiệp (tập
trung vào chủ đề cấu trúc thị trường, hoạt động của thị trường); kinh tế quốc tế; tài chính quốc tế;
kinh tế tiền tệ và lãi suất; chính sách kinh tế; tài chính công; kinh tế công cộng và kinh tế đầu tư;
ngân sách quốc gia, thâm hụt và nợ công; chi tiêu công quốc gia và các chính sách liên quan; chính sách thuế và hành vi của các tác nhân kinh tế).
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất,
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế: (Tăng trưởng kinh tế và năng suất tổng hợp; các
định chế tài chính và dịch vụ; thị trường tài chính; tài chính doanh nghiệp và quản trị; các
tổ chức công nghiệp tập trung vào các chủ đề cấu trúc công nghiệp và chuyển đổi cấu trúc,
các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân hóa và các tổ chức phi chính phủ; kinh tế nông
nghiệp; kinh tế lao động-nguồn nhân lực; kinh tế vùng, đô thị, nông thôn, vận tải, bất động
sản và cơ sở hạ tầng).
Phát triển bền vững văn hóa, xã hội, y tế trên cơ sở gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển
kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân: (Phân phối thu nhập, kinh tế lao động-tiền lương)
Ngoài ra, các chủ đề sau cũng được đề cập trong Nghị Quyết, nhưng không phải là trọng tâm của
một Tổ tư vấn kinh tế do không gắn liền với chức năng của các cơ quan kinh tế, mà thuộc trách
nhiệm của các bộ/ngành khác: Y tế, Văn hóa, Xã hội, Luật pháp, Xây dựng, Khoa học công
nghệ, Tài nguyên, Bảo vệ môi trường, An toàn thực phẩm, Phòng chống tham nhũng, Tiết kiệm
chống lãng phí, Hành chính công, An ninh quốc phòng. Tổ tư vấn kinh tế cấp Thủ tướng cần
ưu tiên tập trung vào các vấn đề kinh tế vĩ mô trọng điểm bởi số lượng các vấn đề đó rất
nhiều, phức tạp và cấp thiết, đòi hỏi nhiều thời gian để bàn bạc, điều chỉnh các đề xuất.
V. CHÍNH SÁCH CÔNG/HÀNH CHÍNH CÔNG KHÔNG
THUỘC NHÓM NGÀNH KINH TẾ MÀ THUỘC NHÓM
NGÀNH CHÍNH TRỊ
5.1. Sự khác biệt giữa ngành chính sách công và ngành kinh tế
39
http://vietstock.vn/2016/05/nghi-quyet-ve-ke-hoach-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-2016-2020-761-477466.htm
15
Chính sách công/hành chính công/quản lý công thuộc nhóm ngành chính trị chứ không
thuộc nhóm ngành kinh tế. Kinh tế là nhóm ngành phi chính trị . Mặc dù có tính đến môi
trường chính trị và biến động chính trị trong các nghiên cứu, ngành kinh tế theo đuổi sự
chính xác của khoa học chứ không theo đuổi các mục tiêu chính trị. Trong khi đó, chính
sách công, hành chính công, quản lý công là những ngành rất gần nhau và thuộc nhóm
ngành chính trị. Ở Hoa kỳ và các nước khác trên thế giới các chương trình tiến sỹ chính sách
công thường nằm trong các trường Khoa học Chính trị hoặc trường Hành chính công. Ở Việt
nam, chính sách công/hành chính công/quản lý công không nằm trong khối ngành „Kinh tế‟ mà
thuộc khối ngành Khoa học Chính trị, và là một ngành quan trọng của Học viện Chính trị và
Hành chính quốc gia, và không phải là các ngành truyền thống của các trường Kinh tế.
Tiêu chí tuyển chọn nghiên cứu sinh của ngành Kinh tế rất khác ngành Chính sách công.
Ngành kinh tế chuộng người trẻ, giỏi toán, có năng lực nghiên cứu tốt (nghĩa là chuộng các
năng lực phi chính trị), trong khi ngành Chính sách Công chọn người nhiều tuổi hơn, có
năng lực chính trị và thành tựu trong nghề nghiệp. Lấy ví dụ mục Admission của Khoa kinh
tế, đại học Harvard, yêu cầu ứng viên cao học và nghiên cứu sinh từng tham dự một số lớp về
kinh tế, kinh nghiệm nghiên cứu kinh tế, và chuẩn bị về toán học.40
Giáo sư Mankiw, người một
thời gian dài là trưởng khoa (chairman) Kinh tế của ĐH Harvard, và là tác giả của bộ sách giảng
dạy Kinh tế nổi tiếng toàn cầu mang tên ông, khẳng định ngành Kinh tế đề cao năng lực/thành
tích toán học: “Các lớp toán học của bạn là một bài kiểm tra IQ dài. Chúng tôi sử dụng các lớp
toán học để xác định ai thực sự thông minh. “Nếu bạn dự định tham gia một chương trình tiến sỹ
kinh tế, bạn cần tham dự các lớp toán học đến khi bội thực”. (“Your math courses are one long
IQ test. We use math courses to figure out who is really smart”. “if you are thinking about a PhD
program in economics, you are advised to take math courses until it hurts”.)41
Trường hành chính công Kennedy, Havard là trường thiên về khoa học chính trị và tinh
thần lãnh đạo. Các sinh viên được lựa chọn dựa trên tố chất chính trị (năng lực lãnh đạo).
Các giảng viên của trường này tích cực tham gia hoạt động chính trị và giảng dậy về những
thứ đó trên lớp học. Trong khi đó, ngành chính sách công quan tâm đến các năng lực chính
trị chẳng hạn như tinh thần lãnh đạo và dịch vụ công. Trường hành chính công Kennedy-
Harvard là trường thiên về khoa học chính trị và tinh thần lãnh đạo. (The John F. Kennedy
School of Government at Harvard University has a more political science and leadership based
approach)42
Các học viên được chọn vào chương trình của trường hành chính công
Kennedy-Harvard thường có kinh nghiệm lãnh đạo và sự cam kết theo đuổi các lợi ích
công, được thể hiện bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và hoạt động tình nguyện - nghĩa là các tiêu
chí mang màu sắc chính trị, (HKS is a school of leadership and public service. Successful
candidates typically demonstrate leadership experience and commitment to the public good,
which are qualities often displayed through professional experience and volunteer work during
and after college).43
Các giảng viên của trường này rất tích cực tham gia vào các hoạt động
40
https://economics.harvard.edu/pages/admissions 41 http://gregmankiw.blogspot.com/2006/09/why-aspiring-economists-need-math.html 42 http://dictionnaire.sensagent.leparisien.fr/Public%20Policy/en-en/ 43 Trước đây điều này ghi rõ ở site này.
https://www.hks.harvard.edu/degrees/admissions/apply/frequently-asked-questions
Tuy nhiên sau vụ 22/3/2015, Trần Ngọc Anh bị tố cáo (xem thêm bài „Hiệp hội kinh tế ISVE: Chủ nhà và Khách
mời‟), trường Kennedy, Harvard đã xóa đi, nhưng vẫn còn bằng chứng ở trang này. (Mặc dù chúng tôi không đảm
16
chính trị (hoạch định chính sách, tư vấn chính phủ, và hỗ trợ hoạt động của các thể chế
quan trọng. Việc giảng dạy trên lớp cũng phản ánh thực tế này). (The faculty is actively
engaged - shaping public policy, advising governments, and helping to run major institutions.
The learning in our classrooms reflects this reality).44
Bằng tiến sỹ chính sách công của hai ông Vũ Minh Khương và Trần Ngọc Anh không phải
là bằng cấp về kinh tế. Trang chủ của Khoa kinh tế, ĐH Harvard giới thiệu chương trình “Ph.D.
in Political Economy and Government” liên kết của Khoa kinh tế với trường hành chính công
Kennedy-Harvard, Ph.D.45
Chỉ có chương trình này được giảng viên của khoa kinh tế tham gia
tuyển chọn nghiên cứu sinh và thiết kế chương trình cho nên tên chương trình có chữ kinh tế và
có thể xếp vào nhóm chương trình tiến sỹ thuộc khối kinh tế. Chương trình PhD in Public Policy
(nơi Trần Ngọc Anh và Vũ Minh Khương theo học) không do khoa Kinh tế, ĐH Harvard tham
gia thiết kế và đảm bảo chất lượng, mà hoàn toàn do trường hành chính công Kennedy thiết kế
và tuyển chọn nghiên cứu sinh, chính vì vậy không được coi là bằng cấp kinh tế, mà là bằng
chính sách công giống như ở các nơi khác.
Nói vắn tắt, hai ông Trần Ngọc Anh và Vũ Minh Khương được lựa chọn dựa trên các tố
chất chính trị, là sản phẩm đào tạo của một trường có bản chất chính trị và được kỳ vọng
ra trường sẽ hoạt động chính trị đồng thời với các hoạt động nghiên cứu. Sau khi tốt
nghiệp, hai ông này tiếp tục làm việc trong môi trường chính trị (ở các trường hành chính
công SPEA, ĐH Indiana, Hoa kỳ và trường Lý Quang Diệu, Singapore).
Chúng tôi không phủ nhận rằng có một số ít người tốt nghiệp tiến sỹ chính sách công và các
ngành khác nhưng rất phù hợp với ngành kinh tế nên đã nhanh chóng xin việc trong ngành kinh
tế, (ví dụ David Autor, người cũng tốt nghiệp tiến sỹ chính sách công ở trường Kennedy-
Harvard, ngay sau khi tốt nghiệp đã được nhận vào khoa kinh tế của MIT). Tuy nhiên hai ông
Ngọc Anh và Minh Khương nghiên cứu các lĩnh vực đặc thù về hành chính và chính trị, và
những gì liên quan đến kinh tế điển hình (ví dụ kinh tế phát triển) đều rất kém, và hăng say hoạt
động chính trị cho nên nơi phù hợp nhất của họ là lĩnh vực hành chính và chính trị, (xem phân
tích chi tiết về lý lịch hai người này ở chương VI).
Nhiều vị trí và công việc trong ngành chính sách công không cạnh tranh bình đẳng quốc tế
mà dựa trên đặc thù quốc gia. Trong khi đó ngành kinh tế luôn cạnh tranh quốc tế cho nên
để trở thành giáo sư kinh tế thường khó khăn hơn nhiều. Đơn cử như chương trình Vietnam
Young Leaders Awards của ĐH Indiana, thuộc dạng top 3 của Mỹ, nhưng dành riêng cho các
lãnh đạo trẻ của Việt nam. Có ngành nào khác mà đại học thuộc top 3 của Mỹ mà phải dành
riêng học bổng cho Việt nam và sang tuyển người hàng năm như vậy không?? Trường đại học
Indiana, nơi ông Trần Ngọc Anh làm việc, có Trung tâm Dân chủ Lập Hiến nổi tiếng, với 01
bảo trang này có tiếp tục bị edit hay không).
https://forum.thegradcafe.com/topic/62535-questions-about-harvard-mpp-from-admit-to-harvard-law-school/ 44 Trước ngày 22/3/2015, những điều này ghi rõ ở site dưới đây. Tuy nhiên, sau khi Trần Ngọc Anh bị tố cáo (xem thêm bài „Hiệp hội kinh tế ISVE: Chủ nhà và Khách mời‟), trường Kennedy, Harvard đã xóa đi. Nhưng các chuyên
gia IT có thể khôi phục lại các dòng này. Xem thêm bằng chứng chúng tôi chụp màn hình ở Phụ lục C. (Trên
Internet đang tung bằng chứng lung tung liên quan đến câu này để đánh lạc hướng.)
http://www.hks.harvard.edu/about 45
http://economics.harvard.edu/pages/admissions
17
trong 03 mục tiêu chính là Minh Bạch Chính phủ, đã đưa Việt nam vào nhóm ưu tiên cùng với 4
quốc gia khác Nam Sudan, Lybia, Miến điện, và Liberia.46
Một giảng viên Brazil chẳng hạn không thể hoạt động chính trị hiệu quả ở Việt nam, bằng các
giảng viên gốc Việt do thiếu hiểu biết về môi trường chính trị, và đặc biệt là thiếu các mối quan
hệ sâu sắc với các cơ quan công quyền. Chính vì vậy, nhiều vị trí và công việc trong ngành chính
sách công không phải là cạnh tranh quốc tế như ngành kinh tế (vốn là ngành phi chính trị) mà có
tính đến đặc thù quốc gia. Lấy ví dụ, nếu trường Indiana muốn cải tổ chính trị Việt nam thì sẽ có
nhiều ưu đãi cho những học giả gốc Việt trong tuyển dụng và quá trình làm việc.
Trong khi ấy, kinh tế là một ngành phi chính trị, chuyên về xử lý phân tích dữ liệu, lập các mô
hình quan hệ và dự báo. Một nhà kinh tế gốc Việt không có lợi thế gì hơn so với một nhà kinh tế
người Brazil khi nghiên cứu về kinh tế Việt nam. Chính vì vậy, cạnh tranh trong ngành chính
sách công không phải là cạnh tranh quốc tế như ngành kinh tế.
5.2. Các tiến sỹ kinh tế chủ trì và thực hiện mọi nghiên cứu chính sách,
đường lối, chiến lược phát triển liên quan đến kinh tế chứ không phải các tiến
sỹ chính sách công
Kinh tế là một ngành đặc thù đòi hỏi chuyên môn sâu và nền tảng kiến thức vững về kinh tế (đặc
biệt là năng lực toán học) để có thể lập chính sách, đường lối, chiến lược phát triển. Cũng giống
như chính sách y tế, chính sách năng lượng, chính sách môi trường, chính sách giáo dục, thường
đòi hỏi các chuyên gia của các ngành y, năng lượng, môi trường, giáo dục thực hiện, các tiến sỹ
kinh tế là những người nghiên cứu và đề xuất các chính sách, đường lối, chiến lược liên quan đến
kinh tế, chứ không phải là các tiến sỹ chính sách công.
Đấy là lý do 3 thành viên Hội đồng Cố Vấn Kinh tế của Tổng thống Hoa kỳ luôn luôn là
những người phải có bằng tiến sỹ nhóm ngành kinh tế và thâm niên làm việc trong ngành
kinh tế. Và tuyệt đại đa số các chuyên gia kinh tế cao cấp họ lựa chọn để hỗ trợ cho hội đồng
cũng phải có bằng tiến sỹ nhóm ngành kinh tế hoặc có thâm niên làm việc trong lĩnh vực kinh tế.
Đấy cũng là lý do những người lãnh đạo các trung tâm nghiên cứu chính sách kinh tế nổi tiếng
và các nhà nghiên cứu kinh tế giỏi nhất ở các trường hành chính công (ví dụ trường Woodrow
Winson, đại học Princeton, Hoa kỳ, trường hành chính công Kennedy, Harvard, trường chính
sách công Chicago, trường hành chính công SPEA, Indiana v.v…), đều là các tiến sỹ kinh tế chứ
không phải các tiến sỹ chính sách công.
Thậm chí những cuốn sách về chính sách phát triển ví dụ như „Theo Hướng Rồng Bay’ liên
quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội, cả 3 tác giả đều là tiến sỹ kinh tế. Bởi lẽ, kinh tế là ngành
chú trọng tuyển chọn người có năng lực toán học, năng lực logic nhiều nhất trong các ngành
KHXH&NV, bên cạnh sự chú trọng năng lực học vấn và năng lực nghiên cứu. Khoa học xã hội
hiện đại cần rất nhiều tính toán với độ tin cậy cao. Dựa trên cơ sở các tính toán đó để đưa ra các
46
http://ccd.indiana.edu/projects/
18
chính sách, đường lối, chiến lược. Chính vì vậy các tiến sỹ kinh tế là những người phù hợp hơn
cả để chủ trì và thực hiện các tài liệu về chính sách phát triển kinh tế-xã hội.
Vậy các tiến sỹ chính sách công làm gì?? Công việc chủ yếu của họ là tư vấn chính trị và
hành chính. Ngành chính sách công/hành chính công là ngành thiên về thực hành, đòi hỏi năng
lực chính trị, ngoại giao bởi các học giả của ngành này phải làm việc trực tiếp với các bộ ngành
để vận động thực hiện chính sách. Các chính sách thuộc lĩnh vực hành chính và chính trị phụ
thuộc rất nhiều vào ý chí của những người ra quyết định, và các mục tiêu chính trị của đảng phái,
và do vậy cần phải vận động chính sách. Chính vì vậy, ngành chính sách công chú trọng chọn
người có năng lực chính trị.
5.3. Ngành kinh tế thế giới xung khắc với nhóm ngành chính trị và không
công nhận các trường hành chính công là các trường kinh tế
Ngành kinh tế thế giới vốn không thiện cảm với nhóm ngành chính trị do khác biệt về bản
chất với nhóm ngành này. Giới kinh tế quốc tế không coi các trường hành chính công là
các trường kinh tế. Không phải vô lý khi từng có một số người thuộc các ngành khác được từng
giải Nobel kinh tế, nhưng không ai bị giới kinh tế phản ứng dữ dội như bà Ostrom, một giáo sư
khoa học chính trị, năm 2009. CNN viết: “Giải thưởng cho Ostrom có thể là một cú sốc với các
nhà kinh tế do nền tảng học vấn khoa học chính trị của bà hơn là giới tính của bà.” (Ostrom's
award was perhaps more of a shock to economists because of her academic background in
political science than because of her gender).47
Giáo sư kinh tế Levitt, chủ nhân của huy chương
Clark viết: “Câu trả lời ngắn gọn là ngành kinh tế ghét giải thưởng cho Ostrom còn hơn cả dân
Cộng hòa ghét giải Nobel Hòa bình cho Obama. Các nhà kinh tế muốn đó là giải thưởng cho các
nhà kinh tế”. (So the short answer is that the economics profession is going to hate the prize
going to Ostrom even more than Republicans hated the Peace prize going to Obama. Economists
want this to be an economists‟ prize).48
Trên thực tế, giới nghiên cứu kinh tế không gọi bà
Ostrom là nhà kinh tế trên các văn bản chính thức mà chỉ gọi là phụ nữ đầu tiên đoạt giải Nobel,
do bà không có bằng tiến sỹ kinh tế và không phục vụ trong ngành kinh tế, mặc dù bà xuất bản
khá nhiều bài trên các tạp chí kinh tế chất lượng cao. Điều này cũng cho thấy giới kinh tế quốc tế
không coi trường hành chính công SPEA, Indiana, nơi bà Ostrom làm việc là một môi trường
nghiên cứu kinh tế, và không coi bà này là nhà kinh tế. Tất cả những điều này có lý do từ những
bê bối của nhóm ngành chính trị, và thành công của một mình bà Ostrom không thể che lấp nổi.
Giáo sư kinh tế Robert Shiller, chủ nhân của giải Nobel kinh tế 2013 cũng nói: “Vấn đề là một
khi chúng ta chú trọng vào chính sách, thì sẽ không còn chỗ cho khoa học. Yếu tố chính trị đang
len lỏi vào nghiên cứu kinh tế, và dư luận lại đánh giá cao các động tác giả mang tính chính
trị.”49
47 http://money.cnn.com/2009/10/12/news/economy/nobel_economics/index.htm 48http://freakonomics.com/2009/10/12/what-this-years-nobel-prize-in-economics-says-about-the-nobel-prize-in-
economics/ 49
http://www.phantichkinhte123.com/2014/11/kinh-te-hoc-co-phai-la-mon-khoa-hoc-hay.html
19
Xin nói thêm. ông Trần Ngọc Anh đang làm việc ở trường hành chính công SPEA, Indiana
này. Bà Ostrom không được coi là nhà kinh tế (đích thực) thì đương nhiên ông Trần Ngọc
Anh và ông Vũ Minh Khương cũng vâỵ.
Cũng cần lưu ý rằng, đôi khi ở một số nơi, bên trong trường chính sách công/hành chính công lại
có khoa kinh tế. Những nơi này có mục tiêu phát triển tương tự như khoa kinh tế ở các nơi khác
thì mới được phép mang tên Khoa kinh tế. (Ví dụ Khoa Kinh tế của Trường Chính sách công
Crawford, đại học quốc gia Australia). Những khoa như vậy quy tụ một số lượng đủ lớn các tiến
sỹ kinh tế và có mục tiêu phát triển tương tự như khoa kinh tế ở các nơi khác thì mới được phép
mang tên Khoa kinh tế. Những khoa như vậy được thừa nhận là những khoa thuộc ngành kinh tế.
Vấn đề khiến cho giới kinh tế quốc tế ác cảm với nhóm ngành chính trị là ở chỗ sự nhập nhèm
giữa mục tiêu chính trị với các mục tiêu khoa học. Lấy ví dụ: nếu theo phân tích số liệu, xuất
khẩu một mặt hàng X nào đó sang Hoa kỳ không có lợi bằng sang châu Âu thì cần phải khuyến
khích lãnh đạo quốc gia xuất khẩu sang châu Âu chứ không phải Hoa kỳ. Nhưng những người có
não trạng chính trị ăn lương của Hoa kỳ có thể sẽ bóp méo hoặc lờ đi kết quả đó, thậm chí
“massage số liệu” để đảo ngược kết quả, xuất khẩu sang sang Hoa kỳ có lợi hơn.
Đấy là chưa kể những đàm tiếu về việc đánh bóng hồ sơ lý lịch để cho các sinh viên và học giả
của họ thuận tiện trong các hoạt động chính trị, gây ảnh hưởng lên nguyên thủ quốc gia. Việc
Dale Jorgenson nói về ông Vũ Minh Khương là “Một trong những nghiên cứu sinh Ph.D xuất
sắc nhất của Havard” là một minh chứng về sự đánh bóng, thiếu liêm sỷ bởi trên thực tế ông
Minh Khương là một nhà nghiên cứu xoàng xĩnh (xem chương XI).
Thông thường, tìm các bằng chứng đánh bóng khác không dễ bởi…giới chính trị gia thường cố
gắng che giấu. Tuy nhiên riêng chuyện cách thức tuyển chọn ưu tiên tố chất chính trị của các
trường hành chính công (như Kennedy, Harvard) so với ưu tiên tuyển chọn năng lực học vấn,
năng lực nghiên cứu, năng lực toán học của ngành kinh tế, và những chính sách ưu đãi đối với
Việt nam đã quá rõ ràng của các trường hành chính công khiến cho các nhà kinh tế Việt nam
cảm thấy bất mãn, không muốn bị nhập nhèm. Bởi lẽ, trong khi họ phấn đấu cạnh tranh cật lực
theo những tiêu chí mang tính học thuật của ngành kinh tế, thì cách thức tuyển dụng của ngành
hành chính công/chính sách công là một dạng khuyến khích “leo lên bằng chính trị”, nghĩa là đi
ngược lại những nỗ lực của họ.
VI. BỐN NHÀ TƯ VẤN HẢI NGOẠI: KHÔNG CÓ CHUYÊN
MÔN VỀ CÁC LĨNH VỰC KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM, CHẤT
LƯỢNG KÉM, NGUY CƠ NGOẠI BANG THAO TÚNG
20
Chúng tôi đồng ý với kiến của PGS Phạm Thế Anh, trưởng bộ môn Kinh tế Vĩ mô, đại học kinh
tế Quốc dân: “Việc lựa chọn thành viên tổ tư phải đa dạng về chuyên môn đối với những mảng mà Việt
Nam đang cần xử lý, không cần những chức danh màu mè, và đặc biệt không cần những chuyên gia chém
gió, hổng về kiến thức kinh tế hay thất bại trong thực tiễn. Nhiều thành viên có cùng chuyên môn và hời hợt thì cũng không khác gì việc chọn thành viên không có chuyên môn gì cả. Căn bệnh hình thức ở Việt
Nam khiến người ta cho rằng đã là chuyên gia/giáo sư thì phải biết tuốt hoặc đôi khi một số các chuyên
gia/giáo sư cũng phải gồng mình tỏ ra biết tuốt.”50
Dưới đây chúng tôi sẽ phân tích 04 vị chuyên gia
hải ngoại trong Tổ Tư vấn Kinh tế không có chuyên môn về những lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng
điểm hoặc chất lượng kém, thậm chí vô cùng kém đến mức giới kinh tế trong nước cũng coi
thường bởi nhiều nhà kinh tế trong nước còn có chất lượng nghiên cứu tốt hơn.
6.1. Hai nhà kinh tế giả cầy Vũ Minh Khương và Trần Ngọc Anh
Hai ông này đều tốt nghiệp tiến sỹ Chính sách Công từ Trường Hành chính công Harvard51
, và
đều làm ở các trường hành chính công: Lý Quang Diệu (NUS, Singapore) và SPEA-Indiana
(Hoa kỳ). Chính sách công không thuộc nhóm ngành kinh tế mà thuộc nhóm ngành chính
trị. Có nghĩa là cả bằng cấp và nơi làm việc của hai ông này đều không phải là kinh tế. Điều
đó dẫn đến việc thiếu hụt nghiêm trọng kiến thức về kinh tế (ở bậc nghiên cứu), chưa kể
còn nguy cơ trộn kiến thức chính trị-hành chính vào kiến thức kinh tế. Ngoài ra, những
hiểu biết của họ còn lẫn lộn thế giới quan, não trạng chính trị vốn là thứ xung khắc với
ngành kinh tế.
Cả hai ông này đều không có thâm niên làm việc ở các khoa/viện/trường kinh tế uy tín
quốc tế. Kinh nghiệm thỉnh giảng tài chính ở trường Suffolk, (một trường ít uy tín và không đào
tạo PhD ở Hoa kỳ), của ông Vũ Minh Khương, không thể được tính là thâm niên làm việc ở các
sở nghiên cứu kinh tế uy tín, bởi điều đó không cung cấp cho ông ta những hiểu biết về môi
trường nghiên cứu kinh tế. Về các kinh nghiệm làm tư vấn cho các dự án của các tổ chức quốc
tế của cả hai ông này: tư vấn dự án cho các tổ chức quốc tế có rất nhiều cấp độ, và không đảm
bảo năng lực nghiên cứu như các nhân viên chính thức của các tổ chức đó. Có nhiều công việc
chỉ đòi hỏi năng tư vấn cấp tỉnh, huyện, chứ không phải cấp quốc gia. Lấy ví dụ, World bank
thường tuyển những chuyên gia kinh tế giỏi để tiến hành những nghiên cứu kinh tế quan trọng
nhất và giám sát các tư vấn là các cộng tác viên. Hơn nữa nhiều khả năng các ông này làm tư vấn
dự án hành chính, chính trị hoặc là các dự án kinh tế sơ đẳng chỉ đòi hỏi trình độ thạc sỹ chứ lý
lịch như vậy rất khó tin là được tuyển làm tư vấn kinh tế cái gì đó đòi hỏi trình độ cao. Đây là
điều mà những người không làm việc ở hệ thống hàn lâm có thể cảm thấy khó hiểu.
50 Ông Thế Anh tốt nghiệp tiến sỹ từ đại học Manchester, Anh và làm hậu tiến sỹ ở đại học Columbia, Hoa kỳ. Bài
viết của ông ở đây: https://www.facebook.com/theanh98/posts/10155443156727457 51 Như đã nêu ở chương V, Khoa kinh tế đại học Harvard chỉ có 1 chương trình duy nhất „Ph.D. in Political
Economy and Government‟ liên kết với trường hành chính công Kennedy, Harvard. Và do vậy chỉ duy nhất có
chương trình này của trường Kennedy được công nhận thuộc nhóm ngành kinh tế, bởi được các giáo sư của Khoa
kinh tế tham gia tuyển chọn nghiên cứu sinh và thiết kế chương trình giảng dạy. Chương trình PhD in Public Policy
của hai ông Trần Ngọc Anh và Vũ Minh Khương không liên quan gì đến Khoa kinh tế và không được xếp loại vào
nhóm ngành kinh tế, mà thuộc nhóm ngành Chính sách công/Hành chính công/Quản lý công như tất cả các nơi khác.
21
Ở Hoa kỳ ngành chính sách công rất khuyến khích sinh viên, giảng viên tham gia hoạt động thực
tiễn để tích lũy kinh nghiệm làm việc và kinh nghiệm lãnh đạo. Kinh nghiệm thực tiễn của các
học giả các ngành này thường nhiều hơn các tiến sỹ kinh tế khá nhiều. Tuy nhiên, Hội đồng Cố
vấn kinh tế Hoa kỳ chỉ lựa chọn các tiến sỹ nhóm ngành kinh tế hoặc tiến sỹ ngành khác
nhưng phải có kinh nghiệm nhiều năm làm việc ở các cơ sở nghiên cứu kinh tế của Hoa kỳ
bởi ngành kinh tế từ lúc tuyển nghiên cứu sinh chỉ tuyển những người năng lực toán học
tốt và năng lực trí tuệ/học vấn cao, những yếu tố cần thiết để xử lý số liệu và giải quyết các
vấn đề kinh tế phức tạp của CEA chứ không cần những năng lực chính trị hay kinh
nghiệm tư vấn ấy.
Hai ông này đều có bài báo trên các tạp chí kinh tế. Tuy nhiên, không nên nhầm lẫn rằng
có bài báo xuất bản trên các tạp chí kinh tế, hoặc có giáo sư hướng dẫn là tiến sỹ kinh tế là
đảm bảo đó là nhà kinh tế. Các tạp chí kinh tế đăng nhiều bài của nhiều ngành khác nhau chỉ
cần dính dáng một chút đến kinh tế. Có nhiều tiến sỹ kinh tế làm việc ở các khoa luật, y tế cộng
đồng, chính sách công, giáo dục, tâm lý học, thậm chí lịch sử, xã hội học, và họ hướng dẫn
nghiên cứu sinh ở các khoa/trường đó. Nhưng tấm bằng tiến sỹ là phân loại chính xác nghiên cứu
sinh đó thuộc về ngành nào. (Nên nhớ bà Ostrom cũng không được giới kinh tế quốc tế coi là
nhà kinh tế mặc dù bà này xuất bản nhiều bài báo trên các tạp chí chất lượng rất cao).
Quan trọng hơn cả, cả hai ông Minh Khương và Ngọc Anh là các nhà nghiên cứu chính trị
và hành chính điển hình và không có chuyên môn về các lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng điểm
của quốc gia.
Cả hai không thể so sánh với Sheila Olmstead (CEA của Obama) và Joel Zinberg (CEA
của Trump) bởi CEA không có nhóm hải ngoại. Đặc biệt, Olmstead và Zinberd chỉ làm
nhiệm vụ hỗ trợ cho 3 thành viên hội đồng CEA trong các lĩnh vực Kinh tế trọng điểm của
Hoa kỳ: Kinh tế Tài nguyên& Môi trường và Kinh tế Sức khỏe, chứ không được vị trí
“trọng vọng” như nhóm hải ngoại của Tổ Tư vấn. Olmstead và Zinberg đều là người “trong
nước”, sống và làm việc tại Hoa kỳ, am hiểu rõ thực tiễn của Hoa kỳ. Họ có thể không cần thiết
phải tham vấn ai khác bởi chính họ là chuyên gia cả lý thuyết lẫn thực hành về lĩnh vực của họ,
kinh tế tài nguyên môi trường và chính sách Y tế. Olmstead cũng có bằng tiến sỹ Chính sách
Công, nhưng đã có 8 năm làm việc ở Khoa Kinh tế, Trường Lâm nghiệp và Môi trường, Đại học
Yale (một trong 7 đại học hàng đầu của Hoa kỳ về kinh tế) và là chuyên gia nghiên cứu về Chính
sách Tài nguyên và Môi trường, một lĩnh vực vĩ mô quan trọng của Hoa kỳ, với nhiều nghiên
cứu chất lượng cao (xuất bản trên các tạp chí Journal of Economic Perspectives, Journal of
Urban Economics, Journal of Business and Economic Statistics, Journal of Environmental
Economics and Management, Environmental and Resource Economics, Annual Review of
Environment and Rersources, American Economic Review - P&P, Land Economics). Zinberg là
tiến sỹ luật và đã có nhiều bài báo trên tạp chí Journal of the American Medical Association, là
tạp chí hàng đầu của ngành y.
Trần Ngọc Anh:52
Sở trường nghiên cứu của ông Ngọc Anh là Minh bạch chính phủ,
Tham nhũng, Mạng lưới Chính trị, và Mối quan hệ giữa Trốn thuế và Tham nhũng, và
52 https://spea.indiana.edu/faculty-research/directory/profiles/faculty/full-time/tran-anh.html
22
Thực thi Luật pháp. Đây không phải là những lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng điểm, mà thiên
về chính trị và hành chính. Ở Việt nam, những lĩnh vực sở trường của ông Ngọc Anh thuộc về
Ban Chỉ đạo Trung Ương về Phòng Chống Tham nhũng (BCDDTWWPCTN) do Bộ Chính trị
đứng đầu là Tổng bí thư phụ trách. Ban này đảm bảo việc thực hiện, kiểm tra, giám sát các vấn
đề liên quan đến tham nhũng và minh bạch chính phủ, mạng lưới chính trị chứ không phải các cơ
quan kinh tế. BCĐTWPCTN giữ vai trò chỉ đạo và trực tiếp xử lý các vụ án lớn. Thủ tướng chỉ
phụ trách các vụ án còn lại và các vấn đề liên quan đến phòng chống tham nhũng ít nghiêm trọng
hơn. Một số cơ quan khác thuộc chính phủ cũng liên quan đến các vấn đề này: Bộ nội vụ, Bộ
Công an, Bộ tư pháp, Hội đồng Tư vấn Cải cách Thủ tục Hành chính, Ban Chỉ đạo Cải cách
Hành chính của Chính phủ. Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia.
Nhưng một điểu rõ ràng là ông Ngọc Anh ngồi nhầm chỗ trong Tổ Tư vấn kinh tế bởi các học
giả đến từ các cơ quan hành chính-chính trị đó mới quan tâm, có kinh nghiệm về các vấn đề sở
trường của ông Ngọc Anh, chứ không phải các nhà kinh tế trong Tổ Tư vấn. Do ông ta sống chủ
yếu ở nước ngoài, rất ít kinh nghiệm thực tiễn ở Việt nam, (đặc biệt các lĩnh vực này đều nhạy
cảm, ít thông tin công khai), ông ta cần trao đổi thường xuyên với các học giả đến từ các cơ quan
hành chính, chính trị kể trên, để điều chỉnh các đề xuất cho phù hợp với hoàn cảnh Việt nam, chứ
không phải với các nhà kinh tế trong Tổ Tư vấn. Các nhà kinh tế trong Tổ Tư vấn cũng chủ yếu
quan hệ với các cơ quan chuyên trách về kinh tế chứ không có quan hệ gì mấy với các cơ quan
hành chính & chính trị. (Giáo sư Nguyễn Xuân Thắng trong Tổ Tư vấn Kinh tế được cử làm
giám đốc Hoc viện Chính trị Quốc gia mới được 1 năm. Đấy là 1 vị trí quản lý. Nhưng kỳ thực
ông ấy là tiến sỹ kinh tế và cả đời nghiên cứu kinh tế ở các cơ quan kinh tế chứ có kinh nghiệm
gì đáng kể về hành chính và chính trị. Phó giáo sư Trần Hoàng Ngân cũng vậy).
Hơn nữa, đây là Tổ Tư vấn Kinh tế, chính phủ mời học giả từ hải ngoại về để Tư vấn Kinh
tế chứ mời về tư vấn Hành chính & Chính trị thì cho vào Tổ Kinh tế làm gì, nói cho ai
nghe, thảo luận với ai??? Ai kiểm soát được tính đúng sai trong phát biểu của ông ta??
Không nên nhầm lẫn Nghiên cứu về Trốn thuế của ông Trần Ngọc Anh với Nghiên cứu về
Chính sách Thuế và Quản lý, Hành chính Thuế (là những lĩnh vực trọng điểm của quốc gia,
và là sở trường chuyên môn của những người giáo sư Trần Nam Bình, giáo sư của ĐH New
South Wales, trường có xếp hạng rất cao trên thế giới về kinh doanh (# 2 của Úc và #23 của thế
giới). Ông Ngọc Anh cũng có sở đoản là một số nghiên cứu liên quan đến kinh tế phát triển,
nhưng chất lượng rất kém khiến ông ta không khoe trên website vì các nhà kinh tế sẽ chê cười.
Nhiều người trong nước còn nghiên cứu lĩnh vực này tốt hơn ông ta, chưa nói đến những người ở
nước ngoài. Ông Ngọc Anh không có nghiên cứu gì về những lĩnh vực kinh tế vỹ mô trọng
điểm của Việt nam.
Thật ra, các lĩnh vực Minh Bạch Chính Phủ, Chống Tham Nhũng, Mạng chính trị, Thúc đẩy
Thực thi luật pháp đều là những lĩnh vực đa ngành, có nhiều người ở nhiều ngành khác nhau
(Luật, Kinh tế, Khoa học Chính trị, Triết học, Lịch sử, Giáo dục, Tâm lý học, Xã hội học…)
nghiên cứu. Vì vậy, không nên nghĩ rằng những nghiên cứu của ông Ngọc Anh là Kinh tế.
Trong ngành kinh tế, những người nghiên cứu kinh tế chính trị cũng nghiên cứu những
thứ đó. Có một nhà kinh tế gốc Việt cũng nghiên cứu hầu như tất cả những lĩnh vực sở
trường, sở đoản của ông Ngọc Anh, nhưng vượt xa ông ta về mọi mặt: năng lực học vấn,
23
năng lực toán học, năng lực nghiên cứu. Đó là PGS Đỗ Quốc Anh, một trong những nhà
kinh tế hàng đầu của Việt nam của thế hệ có thâm niên nghiên cứu dưới 15 năm: huy
chương vàng Olympic Toán Quốc tế (IMO) 98, với số điểm tuyệt đối 42/42, một trong 10 Gương
mặt Tiêu biểu Việt nam năm 1997, tốt nghiệp tiến sỹ Kinh tế Harvard, hiện là phó giáo sư khoa
Kinh tế, trường Khoa Học và Chính trị Paris (top 3 về Kinh tế ở Pháp), đã có 2 bài báo trên các
tạp chí TOP5 kinh tế, 1 bài trên tạp chí số 1 của châu Âu, và một số bài báo chất lượng cao
khác. Về thâm niên nghiên cứu, ông Quốc Anh tốt nghiệp tiến sỹ trước ông Ngọc Anh 1 năm.
Tuy nhiên ông Đỗ Quốc Anh cũng được các nhà kinh tế cho rằng phù hợp làm tư vấn cho các cơ
quan hành chính & chính trị Việt nam chứ không phải Tổ Tư vấn Kinh tế cho Thủ tướng.
Những đề xuất của ông Ngọc Anh “cần xây dựng bảng theo dõi thực hiện nhiệm vụ của bộ,
ngành, địa phương, là công cụ để “cân đo đong đếm” việc thực thi chính sách, chỉ đạo điều
hành của Chính phủ, Thủ tướng.”53
là những đóng góp về cải cách hành chính chứ không phải
kinh tế. Hẳn nhiên, với nền tảng học vấn và kinh nghiệm làm việc ở trường hành chính công,
hiểu biết của ông Ngọc Anh về kinh tế rất hạn chế cho nên không thể đóng góp ý kiến gì hữu ích
về kinh tế.
Ngành kinh tế không thể trả giá cho các hoạt động chính trị của ông Trần Ngọc Anh. Ông
Ngọc Anh tham gia nhiều hoạt động chính trị (hợp tác với các cơ quan Việt nam hỗ trợ tuyển các
nhà lãnh đạo trẻ và lãnh đạo có thâm niên, và các hoạt động khác với các cơ quan Việt nam), và
ra sức thể hiện năng lực lãnh đạo (thành lập và có chân trong nhiều hội nhóm, mạng lưới, sáng
kiến, mặc dù nhiều trong số đó chỉ là hình thức không có hoạt động gì đáng kể). Đấy là những
thứ mà ngành chính sách công/hành chính công của ông ta khuyến khích. Và đấy cũng là lý do
có những nghi ngờ liệu thành tích nghiên cứu của ông Ngọc Anh có bao nhiêu phần trăm là do
chính trị “can thiệp”?
Năng lực học vấn của ông Ngọc Anh thuộc dạng làng nhàng. Theo CV công khai trên trang
website của trường SPEA, đại học Indiana, ông Ngọc Anh học thạc sỹ nhưng không được loại
distinction của Úc (loại cao nhất là high distinction), nếu xin học tiến sỹ kinh tế thì không biết
cuộc đời đi về đâu, bởi lẽ ngay cả các trường xếp hạng thấp của Hoa kỳ cũng có những người
thạc sỹ loại distinction và high distinction.
Ông Ngọc Anh không có bằng tiến sỹ kinh tế lẫn thâm niên làm việc trong các ngành kinh tế.
Khả năng kết nối, hội nhập với giới kinh tế quốc tế của ông ta do vậy vô cùng kém, do ngành
kinh tế có sự tự tôn nghề nghiệp.
Hình ảnh ông Ngọc Anh khiến người ta gợi nhớ đến những nhân vật leo lên bằng chính trị,
vốn là những hình mẫu không được ưa chuộng trong ngành kinh tế. Ngành kinh tế chỉ trân
trọng và khuyến khích những người trong độ tuổi nghiên cứu sung sức (khoảng dưới 55) cần
mẫn say mê nghiên cứu để đạt được những bài báo kết quả cao nhất. Những hoạt động của ông
Ngọc Anh lẽ ra chỉ nên giúp ông ta trở thành Tư vấn chính trị và hành chính, chứ không phải là
chiếm ghế Tư vấn kinh tế của các nhà kinh tế tài năng. Hình ảnh ông Ngọc Anh trong Tổ Tư vấn
Kinh tế làm vấy bẩn hình ảnh của các nhà kinh tế chân chính.
53
http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/doanh-nhan/chan-dung-to-tu-van-kinh-te-cua-thu-tuong-387391.html
24
Vũ Minh Khương:54
các nghiên cứu của ông Minh Khương thuộc lĩnh vực hành chính
và chính trị mới chỉ đạt trình độ nghiên cứu hành chính công/quản lý công chứ chưa đạt
được chất lượng nghiên cứu kinh tế đúng nghĩa. Chỗ phù hợp nhất cho ông ta là tư vấn
hành chính/chính trị cho những nơi như Bộ Chính trị, Bộ Nội vụ, Học viện Chính trị và
Hành chính Quốc gia, Ủy ban Nhân dân các cấp, Hội đồng Tư vấn Cải cách Thủ tục Hành
chính, Ban Chỉ đạo TW về Cải cách Hành chính. Đa số các nghiên cứu của ông ta xuất bản
trên các tạp chí chính sách chất lượng thấp, nơi độc giả chủ yếu là các nhà chính trị/hành chính
công giống như ông ta đọc và bình duyệt, chứ không phải các nhà kinh tế.
Mặc dù trong bảng xếp hạng tạp chí về chính sách kinh tế, các tạp chí kinh tế và một số tạp
chí chính sách xếp chung. Tuy nhiên tất cả các tạp chí hàng đầu đều là các tạp chí kinh tế,
trong khi đa số các tạp chí chính sách xếp hạng khá thấp. Những người tốt nghiệp tiến sỹ
chính sách công xuất sắc nhất (ví dụ David Autor, người đã được nhận vào làm giáo sư khoa
kinh tế của MIT ngay sau khi tốt nghiệp tiến sỹ) cũng xuất bản những nghiên cứu chính sách trên
các tạp chí kinh tế hàng đầu chứ không xuất bản ở các tạp chí chính sách. (Ông Autor có 10 bài
trên các tạp chí TOP5 của ngành kinh tế (American Economic Review, Quartely Journal of
Economics, Journal of Political Economy), và hàng chục bài báo kinh tế top general, top field
chất lượng cao khác.)
Bài báo tốt nhất ông Vũ Minh Khương xuất bản trên tạp chí Journal of Policy Analysis
and Management (một tạp chỉ điển hình của ngành hành chính công chứ không phải là tạp
chí kinh tế) nghiên cứu về Lý thuyết Trò chơi chứ không liên quan gì đến các vấn đề kinh
tế vĩ mô trọng điểm của Việt nam. Ông Khương cũng có một vài bài báo trên các tạp chí kinh
tế chất lượng rất thấp, nơi chỉ được các nhà kinh tế chất lượng thấp quan tâm, bình duyệt.
.
Các trường kinh tế có uy tín trên thế giới đặc biệt không khuyến khích các bài trên các tạp chí
chất lượng thấp bởi các bài báo đó thường có kỹ thuật tính toán không tốt, dẫn đến kết quả không
đáng tin cậy. Các nhà kinh tế của các trường đó rất ít khi đọc và càng ít khi bình duyệt các bài
báo đó. Đấy là lý do số lượng bài báo xuất bản trung bình của các học giả kinh tế tương đối thấp
(0.5-2 bài/năm), đặc biệt là trong 20 năm đầu tiên sau khi tốt nghiệp tiến sỹ.
Nếu xin việc trong ngành kinh tế, ông Minh Khương khó có cơ hội xin vào bất kỳ khoa
kinh tế nào có đào tạo tiến sỹ ở Hoa kỳ được Bộ Giáo dục Việt nam công nhận bởi chất
lượng nghiên cứu kém, do số bài báo trên các tạp chí kinh tế của ông Khương khá ít và
không có bài nào đạt mức second tier top field. (Bộ Giáo dục Việt nam công nhận khoảng 250
trường như vậy của Hoa kỳ). Thành tích nghiên cứu kinh tế của ông Minh Khương kém đến
mức nhiều người ở trong nước còn có thành tích hơn ông ta, chưa nói đến những người ở
hải ngoại. Có thể khẳng định ông Khương không có khả năng nghiên cứu kinh tế vĩ mô có
chất lượng.
Ông Khương không có bằng tiến sỹ kinh tế lẫn thâm niên làm việc trong các ngành kinh tế.
Nghĩa là giống như ông Trần Ngọc Anh, khả năng kết nối với giới kinh tế quốc tế của ông ta vô
cùng kém, do ngành kinh tế có sự tự tôn nghề nghiệp.
54
https://lkyspp.nus.edu.sg/faculty/vu-minh-khuong/
25
Thành tích nghiên cứu chính trị, hành chính của ông Khương cũng chỉ làng nhàng so với
thế giới. Câu nói của ông Dale Jorgenson rằng ông Khương là "một trong những nghiên
cứu sinh Ph.D xuất sắc nhất của Havard" chỉ là sự dối trá thiếu liêm sỷ, bởi không có
nghiên cứu sinh xuất sắc nào mà thành tích xuất bản tồi tệ như thế cả. Những người tốt nghiệp
tiến sỹ chính sách công giỏi nhất nghiên cứu kinh tế (ví dụ như David Autor, người cũng có bằng
tiến sỹ chính sách công từ trường Kennedy-Harvard, và được nhận ngay vào khoa kinh tế của
MIT sau khi tốt nghiệp tiến sỹ) vẫn xuất bản những nghiên cứu chính sách của họ trên các tạp
chí hàng đầu về kinh tế. So sánh ông Minh Khương với David Autor là một sự hổ thẹn lớn. So
sánh ông Minh Khương với các giáo sư kinh tế ở Khoa kinh tế đại học NUS (có nghĩa là cùng
trường NUS nhưng khác khoa với ông Khương) cũng là sự hổ thẹn. Ông Jorgenson đã làm việc ở
trường Hành chính Công Kennedy-Harvard 21 năm. Nếu quả thật ông ta nói như vậy thì đó lại là
một bằng chứng về não trạng chính trị, không đáng tin cậy của các giáo sư trường đó. Có thể lý
giải, ông Jorgenson phải phục vụ sứ mạng chính trị của trường Kennedy. Ông Jorgenson không
thể không biết về trường hợp quá nổi tiếng như David Autor.
Các bài báo của ông Minh Khương viết chung với ông Jorgenson nhưng xuất bản trên các
tạp chí chất lượng thấp chứng tỏ năng lực nghiên cứu của ông Minh Khương rất kém. Ông
Jorgenson là giáo sư kinh tế nổi tiếng. Thông thường, khi có ông Jorgenson là đồng tác giả, bài
báo của ông Minh Khương sẽ dễ đăng hơn bài của những người khác cùng chất lượng hoặc thậm
chí chất lượng cao hơn 1 chút, bởi các tòa báo sẽ nể nang Jorgenson. Vậy mà các bài báo này của
ông Minh Khương đều đăng trên các tạp chí chất lượng thấp, và thuộc dạng tạp chí không được
sử dụng để xét tuyển giáo sư ở các trường nghiên cứu ở Hoa kỳ, kể cả các trường không được
xếp hạng. Ông Jorgenson nói về ông Minh Khương "một trong những nghiên cứu sinh Ph.D xuất
sắc nhất của Havard” khi ông Khương vừa tốt nghiệp tiến sỹ. Nhưng suốt thời gian sau đó và
đến tận bây giờ, chất lượng nghiên cứu kinh tế của ông Minh Khương vẫn rất kém như vậy, và
đó là lời nói dối thiếu liêm sỷ.
Những ý kiến của ông Minh Khương trong buổi họp Tổ Tư vấn kinh tế là những đề xuất về
cải cách hành chính, chứ không phải kinh tế. Ông Minh Khương nói thế này: "Mục tiêu và là động lực đầu tiên để chúng ta có đủ quả cảm, mạnh dạn cải cách, đó là tiệt trừ tham nhũng và trọng dụng nhân tài", TS. Vũ Minh Khương nhấn mạnh. Thứ hai, theo ông Khương, Thủ tướng cần đưa ra những câu hỏi và đặt hàng có tính chiến lược cao. Nó cũng là thông điệp cho toàn xã hội về sự coi trọng trí tuệ, tầm nhìn.” "Điểm quan trọng để nâng tầm cho công cuộc phát triển ở Việt Nam là tăng tính minh bạch. Rất nhiều “điểm nghẽn” tăng trưởng sẽ biến mất nếu các “điểm tối” (do sự thiếu minh bạch tạo ra) được xóa bỏ", ông nói. Cũng theo ông Khương, 15 thành viên của Tổ tư vấn cần có chiến lược cho chương trình công tác. Tầm nhìn xa, dũng khí và biết dựa vào nguồn lực xã hội (doanh nghiệp, lớp trẻ...) phải là những phẩm chất then chốt mà mỗi thành viên trong tổ cần có và không ngừng hun đúc...”.
Cũng giống như ông Ngọc Anh, nền tảng học vấn cũng như kinh nghiệm làm việc hành chính
công của ông Minh Khương khiến cho khả năng đóng góp ý kiến về kinh tế rất hạn chế.
Ông Minh Khương đã viết rất nhiều đề xuất trên các tờ báo mạng về các giải pháp chính
trị, hành chính cho Việt nam, thậm chí từng bóng gió thổ lộ hoài bão trở thành thủ tướng
Việt nam như Chu Dung Cơ của Trung Quốc.55
Tuy nhiên, cũng giống như Trần Ngọc Anh,
ngành kinh tế không thể trả giá cho các hoạt động chính trị của ông Minh Khương. Những nỗ lực
55
http://tuoitre.vn/hoc-gi-tu-lo-trinh-di-den-phon-vinh-cua-nguoi-tq-89690.htm
26
của ông ta lẽ ra chỉ nên đem lại cho ông ta chiếc ghế tư vấn chính trị và hành chính chứ không
phải chiếm ghế tư vấn kinh tế của các nhà kinh tế tài năng.
Nói tóm lại cả hai ông Trần Ngọc Anh và Vũ Minh Khương là hai nhà hoạt động chính trị điển
hình, không có bằng tiến sỹ kinh tế, không có thâm niên làm việc ở các cơ sở nghiên cứu kinh
tế, (nghĩa là không được một cơ sở nghiên cứu nghiên cứu kinh tế nào trên thế giới thừa nhận là
người của họ). Cả hai do vậy thiếu hụt trầm trọng kiến thức kinh tế. Không những vậy còn lẫn
lộn kiến thức và não trạng chính trị khi tư duy về kinh tế.
Khả năng kết nối của họ với ngành kinh tế thế giới siêu kém bởi giới kinh tế quốc tế không
hứng thú chia sẻ nhiều thông tin nội bộ với những người không có bằng tiến sỹ kinh tế và
không phục vụ trong ngành kinh tế như vậy. Ngành nào cũng có sự tự tôn nghề nghiệp. Đấy là
chưa kể bản chất chính trị của ngành của họ rất xung khắc với ngành kinh tế.
Quan trọng hơn cả, lĩnh vực nghiên cứu sở trường của hai ông này là những lĩnh vực chính trị
và hành chính điển hình, không có chuyên môn về những vấn đề kinh tế vĩ mô trọng điểm của
quốc gia và chất lượng nghiên cứu liên quan đến kinh tế phát triển yếu kém đến mức đáng xấu
hổ. Chỗ phù hợp nhất với họ là tư vấn cho các cơ quan chuyên trách về hành chính-chính trị bởi
lẽ họ sống chủ yếu ở nước ngoài rất thiếu kinh nghiệm thực tiễn ở Việt nam, họ cần trao đổi
thường xuyên với các học giả ở các cơ quan đó để điều chỉnh các đề xuất hành chính, chính trị
sao cho phù hợp với hoàn cảnh Việt nam chứ không phải với các tiến sỹ kinh tế trong Tổ Tư
vấn Kinh tế. (Đặc biệt, các lĩnh vực hành chính, chính trị ở Việt nam đều nhạy cảm, vì là có bản
chất chính trị, rất ít thông tin mở). Các tiến sỹ kinh tế không được đào tạo và không có kinh
nghiệm thực tiễn về các lĩnh vực đó. Họ cũng có các mối quan hệ chủ yếu với các cơ quan
chuyên trách về kinh tế chứ không phải với các cơ quan hành chính, chính trị.
Có nhiều nhà kinh tế giỏi hơn và phù hợp hơn họ rất nhiều cho chiếc ghế Tư vấn kinh tế cho
Thủ tướng, thậm chí các nhà kinh tế ở trong nước còn phù hợp hơn họ cả về nền tảng học vấn,
chất lượng nghiên cứu, và chuyên môn về lĩnh vực nghiên cứu kinh tế vĩ mô trọng điểm, chưa
nói đến những người ở nước ngoài.
Những đề xuất của cả hai ông Ngọc Anh và Minh Khương trong buổi họp đầu tiên của Tổ Tư
vấn là về cải cách hành chính chứ không phải kinh tế. Chỗ phù hợp nhất của họ là Tư vấn Chính
trị và Hành chính cho Bộ Chính Trị, Ban Chỉ đạo Trung Ương về Phòng Chống Tham nhũng,
Hội đồng Tư vấn Cải cách Thủ tục Hành chính, Ban Chỉ đạo Cải cách Hành chính, Bộ Nội Vụ,
Học viện Chính trị và Hành Chính Quốc gia, Ủy ban Nhân dân các cấp, chứ không phải Tư vấn
Kinh tế. Việc họ vào Tổ Tư vấn Kinh tế là chiếm chỗ của các nhà kinh tế tài năng..
Nên lưu ý rằng cả 3 thành viên hội đồng CEA của Hoa kỳ đều có bằng tiến sỹ nhóm ngành kinh
tế và thâm niên làm việc trong ngành kinh tế để thấy hồ sơ của hai ông Ngọc Anh và Minh
Khương quá ư không phù hợp với Tổ Tư vấn Kinh tế.
Không thể phủ nhận rằng một số người trên thế giới tốt nghiệp tiến sỹ chính sách công hoặc
tiến sỹ các ngành ngoài khối kinh tế nhưng rất giỏi về các lĩnh vực kinh tế vỹ mô quan trọng
của nước họ. Thông thường những người phù hợp với ngành kinh tế sẽ nhanh chóng xin việc ở
27
các khoa/viện/trường kinh tế. Tuy nhiên, cả hai ông Trần Ngọc Anh và Vũ Minh Khương thì
không. Chỗ phù hợp nhất với họ là các trường hành chính công đúng như hiện nay. Họ bon
chen chiếc ghế Tư vấn Kinh tế chỉ vì ngành chính sách công/hành chính sách công của họ
khuyến khích hoạt động chính trị, thể hiện tinh thần lãnh đạo, và gây ảnh hưởng chính trị lên
các nguyên thủ quốc gia.
6.2. Nhà Quốc tế học Trần Văn Thọ và nhà kinh tế đẳng cấp Đông-Nam-Á
Nguyễn Đức Khương
Hai ông này là tiến sỹ kinh tế và tài chính. Tuy nhiên ông Thọ không phải là giáo sư kinh tế mà
là giáo sư Quốc tế học (chuyên về Châu Á và Việt nam học), bởi ông ta không làm việc ở trường
Kinh tế hay trường Thương mại mà làm ở trường Khoa học Xã hội của đại học Waseda, và
không biết nghiên cứu kinh tế. Mặc dù đã làm nghiên cứu 24 năm, ông Thọ không đạt tiêu chuẩn
phó giáo sư kinh tế của Việt nam56
, chưa nói đến chuẩn phó giáo sư Kinh tế của Nhật bản. Còn
ông Đức Khương thì cả nơi tốt nghiệp và nơi làm việc đều ít uy tín và chất lượng nghiên cứu
thấp, mới chỉ đạt mức tiêu biểu của Đông Nam Á và châu Phi.
(*) Trần Văn Thọ57
: Ông Thọ không có bài báo nào trên các tạp chí kinh tế uy tín quốc tế.58
Nơi ông Thọ làm việc, đại học Waseda là một trường được xếp hạng cao trên thế giới về kinh tế.
Các giáo sư ở Trường Kinh tế của Waseda cũng xuất bản trên các tạp chí kinh tế uy tín quốc tế
giống như các giáo sư ở phương tây. Vấn đề là ở chỗ, ông Thọ không làm việc ở Trường Kinh tế
hay trường Thương Mại, mà làm ở Trường Khoa học Xã hội của đại học Waseda, chuyên nghiên
cứu về Châu Á và Việt nam. Chính vì vậy, ông ta không tuân theo các nguyên tắc của ngành
kinh tế thế giới, không xuất bản bài báo trên các tạp chí kinh tế uy tín. Cấu trúc trường Waseda
giống như trường Đại học Quốc Gia Hà nội, có trường Kinh tế và trường Khoa học Xã hội
(tương tự như trường KHXH&NV của Đại học Quốc gia Hà nội). Nói chính xác, ông Thọ là
giáo sư về Quốc tế học/Quan hệ quốc tế chứ không xứng đáng được gọi là giáo sư kinh tế
(bởi mặc dù đã làm nghiên cứu 24 năm, nhưng ông Thọ cũng không đạt chuẩn về phó giáo
sư kinh tế ở Việt nam. (Theo tiêu chuẩn mới để được phong làm phó giáo sư ở Việt nam là
phải có 2 bài báo ISI/SCOPUS), chứ đừng nói đến chuẩn rất cao của Nhật bản. Có thể
khẳng định rằng: ông Thọ không biết nghiên cứu kinh tế và không có khả năng hội nhập
với giới kinh tế quốc tế, bởi các nhà kinh tế trên thế giới không coi trọng những người
không có khả năng xuất bản trên tạp chí. (Như đã nêu ở chương III, ngành kinh tế thế giới chỉ
đánh giá trình độ nhà kinh tế thông qua các bài báo xuất bản trên các tạp chí, chứ không quan
tâm đến xuất bản sách. Tuy nhiên, ông Thọ không có bài báo kinh tế nào trên các tạp chí uy tín,
mà chỉ xuất bản sách do trường Khoa học Xã hội học yêu cầu như vậy).
Không khó để hình dung, Khoa Khoa học Xã hội, đại học Waseda cần một chuyên gia về
Việt nam học, nên mời ông Thọ làm giáo sư, chứ không phải vì thành tích nghiên cứu kinh
56 Tiêu chuẩn mới để được phong phó giáo sư kinh tế ở Việt nam là phải có 2 bài báo ISI/SCOPUS 57 https://www.waseda.jp/fsss/gsss/en/about/faculty/ 58
Mặc dù đã làm nghiên cứu 24 năm, chỉ có 1 bài báo trên tạp chí Nghiên cứu Chính sách Kinh tế châu Á.
28
tế của ông ta. Điều này tương tự như khoa Quốc tế học của Đại học KHXH&NV của Đại học
Quốc gia Việt nam, cần tuyển một người am hiểu tổng quan về Hàn quốc (ngôn ngữ, văn hóa,
khoa học, chính trị, lịch sử, kinh tế, luật pháp, quân sự…) làm giảng viên cơ hữu cho nên tuyển
một ông Hàn Quốc vào vị trí giáo sư, nhưng điều đấy không có nghĩa ông đó được tuyển vì
thành tích nghiên cứu kinh tế của ông ta. Năm 1993, ông Thọ mới tốt nghiệp tiến sỹ kinh tế. Tuy
nhiên, các báo ở Việt nam đưa tin rằng từ năm 1990, nghĩa là từ khi chưa tốt nghiệp, ông Thọ đã
là 1 trong 3 người nước ngoài đầu tiên là thành viên chuyên môn của Hội đồng Tư vấn Kinh tế
của Thủ tướng Nhật(???) Cần những nguồn tin đáng tin cậy để xác minh điều này và làm sáng tỏ
ông Thọ cố vấn gì cho chính phủ Nhật bản, hay chỉ là tin bịa đặt. Chính phủ Hoa kỳ chẳng hạn,
cũng thuê nhiều người hồi giáo cố vấn về ngôn ngữ, văn hóa, chính trị hồi giáo, có dính tí chút
kinh tế, để hỗ trợ thiết kế các chính sách chống khủng bố ở khu vực Trung đông. Nhưng điều đấy
không có nghĩa vai trò của những người đó giống như các giáo sư kinh tế mà chỉ là chuyên gia
về ngôn ngữ, địa phương học. Những việc tư vấn mà ông Thọ khai báo59
kết hợp năng lực
nghiên cứu kinh tế yếu kém của ông ta cho thấy ông ta có thể được thuê để hỗ trợ các cơ quan
Nhật bản thiết kế các chính sách liên quan đến Việt nam (mặc dù có thể có các chính sách liên
quan đến kinh tế), nhưng chỉ với tư cách giáo sư về quốc tế học/quan hệ quốc tế. Chúng tôi
không nghĩ rằng một nước Nhật hùng cường, với nhiều trường đại học xếp hạng cao trên thế giới
về kinh tế, các nhà kinh tế xuất bản bài báo không khác gì phương tây, mà lại phải vào trường
Khoa học Xã Hội (chứ không vào trường Kinh tế hay trường Thương mại) của đại học Waseda
thuê một người nước ngoài, chưa có bằng tiến sỹ kinh tế và không có khả năng xuất bản bài báo
kinh tế quốc tế làm cố vấn kinh tế cho mình. (Ngay cả Tổ Tư vấn Kinh tế 2017 của Việt nam
cũng chọn người ở Viện Quản lý Kinh tế Trung Ương, Viện Kinh tế-Viện hàn lâm KHXH, Đại
học Kinh tế Quốc Dân chứ không vào Đại học KHXH&NV để chọn tư vấn cấp quốc gia, chứ
đừng nói đến một nước Nhật với khoa học kinh tế phát triển hơn rất nhiều lần). Mặc dù đã tốt
nghiệp tiến sỹ được gần 25 năm, danh sách những nơi làm việc chính thức của ông Thọ chỉ bao
gồm những trường không có uy tín gì mấy về kinh tế (ví dụ đại học Obirin) hoặc trường Khoa
học Xã hội (giống như trường KHXH&NV của đại học Quốc gia Hà nội), chứng tỏ ngành kinh
tế Nhật bản không hề đánh giá cao ông ta. Nói tóm lại, ông Thọ không phải là giáo sư kinh tế
mà là giáo sư Quốc tế học (Quan hệ Quốc tế). Ông Thọ không biết nghiên cứu kinh tế (theo
chuẩn quốc tế) và không có khả năng hội nhập với giới kinh tế quốc tế. Ông Thọ viết nhiều
sách về kinh tế nhưng chất lượng không đảm bảo theo chuẩn của ngành kinh tế thế giới.
(*) Nguyễn Đức Khương60
: Lĩnh vực nghiên cứu sở trường của ông Khương là tài chính và
tiền tệ. Tuy nhiên, cả nơi tốt nghiệp tiến sỹ, nơi làm việc, và chất lượng xuất bản của ông
Khương đều ít uy tín. Ông Khương khó có khả năng được nhận vào làm giáo sư của các khoa
kinh tế hàng đầu của châu Á. Thêm thông tin để so sánh, ông Đức Khương khó có cơ hội kiếm
được biên chế (trở thành phó giáo sư) về tài chính ở trường nghiên cứu thuộc top 150 ở Hoa kỳ,
(bởi các trường đó đều đòi hỏi phải có ít nhất 1 bài trong BIG3+1 của ngành tài chính (các
trường thuộc khoảng top 100 thì bắt buộc phải có bài báo BIG3 chứ cũng không chấp nhận tạp
chí JFQA). Còn nếu xin việc về lĩnh vực kinh tế tiền tệ, ông Khương cũng khó có cơ hội vào
được các trường top 120 bởi vì số lượng bài báo kinh tế khá ít, và không có bài báo nào thuộc
dạng first tier top field. Nếu ông Khương vì lý do nào đó (ví dụnhờ vào quan hệ) vào được các
trường top 120-200 thì vẫn thuộc loại nhà nghiên cứu không được khuyến khích, vì không đem
59 http://www.f.waseda.jp/tvttran/vn/vindex.htm 60
https://www.nguyenduckhuong.org/
29
lại niềm tự hào cho khoa. Nơi tốt nghiệp của ông Khương là một trường ít uy tín, cho nên để đi
xin việc trong top 120 của Hoa kỳ, ông Khương phải có chất lượng nghiên cứu tốt hơn người
khác. Tuy nhiên, ông Khương không có cơ hội trở thành giáo sư chính thức (Full Professor) các
trường đó ở Hoa kỳ, bởi vị trí đó đòi hỏi phải có một số bài first tier top field, top general trở lên,
tốt nhất là có bài trong TOP5 của ngành kinh tế. Trên thực tế các khoa kinh tế, trường kinh
doanh xếp uy tín tương đối khá trên thế giới rất ngại tuyển những người như ông Khương, và nếu
tuyển vào cũng sẽ gây ra nhiều bất hòa, xung đột. Bởi phong cách xuất bản nhiều nhưng trên các
tạp chí ranking thấp của ông sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý của đại đa số các giảng viên khác,
những người nỗ lực xuất bản trên các tạp chí chất lượng cao nhất để nâng tầm uy tín cho
khoa/trường, và do vậy số lượng bài báo khá ít.
Ông Đức Khương xuất bản rất nhiều (đến nay sau khi tốt nghiệp 9 năm, ông đã xuất bản trên 80
bài báo), và những thành tích như chỉ số trích dẫn cao, hoặc xếp hạng cao REPEC. Tuy nhiên
chất lượng không cao và những ưu điểm đó của ông chỉ có ý nghĩa ở trường đại học ở Đông
Nam Á, châu Phi, và các trường nhỏ, ít uy tín ở các châu lục khác. Đối với ngành kinh tế, các
trường nghiên cứu ở Hoa kỳ và các trường uy tín ở châu Á, Âu, Úc (có trong bảng xếp hạng QS)
chỉ khuyến khích xuất bản ở các tạp chí chất lượng cao (ví dụ top field) trở lên và không sử dụng
REPEC để đánh giá năng lực nhà nghiên cứu. Phong cách xuất bản của ông Đức Khương là
điển hình của khu vực Đông Nam Á và châu Phi, nhưng không được khuyến khích ở các
khu vực có khoa học kinh tế phát triển, (ví dụ ở top các trường nghiên cứu trong top 150
của Hoa kỳ, các trường tương đối khá ở châu Âu, châu Úc, và các trường hàng đầu châu
Á.)
Về lĩnh vực tài chính và kinh tế tiền tệ, có nhiều người khác đang làm việc ở các trường xếp
hạng cao trên thế giới và thành tích nghiên cứu tốt hơn ông Đức Khương nhiều, ví dụ các ông Lê
Tuấn Anh, Nguyễn Đăng Bằng, Trần Lương Anh, Peter Phạm, Nguyễn Tung Thiên, Cao Vũ
Dân,… (Xem chi tiết về lý lịch của những người này trong Phụ lục A). Trong nước cũng có TS
Đặng Tùng Lâm (trưởng khoa Tài chính-Ngân hàng, đại học Đà nẵng), có bài báo BIG3 về tài
chính và tốt nghiệp tiến sỹ từ đại học New South Wales, xếp hạng 1 của Úc và hạng 11 của thế
giới về tài chính (theo QS 2017), sẽ được các khoa tài chính trên thế giới đánh giá cao hơn ông
Khương.
Nói tóm lại, ông Trần Văn Thọ là giáo sư Quốc tế học (chuyên về Châu Á và Việt nam), không
biết gì về nghiên cứu kinh tế và không có khả năng hội nhập, kết nối với giới kinh tế quốc tế.
Đương nhiên là như vậy bởi giới kinh tế quốc tế không quan tâm đến những người không xuất
bản những nghiên cứu trên các tạp chí kinh tế uy tín.
Ông Nguyễn Đức Khương cũng mới chỉ đạt đẳng cấp nhà kinh tế tiêu biểu của Đông-Nam-Á
và châu Phi, chứ chưa đạt đẳng cấp các trường uy tín cao ở các khu vực có khoa học kinh tế
phát triển. Khả năng hội nhập và kết nối với giới kinh tế quốc tế của ông này cũng kém, bởi cả
3 yếu tố để đánh giá một nhà kinh tế (nơi tốt nghiệp, nơi làm việc, chất lượng xuất bản) đều
không cao.
30
6.3. Nguy cơ bị ngoại bang thao túng
Như đã giải thích ở chương V, chính sách công/hành chính công thuộc nhóm ngành chính trị.
Trong khi đó kinh tế là ngành phi chính trị, có mục tiêu tối hậu là cung cấp những thông tin,
phân tích, thống kê, dự báo với độ chính xác cao nhất. Hầu như tất cả các nhà kinh tế đều am
hiểu chính trị và phải luôn luôn tính đến mọi kịch bản, biến cố chính trị trong các nghiên cứu của
mình. Tuy nhiên, họ được đào tạo để trở thành những nhà khoa học chân chính, theo đuổi sự
chính xác của khoa học chứ không được phép vì các mục tiêu chính trị mà bóp méo hoặc diễn
giải sai các kết quả khoa học.
Liệu có nhóm lợi ích phục vụ ngoại bang nào trong Tổ Tư vấn khi mà có tới 2 ông tiến sỹ chính
sách công tốt nghiệp từ trường Hành chính công Kennedy-Harvard, và 1 ông nữa cũng trong Tổ
Tư vấn làm việc chủ yếu ở Việt nam (trường Fulbright), nhưng là nghiên cứu viên lâu năm với
trường này?? Nếu chỉ tính nhóm 04 học giả hải ngoại thì tỷ lệ tiến sỹ chính sách công chiếm tới
50%?
Việt nam vẫn là quốc gia nghèo với nền khoa học kinh tế còn non yếu. Nếu các thế lực chính trị
ở nước ngoài muốn đổ tiền, đổ công quan sức gây dựng quan hệ để chi phối khoa học kinh tế
Việt nam, gạt các nhà kinh tế giỏi ra, để đưa các nhà kinh tế”giả cầy” yếu kém do họ đào tạo
vào thay là điều không khó khăn.
Nhìn danh sách Tổ Tư vấn hiện nay, những người am hiểu không khỏi buồn phiền, lo lắng
dường như đám trường hành chính công Kennedy, Harvard, SPEA, Indiana, Lý Quang Diệu,
Singapore đã “can thiệp” để nhồi nhét những nhân vật yếu kém do họ đào tạo và tuyển dụng Tổ
Tư vấn để thao túng khoa học kinh tế và cả nền kinh tế Việt nam?
Dĩ nhiên điều này có nguyên nhân là sự lẫn lộn giữa kinh tế và chính trị, không hiểu sự khác
nhau rất lớn giữa Ngành Kinh tế và Ngành Chính sách công/Hành chính công của rất nhiều
người bao gồm cả những người được coi là chuyên gia kinh tế.
Cần lưu ý một số sự thật như thế này:
Giống như với nhiều ngành khoa học phi chính trị khác, các trường đại học kinh tế ở Việt
nam rất khó hợp tác với các cơ sở nghiên cứu kinh tế hàng đầu thế giới như các khoa kinh
tế của ĐH Harvard, Stanford, MIT, các trường kinh doanh của ĐH Pennsylvania
(Wharton), ĐH New York (Stern), ĐH Chicago (Booth).v.v…bởi lẽ khoa học kinh tế của
Việt nam còn rất kém, việc hợp tác không đem lại lợi lộc gì cho họ. Trong khi đấy, trường
Hành chính Công Harvard (Kennedy) đã săn đón hợp tác với trường ĐH Kinh tế TP HCM
từ năm 1994, để lập ra Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright (FETP), để làm gì nếu
không phải vì mục đích chính trị.
Mặc dù ban đầu FETP giảng dạy kinh tế đúng như tên của nó, tuy nhiên dần dần FETP
biến nó trở thành trường giảng dạy hoàn toàn chính sách công. Điều này rất dễ kiểm chứng
thông qua website của FETP, dòng cuối cùng ghi rõ: “Đào tạo và nghiên cứu chính sách
công tại Việt Nam”. Như vậy đủ thấy trường Hành Chính Công Harvard không hề có ý
31
định đóng góp phát triển ngành kinh tế ở Việt nam mà vẫn chỉ nhăm nhăm theo đuổi các
mục tiêu chính trị của họ.
Trường ĐH Indiana, nơi ông Trần Ngọc Anh làm việc, có Trung tâm Dân Chủ Lập Hiến, là
một tổ chức chính trị khét tiếng, nơi tập trung rất nhiều nhân vật hoạt động chính trị chính
phái và đối lập, với một trong 3 mục tiêu quan trọng là Thúc đẩy Chính Phủ Trách nhiệm.
Và Việt nam được trung tâm này ưu ái lựa chọn là một trong 5 quốc gia (cùng với Nam
Sudan, Libya, Miến điện, và Liberia. Liệu điều này có liên quan gì đến lĩnh vực sở trường
của ông Ngọc Anh (Minh bạch, Tham nhũng, Mạng chính trị, Mối quan hệ giữa Trốn
Thuế, Tham nhũng và Thực thi Luật pháp) hay không?
Tháng 8/2017, ông Huan Jing, một giáo sư chính trị gốc Mỹ-Hoa của trường Lý Quang
Diệu đã bị Singapore trục xuất vì làm gián điệp cho nước ngoài bằng cách cố gắng tác động
lên những người Singapore có quyền lực và ảnh hưởng vì “lợi ích của nước ngoài”. Ông
này tốt nghiệp tiến sỹ Khoa học Chính trị từ ĐH Harvard.
Chúng tôi không phủ nhận rằng, các trường hành chính công của tây có thể cố vấn hữu ích về cải
cách chính trị và hành chính ở Việt nam. Tuy nhiên, với bản chất chính trị cố hữu, tuyệt đối
không nên để những trường như vậy can thiệp vào công việc của ngành kinh tế của Việt nam,
bởi lợi bất cập hại. Kinh tế là ngành phi chính trị. Mặc dù tất cả các nhà kinh tế đều tính đến môi
trường chính trị và các kịch bản chính trị trong các nghiên cứu, mục tiêu chủ yếu của họ là theo
đuổi sự chính xác của khoa học. Không thể để các não trạng chính trị chi phối ngành kinh tế.
Tóm lại, cả hai ông Vũ Minh Khương và Trần Ngọc Anh là các nhà hoạt động chính trị
điển hình, không có bằng tiến sỹ kinh tế và không có kinh nghiệm làm việc ở các cơ sở
nghiên cứu kinh tế uy tín quốc tế. Do vậy, cả hai người này thiếu hụt trầm trọng các kiến
thức về kinh tế, chưa kể còn trộn lẫn kiến thức và não trạng chính trị trong tư vấn kinh tế.
Sở trường nghiên cứu của ông Trần Ngọc Anh chỉ phù hợp để làm tư vấn chính trị và
hành chính cho Ban Chỉ đạo Trung Ương về Phòng chống Tham nhũng, do Bộ Chính trị,
đứng đầu là Tổng bí thư trực tiếp chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và đôn đốc. Ông Ngọc Anh
cũng có thể tham gia Hội đồng Tư vấn Cải cách Thủ tục Hành chính do Thủ tướng phụ
trách, hoặc tư vấn cho một số cơ quan chuyên trách về hành chính, chính trị như Ban Chỉ
đạo Cải cách Hành chính của Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Công An, Bộ Tư pháp, Học viện
Chính trị và Hành Chính Quốc gia. Ông Minh Khương cũng là nhà nghiên cứu chính trị
và hành chính điển hình, và không có khả năng nghiên cứu kinh tế vĩ mô với chất lượng
cao. Chỗ thích hợp nhất cho ông ta là những nơi tương tự như ông Ngọc Anh.
Hai người này không thể so sánh với Olmstead và Zinberg của CEA bởi CEA không có
nhóm hải ngoại, các chuyên gia cao cấp của CEA như Olmstead và Zinberd đều rất am
hiểu tình hình thực tiễn của Hoa kỳ, và chất lượng nghiên cứu rất cao, trong khi hai ông
này rất thiếu kinh nghiệm thực tiễn ở Việt nam, phải trao đổi với các cơ quan chuyên
trách về hành chính và chính trị Việt nam để sửa đổi các đề xuất.
Những đề xuất của hai ông Minh Khương và Ngọc Anh trong buổi họp Tổ Tư vấn Kinh tế
đầu tiên là đề xuất về cải cách hành chính chứ không phải về kinh tế.
32
Kết nối và cập nhật thông tin về giới kinh tế quốc tế của hai người này đương nhiên vô
cùng kém bởi ngành kinh tế không hứng thú trao đổi các thông tin nội bộ với những
người không do họ đào tạo và cũng không phục vụ trong ngành kinh tế như vậy. Ngành
kinh tế có sự tự tôn nghề nghiệp và vốn xung khắc với nhóm ngành chính trị. Nguy cơ thế
lực chính trị ngoại bang thao túng ngành kinh tế Việt nam thông qua hai ông này là nhãn
tiền. Cả hai đều không đủ tư cách và không phù hợp để tham gia tổ tư vấn kinh tế.
Quan trọng hơn cả, ĐÂY LÀ TỔ TƯ VẤN KINH TẾ CHỨ KHÔNG PHẢI TỔ TƯ VẤN
HÀNH CHÍNH VÀ CHÍNH TRỊ. Chính vì vậy những nhân vật có sở trường và thích đề
xuất về hành chính, chính trị hoàn toàn không phù hợp với Tổ này.
Ông Trần Văn Thọ là tiến sỹ kinh tế, nhưng không phải là giáo sư kinh tế mà là giáo sư
quốc tế học (Châu Á-Việt nam học) và không xuất bản bài báo kinh tế nào trên các tạp chí
kinh tế uy tín quốc tế. Uy tín trong giới kinh tế quốc tế của ông Thọ đương nhiên không có
gì. Ông Thọ xuất bản nhiều sách kinh tế nhưng chất lượng không đảm bảo chuẩn mực của
ngành kinh tế thế giới (ngành kinh tế thế giới chỉ đánh giá năng lực nhà kinh tế thông qua
xuất bản bài báo trên các tạp chí chứ không quan tâm đến xuất bản báo). Ông Thọ thậm
chí không đạt tiêu chuẩn phong phó giáo sư mới ở Việt nam, đừng nói đến chuẩn của
Nhật bản. Còn ông Nguyễn Đức Khương thì xuất bản nhiều nhưng chất lượng mới chỉ đạt
đẳng cấp tiêu biểu Đông Nam Á chứ chưa đạt mức thế giới. Cả nơi tốt nghiệp lẫn nơi làm
việc đều kém danh tiếng, không có tên trong các bảng uy tín xếp hạng của thế giới (ví dụ
QS).
VII. NHỮNG ĐỀ XUẤT TỐI TĂM VÀ TRƠ TRẼN VỀ CẢI
CÁCH HÀNH CHÍNH VÀ CHÍNH TRỊ TRONG BUỔI HỌP
ĐẦU TIÊN CỦA TỔ TƯ VẤN KINH TẾ CỦA THỦ TƯỚNG
Đỉnh cao của sự trơ trẽn song hành với hai ngài tiến sỹ chính sách công là Tổ Tư vấn Kinh
tế bỗng dưng biến thành Tổ Tư vấn Hành chính và Chính trị.
Mặc dù báo chí đăng khá ít thông tin về các buổi họp Tư vấn Kinh tế, người ta không khỏi giật
mình về chất lượng của buổi tư vấn đầu tiên.
Đề xuất đầu tiên (và duy nhất) của Tổ tư vấn kinh tế trong buổi họp Tổ Tư vấn đầu tiên là
“Cắt giảm thủ tục hành chính xuống còn 1/3 so với hiện nay”??61
61
http://www.baodoi.com/tintuc/kinh-doanh/De-xuat-dau-tien-cua-To-tu-van-kinh-te-toi-Thu-
tuong-zwNWY.html
33
Đây là đề xuất về cải cách hành chính hay đề xuất kinh tế??? Chẳng lẽ toàn bộ ngành kinh tế
Việt nam lại để cho hai ngài tiến sỹ chính sách công nhạo báng đến mức này sao? Những người
cần nghe, cần đưa ra góp ý nhiều nhất về cải cách thủ tục Hành chính là các chuyên gia của Hội
đồng Tư vấn Cải cách Thủ tục Hành chính, Ban Chỉ đạo Cải cách Hành chính của Chính phủ, Bộ
nội vụ,…Tại sao lại đưa đề xuất này trong buổi Tư vấn Kinh tế cho Thủ tướng??
Các nhà kinh tế trong Tổ Tư vấn biết gì về cải cách thủ tục hành chính? Họ được đào tạo về hành
chính khi nào và có kinh nghiệm làm việc về thủ tục hành chính bao giờ mà cần nghe, cần nói về
thủ tục hành chính? Con số 1/3 lấy ở đâu ra? Chỉ có dân chính sách công, hành chính công mới
nghiên cứu những thứ này. Chúng tôi chưa bao giờ thấy nhà kinh tế Việt nam nào nghiên cứu về
cải cách thủ tục hành chính. Vậy nên họ dựa vào đâu mà nói thế. Hay chỉ vì hai ông tiến sỹ chính
sách công bảo thế, và báo đài nói thế??
Còn bao nhiêu vấn đề nhức nhối của nền kinh tế: chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính
sách về các tập đoàn kinh tế, giải quyết nợ công và thâm hụt ngân sách, chính sách xuất nhập
nhẩu và thuế quan, chính sách tiền lương và việc làm, bảo hiểm xã hội, chính sách nông nghiệp,
tài nguyên, môi trường, năng suất lao động…cần phải giải quyết như thế nào? Tại sao lại cần nêu
đề xuất về Thủ tục Hành chính ở một nơi lạc lõng như Tổ Kinh tế? Thủ tướng đã có Hội đồng Tư
vấn Cải cách Thủ tục Hành chính, Ban Chỉ đạo Cải cách Hành chính của Chính phủ tại sao
không cho hai ngài chính sách sách công sang đó phát biểu, mà lại biến Tổ Tư vấn Kinh tế thành
Tổ Tư vấn Hành chính-Chính trị??
Điều kỳ lạ là không lẽ các tiến sỹ kinh tế trong Tổ Tư vấn Kinh tế cũng không có ý kiến gì. Họ
có biết rằng đấy không phải là Tư vấn kinh tế hay không? Hay họ cũng ngờ ngợ thấy có vấn đề
nhưng tin tưởng, nể nang các nhà tư vấn ngoại cho nên bỏ qua?
Điều quan trọng là có nên để cho cung cách tư vấn này tồn tại, và báo chí lại đưa tin tuyên
truyền khắp nơi khiến cho công chúng hiểu lầm rằng đây là tư vấn kinh tế hay không?
Các đề xuất như vậy có đáng tin cậy hay không khi mà hai tiến sỹ chính sách công đều
không có kinh nghiệm thực tiễn ở Việt nam, còn toàn bộ các tiến sỹ kinh tế trong Tổ Tư
vấn thì không được đào tạo về hành chính công và càng mù tịt về kinh nghiệm giải quyết
các vấn đề liên quan đến Thủ tục Hành chính nói chung?
Ý kiến của ông Vũ Minh Khương trong buổi họp Tổ Tư vấn Kinh tế đầu tiên
Vũ Minh Khương vẫn được tiếng là kẻ hô khẩu hiệu rỗng tuếch, thiếu năng lực tư duy thực tế.
Từ cách đây hơn 10 năm đã có người chỉ ra như vậy.62
Suốt thời gian sau đó, Vũ Minh Khương
được coi là một kẻ thế hệ cũ, viết rất nhiều những cái gì đó nhưng chẳng đáng quan tâm, một
phần cũng bởi dân kinh tế vẫn truyền miệng là ông ta nghiên cứu rất kém. Dĩ nhiên không thể hi
vọng gì ở một nhân vật có năng lực nghiên cứu kinh tế kém đến mức người trong nước cũng coi
thường bởi nhiều người trong nước còn nghiên cứu tốt hơn ông ta, chưa nói đến những người ở
hải ngoại. Đã thế còn suốt ngày say sưa với các sáng kiến cải cách hành chính, chính trị.
62
http://tiasang.com.vn/-dien-dan/trach-nhiem-cua-nguoi-co-hoc-khi-phat-bieu-278
34
Hãy xem những ý kiến của ông ta:
“Thứ nhất, Chính phủ cần ủy nhiệm cho tổ tư vấn làm việc với các bộ, ngành và địa phương để
đưa ra một chiến lược phát triển cho 30 năm tới, quyết tâm đưa Việt Nam thành một nước công
nghiệp phát triển theo tiêu chuẩn của khối OECD vào năm 2045, khi Việt Nam kỷ niệm 100 năm
độc lập.”
Xin nhắc lại, cả ba tác giả của cuốn sách về chiến lược phát triển „Theo hướng rồng bay’ đều là
các tiến sỹ kinh tế. (Tiến sỹ chính sách công làm việc ở các trường hành chính công, thiếu hụt
trầm trọng kiến thức về kinh tế, làm sao đủ trình độ để viết những cuốn sách như vậy?) Thế nên,
đọc ý kiến này, chúng tôi không khỏi rùng mình nghĩ đến hai ngài chính sách công năng lực học
vấn tầm thường, chất lượng nghiên cứu kinh tế phát triển đều ở mức đáng xấu hổ (Trần Ngọc
Anh không dám khoe trên Website còn Vũ Minh Khương thì không khoe ra thì chẳng biết khoe
gì nữa vì tất cả những nghiên cứu của ông ta đều xoàng xĩnh yếu kém), và ông Trần Văn Thọ, cả
đời không xuất bản bài báo kinh tế nào ra hồn, sẽ vạch chiến lược phát triển cho nước ta.
Mới đây nhất, một cuốn sách chiến lược khác „Báo cáo Việt nam 2035‟ được Ngân hàng Thế
giới chủ trì cùng với bao nhiêu chuyên gia kinh tế và các ngành tham gia viết mà còn bị chê tơi
tả, giờ để 4 nhà tư vấn hải ngoại yếu kém chủ trì, thì không hiểu chất lượng sẽ lao dốc đến mức
nào. Hay là 11 nhà kinh tế trong nước sẽ chủ trì và 04 nhà hải ngoại chỉ tham gia?
"Mục tiêu và là động lực đầu tiên để chúng ta có đủ quả cảm, mạnh dạn cải cách, đó là tiệt trừ
tham nhũng và trọng dụng nhân tài", TS. Vũ Minh Khương nhấn mạnh. Thứ hai, theo ông
Khương, Thủ tướng cần đưa ra những câu hỏi và đặt hàng có tính chiến lược cao. Nó cũng là
thông điệp cho toàn xã hội về sự coi trọng trí tuệ, tầm nhìn.”
Lại một khẩu hiệu ồn ào nhưng cũ rích. Đặc biệt, đây là đề xuất cải cách hành chính và chính trị
chứ không phải kinh tế. Diệt trừ tham nhũng thuộc trách nhiệm chỉ đạo của Ban Chỉ Đạo Trung
Ương và Phòng Chống Tham Nhũng, do Bộ Chính trị, đứng đầu là Tổng Bí Thư trực tiếp chỉ
đạo, kiểm tra, giám sát. Các cơ quan đảng thực hiện các vụ trọng án. Thủ tướng và chính phủ
cũng có vai trò chỉ đạo xử lý các vụ án nhỏ hơn, nhưng vẫn phải kết hợp chặt chẽ với các cơ
quan Đảng.
Điều quan trọng nhất là tại sao lại phát biểu về hành chính và chính trị trong Tổ Tư vấn kinh tế,
khi mà các nhà kinh tế không có kiến thức và kinh nghiệm gì đáng kể trong xử lý những thứ này.
Các cơ quan kinh tế mà họ có quan hệ mật thiết cũng không có vai trò chỉ đạo xử lý những vụ
việc này.
Đấy là lý do ông Minh Khương và ông Ngọc Anh nên được cử sang tư vấn cho Ban Chỉ Đạo
Phòng Chống Tham nhũng, Hội đồng Tư vấn Cải cách Thủ tục Hành chính thay vì Tổ Tư vấn
kinh tế.
35
Thủ tướng không am hiểu sâu về kinh tế thì mới cần có tư vấn kinh tế, giờ lại yêu cầu Thủ tướng
đưa ra những câu hỏi và đặt hàng có tính chiến lược cao??? Hơn nữa việc “đưa ra những câu hỏi
và đặt hàng có tính chiến lược cao” không có liên quan gì đến sự coi trọng trí tuệ và tầm nhìn.
"Điểm quan trọng để nâng tầm cho công cuộc phát triển ở Việt Nam là tăng tính minh bạch. Rất
nhiều “điểm nghẽn” tăng trưởng sẽ biến mất nếu các “điểm tối” (do sự thiếu minh bạch tạo ra)
được xóa bỏ", ông nói. Cũng theo ông Khương, 15 thành viên của Tổ tư vấn cần có chiến lược
cho chương trình công tác. Tầm nhìn xa, dũng khí và biết dựa vào nguồn lực xã hội (doanh
nghiệp, lớp trẻ...) phải là những phẩm chất then chốt mà mỗi thành viên trong tổ cần có và
không ngừng hun đúc...”
Lại một phát biểu ồn ào khác về tư vấn cải cách chính trị và hành chính nữa chứ không phải tư
vấn kinh tế. Minh bạch, luôn đi kèm với chống tham nhũng, trong đó vai trò chỉ đạo chủ yếu
thuộc về Bộ chính trị và Ban chỉ đạo Trung Ương Phòng Chống Tham nhũng. Thủ tướng chỉ chỉ
đạo những vụ việc nhỏ hơn.
Ý kiến của ông Trần Ngọc Anh trong buổi họp Tổ Tư vấn Kinh tế đầu tiên
Không có gì ngạc nhiên, khi Trần Ngọc Anh một nhân vật ngoài hoạt động chính trị ra chỉ
nghiên cứu về các vấn đề hành chính, chính trị (Tham nhũng, Minh bạch Chính phủ, Mạng lưới
chính trị, mối quan hệ giữa Trốn thuế và Tham nhũng) cũng chỉ lảm nhảm những đề xuất về cải
cách hành chính như thế này trong cuộc họp Tư vấn Kinh tế: “cần xây dựng bảng theo dõi thực
hiện nhiệm vụ của bộ, ngành, địa phương, là công cụ để “cân đo đong đếm” việc thực thi chính
sách, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng”.63
Việc cân đong đo đếm thực thi chính sách thật ra không phải là ý tưởng mới. Các cơ quan nhà
nước xưa nay đều có và chắc chắn cần phải cải thiện. Nhưng câu hỏi đặt ra là tại sao trong buổi
Tư vấn Kinh tế lại mất thì giờ bàn bạc về những thứ không-phải-là-kinh-tế như thế này. Đây là
đề xuất cần gửi cho Bộ Nội vụ chứ không phải kinh tế.
Tại sao các tiến sỹ kinh tế trong Tổ tư vấn lại cần phải lắng nghe, thảo luận với ông ta về những
thứ kiểu như thế này, trong khi bản thân họ không có kiến thức lẫn kinh nghiệm gì? Còn nếu như
chỉ một mình Thủ tướng cần nghe, tại sao không chuyển ông Ngọc Anh sang tư vấn cho Bộ nội
vụ, Hội đồng Tư vấn Cải cách Thủ tục Hành chính, Ban Chỉ đạo Cải cách Hành chính, bởi ở đó
có bao nhiêu người khác cần nghe và cần thảo luận về những thứ này??
2 tiến sỹ chính sách công còn lạc lõng, vô duyên hơn ý kiến của các vị trong nước ở Tổ Tư vấn
Kinh tế, bởi ít ra họ còn đề cập đến những vấn đề kinh tế vỹ mô nóng bỏng của Việt nam.
Ông Vũ Minh Khương nói rằng “bật đèn không sáng thì chuột bọ chạy đầy”64
. Thật ra, giữa ban
ngày cũng thấy rõ mấy “con chuột” to kềnh như “con voi ở trong phòng” của Tổ Tư vấn. Chúng
tôi không tin rằng ông Minh Khương và Ngọc Anh kém đến mức không biết rằng những đề xuất
63 http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/doanh-nhan/chan-dung-to-tu-van-kinh-te-cua-thu-tuong-387391.html 64 https://nhatbaovanhoa.com/p186a6197/7/ts-vu-minh-khuong-toi-thay-nguoi-hien-tai-co-day-o-ngay-trong-nuoc-
36
của họ không phải là Kinh tế. “Dũng khí” quan trọng nhất là biết từ bỏ những vị trí không phù
hợp với mình. Hãy ra khỏi Tổ Tư vấn Kinh tế ngay lập tức để nhường ghế cho các nhà kinh tế
xứng đáng hơn.
Xem thêm chương VIII. NẾU CẦN THIẾT, CÓ THỂ THÀNH LẬP MỘT TỔ TƯ VẤN CHÍNH
TRỊ-HÀNH CHÍNH RIÊNG, giải thích tại sao không thể ghép chung chính trị-hành chính vào
Tổ tư vấn kinh tế.
Mặc dù là năm đầu tiên có chuyên gia đến từ hải ngoại tham gia Tổ Tư vấn Kinh tế cho Thủ
tướng, Tổ Tư vấn 2017 thậm chí còn tồi tệ hơn các năm trước bởi sự nhầy nhụa, lộn xộn, ô hợp
của đám người mang tiếng học giả Việt kiều nhưng dốt nát và bốc mùi chính trị ngoại bang.
Và bởi trước đây không có đám tiến sỹ chính sách công vác theo các đề xuất cải cách hành
chính vô duyên, trơ trẽn của họ vào các buổi họp Tổ Tư vấn Kinh tế.
Trường hành chính công Kennedy, Harvard đã mất hơn 20 năm để có thể “treo đầu dê, bán thịt
chó”, biến Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright trở thành Chương trình đào tạo và nghiên
cứu Chính sách công.65
Giờ đây, các sản phẩm của trường này đào tạo, hai ngài tiến sỹ chính
sách công Trần Ngọc Anh và Vũ Minh Khương chui vào Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng rồi
biến nó thành một “tổ tư vấn hành chính và chính trị trá hình” chỉ trong vòng vài tháng. Thật
ngoạn mục và tài tình!!! À quên, không thể không nhắc tới trong Tổ tư vấn còn 1 nhân vật nữa
đến từ trường Fulbright, và là nhà nghiên cứu (không thường trực) của Chương trình Việt nam,
thuộc trung tâm ASH về Quản trị Dân chủ và Đổi mới, cũng thuộc trường hành chính công
Kennedy, Harvard.
Tốt hơn cả, Thủ tướng nên đổi tên tổ này thành Tổ Tư vấn Hành chính và Chính trị cho đúng
với bản chất. Và để cho nhân dân cũng như toàn bộ hệ thống truyền thông khỏi bị mắc lừa rằng
những đề xuất “vàng ngọc” về cải cách hành chính của tổ này là tư vấn kinh tế. Không nên để
cho các ngài chính sách công làm ô uế chức danh Tư vấn Kinh tế, bởi họ không xứng đáng với
vị trí đấy.
Một quốc gia để cho não trạng chính trị ngoại bang thao túng khoa học kinh tế, thì sẽ chậm lụt
mãi không phát triển được, chẳng chóng thì chầy cũng sẽ bị nước ngoài thôn tính.
65 Xem dòng cuối cùng của site này thì thấy rõ mặc dù mang tên Chương Trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright nhưng
đã biến thành Đào tạo và Nghiên cứu Chính sách Công. http://www.fetp.edu.vn/
37
VIII. NẾU CẦN THIẾT, NÊN THÀNH LẬP MỘT TỔ TƯ VẤN
CHÍNH TRỊ VÀ HÀNH CHÍNH RIÊNG Sự lạc lõng vô duyên của hai ngài tiến sỹ chính sách công trong Tổ tư vấn Kinh tế của
Thủ tướng. Ở Việt nam đã có nhiều cơ quan chuyên trách về hành chính và chính trị: Ban Chỉ
đạo TW Phòng chống Tham nhũng (BCĐTWPCTN), Ban Chỉ đạo Cải cách Hành chính của
Chính phủ (BCĐCCHCCP), Hội đồng Tư vấn Cải cách Thủ tục Hành chính (HĐTVCCTTHC),
Bộ nội vụ, Học viện Chính trị Quốc gia, Học viện Hành chính Quốc gia…. Ngoài ra, các cơ quan
như Bộ Công an, Bộ Tư pháp là những cánh tay của Đàng và Chính phủ trong xử lý các vi phạm
về chính trị và hành chính.
Các cơ quan kinh tế (Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng nhà
nước…) không phải là nơi giải quyết các vấn đề về chính trị và hành chính nói chung. Mặc dù
các cơ quan kinh tế cũng có những dự án cải cách hành chính cho riêng mình (ví dụ cải cách
trong lĩnh vực tài chính công, cải cách tiền lương, cải cách chế độ bảo hiểm), nhưng nói chung
các cơ quan kinh tế không có các chức năng đối với các cải cách hành chính ngoài phạm vi kinh
tế và không được coi là các cơ quan chuyên trách để giải quyết các vấn đề về chính trị và hành
chính.
Điều đó cho thấy sự lạc lõng vô duyên của hai ngài chính sách công trong Tổ Tư vấn kinh tế. Họ
là những người sống và làm việc ở nước ngoài lâu năm, rất thiếu kinh nghiệm thực tiễn ở Việt
nam về các lĩnh vực sở trường hành chính và chính trị của họ. Thế nhưng các nhà kinh tế ở Tổ
Tư vấn, đặc biệt những người làm việc ở trong nước không hề có chuyên môn cũng như kinh
nghiệm thực tiễn gì về những vấn đề đó, và không thể hỗ trợ, góp ý gì cho những đề xuất của họ,
và thậm chí đó cũng không phải là mối quan tâm của họ. Các nhà kinh tế trong Tổ tư vấn chỉ có
mối quan hệ mật thiết với các cơ quan kinh tế, chứ rất ít quan hệ với các cơ quan chuyên trách
về hành chính-chính trị, cho nên họ càng không có vai trò truyền tải các đề xuất, sáng kiến về
hành chính, chính trị cho các cơ quan đó.
Một Tổ Tư vấn mang tên Kinh tế phải bao gồm những nhà kinh tế đúng nghĩa. Không
nên để cho các nhà kinh tế giả cẩy, thiếu hụt kiến thức trầm trọng mạo danh Tư vấn Kinh tế. Ví
dụ, đóng góp ý kiến của ông Trần Ngọc Anh: “cần xây dựng bảng theo dõi thực hiện nhiệm vụ
của bộ, ngành, địa phương, là công cụ để “cân đo đong đếm” việc thực thi chính sách, chỉ đạo
điều hành của Chính phủ” là đóng góp về cải cách hành chính chứ không phải kinh tế.
Không nên để những ý kiến như vậy tồn tại trong Tổ Tư vấn kinh tế kẻo những người hiểu biết
về kinh tế lại cười cả bộ máy lãnh đạo nhà nước. Cũng không nên để họ có cơ hội lừa đảo công
chúng rằng những ý kiến như vậy là Tư vấn Kinh tế. Nhưng dĩ nhiên, Trần Ngọc Anh với Vũ
Minh Khương, không đóng góp thế thì biết gì về các lĩnh vực kinh tế vỹ mô mà đóng góp? Thế
nên cách tốt nhất là mời họ ra khỏi Tổ Tư vấn Kinh tế.
Không thể ghép các vấn đề Hành chính và Chính trị vào Tổ Tư vấn Kinh tế Số lượng
các vấn đề kinh tế vỹ mô trọng điểm rất nhiều, rất phức tạp, và cấp thiết. Chỉ riêng Tổ Tư vấn
Kinh tế không giải quyết nổi một cách thỏa đáng. Chính vì vậy không nên ôm đồm ghép Tổ Tư
38
vấn Kinh tế với Tư vấn Hành chính như vậy. Trên thế giới không có nước nào cần Tổ Tư vấn
như vậy cả.
Ở Việt nam đã có rất nhiều cơ quan chuyên trách hành chính-chính trị, không cần thiết phải ghép
kinh tế với chính trị. Kinh tế nói chung là ngành phi chính trị, theo đuổi sự chính xác của khoa
học. Trong khi hành chính-chính trị phục vụ các mục tiêu chính trị. Chính vì vậy, trên thế giới rất
hiếm khi ghép như vậy, trừ những nơi nghiên cứu chuyên về Kinh tế Chính trị. Nhưng rõ ràng là
Tổ Tư vấn Kinh tế phải tập trung vào rất nhiều lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng điểm. Ở Việt nam,
hành chính và chính trị là các lĩnh vực nhạy cảm, cần sự giám sát chỉ đạo chặt chẽ của các cơ
quan Đảng để đảm bảo bám sát các mục tiêu chính trị và quan điểm tổ chức bộ máy hành chính
nhà nước của Đảng. Các chuyên gia Kinh tế Chính trị cần được chuyển sang tư vấn cho các cơ
quan Hành chính-Chính trị để phù hợp với cấu trúc tổ chức nhà nước ở Việt nam.
Nếu cần thiết Thủ tướng có thể xây dựng Tổ Tư vấn Hành chính, Chính Trị, Quan hệ
Quốc tế, và Luật pháp. Nếu như các cơ quan chuyên trách về hành chính và chính trị vẫn chưa
đủ để đáp ứng các nhu cầu tư vấn, Thủ tướng có thể thành lập Tổ Tư vấn Hành chính và Chính
trị riêng. Tổ này sẽ bao gồm 02 ngài tiến sỹ chính sách công cùng với các đại diện của các cơ
quan chuyên trách về hành chính, chính trị kể trên (BCĐTWPCTN, BCĐCCHCCP,
HĐTVCCTTHC, Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia, Bộ nội vụ, Bộ công an, Bộ Tư
pháp v.v…). Những người đại diện cho các cơ quan chuyên trách đó mới là những người cần
nghe, góp ý, sửa đổi bổ sung cho ý kiến của hai ngài tiến sỹ chính sách công chứ không phải các
thành viên của Tổ Tư vấn Kinh tế. PGS Kinh tế Chính trị tài năng Đỗ Quốc Anh và giáo sư khoa
học chính trị Vũ Tường cũng có thể tham gia tổ này.
Nói tóm lại là tuyệt đối không nên để cho hai vị tiến sỹ chính sách công mạo danh nhà Tư
vấn Kinh tế của Thủ tướng, bởi họ không xứng đáng với chức danh đó.
IX. NHỮNG HẠT NHÂN KÉM VÀ VỤ LỢI KHÔNG THỂ
SINH RA MẠNG LƯỚI TỐT
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan hy vọng các thành viên của tổ tư vấn này là hạt nhân và sẽ
"hình thành được môt mạng lưới rông rãi hơn" để thu hút sự đóng góp ý kiến của các chuyên gia
trong các lĩnh vực khác nhau của xã hôi . Chúng tôi nghĩ rằng có lẽ ý bà Chi Lan là thu hút sự
đóng góp ý kiến của các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết các vấn đề
kinh tế vĩ mô trọng điểm.
Thủ tướng đã có Hội Đồng Tư vấn Cải cách Thủ tục Hành chính (nơi tập trung các chuyên gia
giàu kiến thức và kinh nghiệm chỉ chuyên về Thủ tục Hành chính) và Ban Nghiên cứu Phát triển
Kinh tế Tư nhân (chỉ bao gồm 6 doanh nhân thành đạt và giàu kinh nghiệm phát triển kinh tế tư
nhân). Tổ Tư vấn Kinh tế cũng vậy, chỉ cần là nơi tập trung các chuyên gia uyên bác về các vấn
39
đề kinh tế vĩ mô trọng điểm của Việt nam để giải quyết các vấn đề đó. Như vậy đã là quá nhiều
việc để làm. Tổ Tư vấn Kinh tế có thể thu thập thêm ý kiến của các chuyên gia các ngành khác
nhưng chỉ nhằm mục đích giải quyết các vấn đề kinh tế vĩ mô trọng điểm. Tổ Tư vấn Kinh tế
không cần thiết và không có khả năng giải quyết nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực khác.
Một điều đặc biệt quan trọng là không thể coi thường là ý kiến của cộng đồng các nhà kinh
tế Việt nam ở hải ngoại, bởi lẽ họ là những người am hiểu nhất về Tư vấn Kinh tế theo
chuẩn quốc tế. Một nền kinh tế phát triển luôn luôn phải đi kèm với một khoa học kinh tế
phát triển lành mạnh. Việc xây dựng Tổ Tư vấn Kinh tế cho Thủ tướng phải hướng đến
chuẩn mực quốc tế, và phải xứng đáng với tên gọi Tổ Tư vấn Kinh tế. Lưu ý rằng, đây là
Tổ Tư vấn cấp quốc gia chứ không phải Tư vấn cấp phường xã cho nên muốn nhồi nhét ai
vào tư vấn cũng được.
Có nhiều người không hiểu được sự tự tôn của giới trí thức trình độ cao, đặc biệt là trí thức ở khu
vực hàn lâm. Họ nghĩ rằng trí thức trình độ cao cũng giống như người lao động dân trí thấp hoặc
nhân viên của các công ty, cần những người có năng lực lãnh đạo chỉ đạo dẫn dắt. Họ không
biết, các chức danh trưởng khoa ở tây thường phải quay vòng cho các giáo sư trong khoa để
tranh quan liêu, ganh tị, mặc dù nhiều nhà khoa học không có năng lực lãnh đạo gì đáng kể.
Những chuyên gia giỏi là những người tự tôn cao và đủ khôn ngoan. Họ sẽ chỉ đem tâm
huyết, kiến thức, kinh nghiệm “sinh nghề tử nghiệp” ra khi có thể đối thoại trực tiếp với thủ
tướng để tạo lập quan hệ riêng với thủ tướng, chứ không bao giờ muốn thông qua những
người khác, đặc biệt là những người kém hơn. Hơn nữa, họ được hưởng bao nhiêu tiền mà
lại chấp nhận thông qua trung gian như vậy??
Không nên so sánh 04 vị hải ngoại với giáo sư Trần Thanh Vân của ngành vật lý, người đã
rất thành công trong việc xây dựng mạng lưới các nhà vật lý xuất sắc và tổ chức những sự
kiện khoa học hoành tráng, bởi giáo sư Vân không những là một nhà Vật lý tài năng mà
còn là người khiêm tốn và chân thành, có tài ngoại giao và tổ chức, và có khả năng giới
thiệu và tôn vinh những người giỏi hơn mình vì lợi ích của ngành vật lý. Mạng lưới các nhà
vật lý ông ta tạo ra có các hạt nhân là các nhà vật lý hàng đầu của thế giới chứ không phải
ông ta làm hạt nhân. Trong khi đó cả 04 vị này mới chỉ đủ tầm tổ chức các mạng lưới để cổ
vũ phong trào và đánh bóng, kiếm lợi cho bản thân, chứ không tôn vinh những người giỏi
hơn họ. (Thực tế, 04 vị này đang chiếm ghế Tư vấn Kinh tế cho Thủ tường của những
người giỏi hơn). Những mạng lưới có những hạt nhân kém và vụ lợi không thể thu hút
được các chuyên gia giỏi bởi họ không nể phục và không bao giờ đem sở trường nghề
nghiệp của mình ra đóng góp một cách có nghĩa, mặc dù có thể vì xã giao họ có đăng ký
tham gia “cho có”. Giới chuyên gia dễ dàng nhận ra chân tướng của những cá nhân vụ lợi
và chỉ tham gia một cách hình thức. Mạng lưới như vậy chỉ thu hút được những ý kiến kém
chất lượng của những người kém cỏi và xu nịnh những hạt nhân đó.
Không nên bị các mạng lưới hình thức, giả tạo lòe bịp. Trên thực tế, nhiều người giỏi chính
trị và quan hệ đã thành lập rất nhiều chương trình, sáng kiến, diễn đàn, hiệp hội, mạng
lưới…và mời nhiều chuyên gia nổi tiếng tham gia, để đánh bóng bảng thành tích về năng
lực lãnh đạo và quan hệ. Vì xã giao hoặc vì giữ muốn quan hệ cho những công việc khác,
có nhiều người giỏi đồng ý đăng ký tham gia. Nhưng tất cả các chương trình, sáng kiến,
40
diễn đàn, hiệp hội, mạng lưới đó đó chỉ tiến hành được các hoạt động nâng cao dân trí, cổ
vũ phong trào, hoặc những vấn đề ngoài chuyên môn, (nghĩa là chỉ thu hút được những
người năng lực yếu kém hơn những nhân vật đó hoặc những người ngoại đạo), chứ không
bao giờ làm được cái gì có chất lượng chuyên môn. Mọi ý kiến nhân danh các thành viên
của các tổ chức đó đều là những ý kiến của riêng những vị sáng lập các tổ chức đó mà thôi.
Hai ông tiến sỹ chính sách công lại càng không thể làm hạt nhân bởi vì các nhà kinh tế tải
năng đều có lòng tự tôn cao. Trong thâm tâm họ không bao giờ thừa nhận những kẻ ngoại
đạo (không có bằng tiến sỹ kinh tế và không làm việc trong ngành kinh tế) là hạt nhân
mạng kinh tế, còn họ lại chỉ là vệ tinh. Chưa kể, ngành kinh tế tuyển chọn nghiên cứu sinh
theo năng lực toán học và năng lực học vấn cao, trong khi ngành chính sách công chọn
những người có năng lực chính trị, là điều khiến các nhà kinh tế chân chính luôn luôn
không thích bị nhập nhèm. Nếu một mạng lưới nào đó hình thành được với những hạt nhân
như vậy thì chỉ là hình thức, giả tạo. Có đánh trống, ghi tên, nhưng không có hoạt động gì
được các nhà chuyên môn đóng góp có chất lượng.
Một số nhà kinh tế gốc Việt tài năng cũng hợp tác viết bài báo với 04 vị hải ngoại trong Tổ
tư vấn và với những người trong nước. Nhưng điều đó không có nghĩa là trong thâm tâm
họ đồng ý để cho 04 người này lấy đi những gì xứng đáng dành cho họ.
Những người kém dễ có xu hướng che dấu sự kém cỏi bằng cách bóp méo sự thật theo
hướng có lợi cho mình, “của người phúc ta” chứ không ghi nhận công lao đóng góp của
người khác, thậm chí dìm hàng những người giỏi hơn. Và đấy là lý do những chuyên gia
giỏi không thích tham gia, hoặc có tham gia thì cũng không đóng góp cái gì có giá trị.
Trong Phụ lục A của bài viết này có danh sách các nhà kinh tế tiêu biểu. Trợ lý của
Thủ tướng chỉ cần gửi e-mail hoặc gọi điện mời họ đóng góp ý kiến trực tiếp cho thủ
tướng. Tại sao cần thông qua những hạt nhân kém? Liệu những hạt nhân kém đó có cố tình
che giấu hoặc dìm hàng những người giỏi hơn họ không?? Một cách khác là văn phòng thủ
tướng có thể thông báo công khai tuyển Tư vấn Kinh tế, giống như cách làm của CEA của
Hoa kỳ, để các chuyên gia có thể liên hệ trực tiếp, không cần phải thông qua ai cả.
Thật ra cũng không khó đề tìm hiểu ý kiến của cộng đồng các nhà kinh tế gốc Việt ở
Hải ngoại. Các trợ lý của Thủ tướng có thể e-mail, gọi điện hỏi họ xem họ có đồng ý 4
nhân vật này là thành viên Tổ Tư vấn Kinh tế hoặc là hạt nhân mạng lưới kinh tế không?
Chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng kết quả thống kê sẽ là: Không (với tỷ lệ áp đảo, chỉ trừ
1, 2 là người là thân quyến của 4 vị này sẽ trả lời Có), đặc biệt là với hai vị tiến sỹ chính
sách công (Trần Ngọc Anh, Vũ Minh Khương) và ông Trần Văn Thọ. Chúng tôi nhấn
mạnh là cần tham khảo ý kiến của cộng đồng các nhà kinh tế ở hải ngoại chứ không phải
cộng đồng các nhà kinh tế trong nước, bởi vì cộng đồng này quá đông, và có rất nhiều
người trình độ rất kém, không am hiểu gì mấy về công việc tư vấn ở hải ngoại, và không có
khả năng đánh giá năng lực của các học giả. Điều quan trọng, ở đây chúng tôi bàn về 4 học
giả gốc Việt làm việc chủ yếu ở hải ngoại của tổ Tư vấn, cho nên cần tham khảo ý kiến của
cộng đồng kinh tế gốc Việt ở hải ngoại.
41
X. ĐÃ ĐẾN LÚC CẦN CHẤM DỨT SỰ CAN THIỆP CỦA
CÁC TRƯỜNG HÀNH CHÍNH CÔNG (KENNEDY-HARVARD,
SPEA-INDIANA, LÝ QUANG DIỆU-NUS) VÀO NGÀNH KINH
TẾ VIỆT NAM
10.1. Tổ Tư vấn Kinh tế cần kết nối với khoa kinh tế, đại học Harvard, chứ
không cần kết nối với trường hành chính công Kenneny, Harvard
Bà Phạm Chi Lan cho rằng trường Fulbright là đầu mối kết nối với Đại Học Harvard suốt từ
ngày đầu đổi mới, và các Thủ tướng đều sử dụng những ý kiến góp ý của họ, chẳng hạn như
cuốn „Theo Hướng Rồng Bay‟66
. Liệu có mâu thuẫn hay không khi chính bà Chi Lan nói rằng
Việt nam là một quốc gia không chịu phát triển? Thật ra, cái gọi là kết nối với Đại học Harvard
là kết nối với trường hành chính công Kennedy-Harvard bởi đại học Fulbright là sản phẩm con
đẻ của trường này. Tuy nhiên, trường Kennedy-Harvard là một trường có bản chất chính trị
chứ không phải là trường thuộc khối kinh tế như Khoa Kinh tế hay Trường Kinh doanh
của ĐH Harvard. Tổ Tư vấn kinh tế cần kết nối với Khoa kinh tế/Trường kinh doanh của
đại học Harvard, chứ không cần kết nối với trường hành chính công Kennedy-Harvard.
Đây có lẽ là một sự mơ hồ, nhầm lẫn lớn mà rất nhiều người không trong giới hàn lâm mắc phải.
Trường hành chính công Kennedy, Harvard và Khoa kinh tế, đại học Harvard là hai đơn vị khác
hẳn nhau, và có mục tiêu phát triển hoàn toàn khác nhau.
Tuy nhiên, như đã nêu, công việc chủ yếu của Tư vấn Kinh tế cấp thủ tướng không chỉ là để biên
soạn những cuốn sách chiến lược như „Theo Hướng Rồng Bay‟ mà là đề xuất, điều chỉnh các chỉ
tiêu và dự báo kinh tế, gợi ý các chính sách cụ thể để phản ứng nhanh với nền kinh tế và thực thi
các chiến lược phát triển đã đề ra. Tư vấn về chiến lược chỉ là một phần nhỏ trong nhiệm vụ của
Tư vấn Kinh tế cấp Quốc gia.
Cần lưu ý: tất cả các tác giả David Dapice, Dwight Perkins, Jonathan Hauton của cuốn
sách „Theo Hướng Rồng Bay‟ đều là các tiến sỹ kinh tế đồng thời có thâm niên nghiên cứu
kinh tế lâu năm với chất lượng cao. Bà Chi Lan dường như rất cảm kích với cuốn „Theo
Hướng Rồng Bay’. Cần lưu ý rằng tất cả các tác giả của cuốn sách đó đều là giáo sư tiến sỹ kinh
tế. Trên thực tế, tất cả hầu hết những nhà nghiên cứu kinh tế giỏi ở các trường hành chính công
đều là tiến sỹ kinh tế. Các giáo sư chính sách công hay các giáo sư quốc tế học nói chung không
đủ năng lực để biên soạn những tài liệu như vậy (do ngành kinh tế rất chú trọng tuyển chọn
66 http://cafef.vn/chuyen-gia-pham-chi-lan-nguyen-thanh-vien-ban-nghien-cuu-cua-thu-tuong-noi-gi-ve-to-tu-van-
kinh-te-moi-thanh-lap-20170729125909475.chn
42
những người có năng lực nghiên cứu, năng lực học vấn, và đặc biệt năng lực toán học nhất trong
các ngành KHXH&NV, trong khi ngành chính sách công chú trọng tuyển chọn và khuyến khích
năng lực chính trị (năng lực lãnh đạo, quan hệ, tạo ảnh hưởng), còn ngành quốc tế học thì yếu cả
chuyên môn nghiên cứu kinh tế lẫn chính sách).
Mới đây, Bộ Kế hoạch Đầu tư thuê Ngân hàng Thế giới chủ trì cuốn sách về chiến lược
phát triển tương tự như vậy nhưng cập nhật những thông tin mới nhất, cuốn „Báo cáo Việt
nam 2035’, chứ không thuê trường Hành chính công Kennedy-Harvard hay các sản phẩm
con của nó (trường đại học Fulbright, hay Chương trình Kinh tế Fulbright). Đó là một
hướng đi đúng đắn. Trường Kennedy-Harvard bản chất là 1 trường chính trị, chứ không phải là
trường kinh tế. Để những trường chính trị của nước ngoài (hay các sản phẩm con đẻ của họ như
đại học Fulbright) chủ trì dễ bị nguy cơ nước ngoài thao túng để phục vụ các mục đích chính trị
của họ chứ không thuần túy vì lợi ích Việt nam. Đấy là chưa kể chuyên gia kinh tế quan tâm đến
Việt nam của trường Kennedy rất ít cho nên khi viết cuốn „Theo Hướng Rồng Bay’, họ phải thuê
thêm Jonathan Haughton của trường Suffork và chỉ là nghiên cứu viên bán thời gian trên danh
nghĩa cho Harvard. Những sản phẩm khác do trường này sản xuất ra đã tuyển chọn nhiều chuyên
gia kém chất lượng.
Tổ tư vấn Kinh tế cần kết nổi với các khoa kinh tế, trường kinh doanh hàng đầu thế giới,
chứ không cần kết nối với các trường hành chính công như Kennedy-Harvard. Chỉ các cơ
quan, tổ chức chính trị và hành chính mới cần kết nối với trường Kennedy-Harvard.
Trường Kennedy Harvard đã vào Việt nam hợp tác với ĐH Kinh tế TP HCM mở Chương trình
Giảng dạy Kinh tế Fulbright (FETP), nhưng rồi dần dần biến nó trở thành nơi đào tạo và nghiên
cứu chính sách công. Điều đó thể hiện rõ là trường Kennedy không quan tâm đến phát triển khoa
học kinh tế Việt nam. Cộng thêm việc họ không cảnh báo những tiến sỹ chính sách công do họ
đào tạo (Trần Ngọc Anh, Vũ Minh Khương) chất lượng kinh tế yếu kém, không phù hợp với
chiếc ghê tư vấn cho thủ tướng, và việc Dale Jorgenson khen ông Vũ Minh Khương là “một
trong những nghiên cứu sinh PhD xuất sắc nhất của Harvard” một cách thiếu liêm sỷ, trong khi
trên thực tế rất xoàng xĩnh, là minh chứng cho thấy trường này hoàn toàn không đáng tin cậy để
tư vấn kinh tế.
Ngành kinh tế Việt nam cần kết nối với các khoa kinh tế và trường kinh doanh hàng đầu
thế giới để phát triển khoa học kinh tế một cách lành mạnh, đúng hướng, chứ không cần
các trường hành chính công. Các trường hành chính công chỉ phù hợp để kết nối với các
trường/viện/cơ quan hành chính và chính trị của Việt nam. Các giáo sư chính sách công,
giáo sư quốc tế học, và nhà kinh tế chất lượng Đông-Nam-Á, và các học giả trường đại học
Fulbright đều không đủ tầm để kết nối với các khoa kinh tế, trường kinh doanh hàng đầu của thế
giới như các khoa/trường này của đại học Harvard, thậm chí với các khoa kinh tế/trường kinh
doanh ít uy tín hơn nhiều.
Giới kinh tế gốc Việt có nhiều tiến sỹ kinh tế tốt nghiệp hoặc đang làm việc ở trường các
khoa kinh tế của Harvard, MIT, trường kinh doanh Wharton, ĐH Pennsylvania, ĐH
Cambridge và nhiều trường danh tiếng khác trên thế giới. Họ sẽ là cầu nối để kết nối với các
khoa kinh tế, trường kinh doanh hàng đầu của thế giới. Mặc dù giống như nhiều ngành khoa học
khác ở Việt nam, việc kết nối để ra được các sản phẩm hợp tác, chẳng hạn như thành lập một
trung tâm nghiên cứu kinh tế, sẽ gặp khó khăn và cần nhiều thời gian do các khoa, trường này ít
43
quan tâm đến Việt nam. Tuy nhiên, ít ra những người này sẽ là cầu nối hiệu quả để cập nhật
thông tin về ngành kinh tế thế giới. Lựa chọn họ mới là hướng đi đúng đắn để phát triển khoa họ
kinh tế Việt nam một cách bền vững.
10.2. Nước Mỹ chỉ quan tâm tạo ảnh hưởng chính trị lên Việt nam, không quan
tâm phát triển khoa học kỹ thuật (bao gồm khoa học kinh tế) của Việt nam.
Để hiểu thêm Hoa kỳ có thật sự mong muốn phát triển khoa học kỹ thuật của Việt nam hay
không, hãy thử so sánh học bổng Fulbright, một học bổng chính phủ lâu đời của Mỹ được thành
lập và tài trợ bởi quốc hội Mỹ từ năm 1946, với học bổng chính phủ của các quốc gia khác dành
cho Việt nam. (VEF không được coi là dạng học bổng này bởi có nguồn gốc là tiền của Việt
nam, được Bộ Giáo dục Việt nam đề nghị sử dụng để đào tạo cao học các ngành khoa học tự
nhiên và kỹ thuật (KHTN&KT) ở Hoa kỳ cho công dân Việt nam, và chỉ kéo dài hơn 10 năm đến
khi hết tiền là ngưng). Trong khi các học bổng chính phủ của Úc, Nhật, Pháp, Đức, Bỉ, Hà
lan, Canada…là các học bổng phát triển, đào tạo cả bậc thạc sỹ và tiến sỹ cho nhiều ngành
KHTN&KT và KHXH&NV, học bổng Fulbright chỉ đào tạo bậc thạc sỹ cho một số ngành
KHXH&NV và chỉ hướng đến đối tượng là những người có tiềm năng lãnh đạo. (Đương
nhiên, lãnh đạo thì không cần có bằng tiến sỹ!). Các học bổng học giả ngắn hạn của Fulbright
cũng chỉ đặc biệt chú trọng một số ngành KHXH&NV. (Chỗ này cần ghi chú, học bổng
Chevening của Anh cũng dành cho đối tượng tương tự học bổng Fulbright. Anh với Mỹ từng là
hai quốc gia mẹ-con cho nên có lẽ tư duy giống nhau).
Việc trường hành chính công Kennedy-Harvard vào Việt nam từ năm 1994, hợp tác với đại học
Kinh tế, TP Hồ Chí Minh, mở Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright (FEPT), rồi dần dần
biến nó trở thành chương trình đào tạo và giảng dạy chính sách công là một bằng chứng khác cho
thấy người Mỹ chỉ quan tâm đến tạo ảnh hưởng chính trị, chứ không hề có ý định phát triển khoa
học kinh tế cho Việt nam.
Một điều đặc biệt nữa là với các trường khác do quốc tế tài trợ ở Việt nam như Việt Đức, Việt
Nhật, Việt Pháp, ngay từ khi khánh thành trường đã thấy sự hiện diện của hiệu trưởng là các giáo
sư uy tín người nước ngoài của các ngành KHTN&KT. Trong khi đó, sau một năm khánh thành,
người ta vẫn không biết hiệu trưởng đại học Fulbright là ai. Ngành đầu tiên đại học Fulbright đào
tạo là ngành chính sách công (một ngành chính trị) chứ không phải một ngành KHTN&KT. Tất
cả những điều đó thể hiện sự thiếu nghiêm túc về học thuật và định hướng chính trị của trường
này. Trường Fulbright do trường hành chính công Kennedy, Harvard đỡ đầu cho nên ưu tiên
chính trị, và định hướng chính trị sẽ là điều chắc chắn.
Những điều này có thể hé lộ phần nào lý do những nhân vật kém cỏi, cả bằng cấp lẫn kinh
nghiệm đều không phải là kinh tế, thiếu kiến thức kinh tế trầm trọng, và hoàn toàn không phù
hợp với vị trí Tư vấn Kinh tế cho Thủ tướng như Trần Ngọc Anh và Vũ Minh Khương, hai sản
phẩm do trường Kennedy-Harvard đào tạo, bỗng dưng chiếm ghế trong Tổ Tư vấn Kinh tế.
44
10.3. Số lượng chuyên gia kinh tế quan tâm đến Việt nam của trường Kennedy-
Harvard rất ít. Chất lượng nghiên cứu kinh tế của đại học Fulbright rất kém.
Tư vấn Kinh tế cho Thủ tướng không chỉ là biên soạn những cuốn sách như „Theo Hướng
Rồng Bay‟. Nhà nước cần giao cho các nhà kinh tế đích thực chủ trì mọi đề tài, báo cáo
nghiên cứu và tư vấn về kinh tế. Thật ra, tất cả những ý tưởng quan trọng trong các cuốn
sách chiến lược phát triển đều không có gì mới mẻ. Ngành kinh tế Việt nam đủ sức chủ trì
và thực hiện những cuốn sách với chất lượng tốt hơn thế. Những ý tưởng trong những cuốn
sách đó là những thứ các nhà nghiên cứu kinh tế chính trị, kinh tế vĩ mô, kinh tế ứng dụng phải
đọc và tổng hợp hàng ngày. Chỉ các nguyên thủ quốc gia và các nhà thực hành như bà Chi Lan
không biết những điều đó.
Trường hành chính công Kennedy-Harvard không chuyên về kinh tế và chỉ có vài người có
bằng tiến sỹ kinh tế đồng thời quan tâm đến Việt nam. Những người đó là Dapice và Perkins.
(Cả hai ông này đều đã nghỉ hưu). Rất nhiều việc trường Kennedy-Harvard phải thuê người bên
ngoài. (Ví dụ khi viết cuốn „Theo hướng rồng bay‟, Dapice phải mời thêm Jonathan Haughton
giáo sư của trường Suffolk, chứ không phải là giáo sư chính thức của trường Kennedy). Ngành
kinh tế Việt nam có tiến sỹ kinh tế Harvard về kinh tế chính trị (giống như David Dapice và
Dwight Perkins), nhiều tiến sỹ kinh tế MIT, tiến sỹ tài chính Wharton (ĐH Pennsylvania), Stern
(ĐH New York), giáo sư tài chính Cambridge, các chuyên gia cao cấp của Ngân hàng Thế giới,
Quỹ Tiền tệ Quốc tế, và nhiều nhà kinh tế đang làm việc ở trường, viện nghiên cứu kinh tế danh
tiếng trên thế giới, đã từng có nhiều nghiên cứu chất lượng rất cao. Số lượng và chất lượng
nghiên cứu/tư vấn kinh tế của giới kinh tế gốc Việt vượt xa trường Kennedy, Harvard. Chưa kể,
giới kinh tế gốc Việt thực hiện các dự án cho Việt nam sẽ an toàn hơn, tránh được nguy cơ bị
nước ngoài thao túng, diễn giải kết quả để phục vụ các mục tiêu chính trị của nước ngoài.
Các trường như SPEA, đại học Indiana, Lý Quang Diệu, Singapore lại càng không có chuyên gia
kinh tế gốc Mỹ và Sing nào quan tâm đến Việt nam.
Tất cả các nhà kinh tế đều được đào tạo quan tâm và am hiểu chính trị, và luôn luôn tính đến môi
trường chính trị và các biến động chính trị trong nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, họ được đào
tạo để tôn trọng sự chính xác của khoa học chứ không phục vụ các mục tiêu chính trị như các
tiến sỹ chính sách công.
Hiện tại, năng lực nghiên cứu kinh tế của đại học Fulbright rất kém so với các trường đại
học khác của Việt nam. Trong tương lai, cũng không có lý do gì chính đáng để ưu tiên
trường này hơn các trường đại học khác, mà ngược lại cần phải luôn ghi nhớ rằng trường
đỡ đầu đại học Fulbright, trường hành chính công Kennedy-Harvard, là một trường có
bản chất chính trị. Bà Chi Lan nói rằng rất cần ông Vũ Thành Tự Anh trong Tổ tư vấn Kinh tế
của Thủ tướng để kết nối với đại học Harvard.67
Vũ Thành Tự Anh là nhà nghiên cứu chủ yếu
làm việc ở đại học Fulbright nhưng cũng là học giả (không thường trực) của Chương trình Việt
nam của trung tâm ASH, một trung tâm về quản trị dân chủ và sáng tạo, thuộc trường hành chính
công Kennedy-Harvard. Như đã nêu, trường Kennedy-Harvard không phải là nơi đáng tin cậy để
67
http://cafef.vn/chuyen-gia-pham-chi-lan-nguyen-thanh-vien-ban-nghien-cuu-cua-thu-tuong-noi-gi-ve-to-tu-van-
kinh-te-moi-thanh-lap-20170729125909475.chn
45
tư vấn kinh tế. Tổ Tư vấn kinh tế cho Thủ tướng cần kết nối với các Khoa kinh tế/Trường kinh
doanh của Harvard, MIT, Pennsylvania, Cambridge….chứ không cần kết nối với trường hành
chính công Kennedy Harvard. Có nhiều người đang làm việc trong nước giỏi hơn ông Vũ Thành
Tự Anh ở nhiều góc độ và chưa chắc ông này đã được lựa chọn vào Tổ tư vấn nếu có một ủy ban
xét duyệt công minh. (Ông Tự Anh không đủ tầm để kết nổi với các khoa kinh tế/trường kinh
doanh hàng đầu thế giới, và thậm chí các khoa kinh tế/trường kinh doanh kém hơn nhiều, nhưng
xin phép không tiết lộ nguyên nhân). Tuy nhiên chúng tôi không có ý định đề cập đến Nhóm
trong nước ở Tổ tư vấn Kinh tế cho nên sẽ không đi sâu phân tích nhân vật Vũ Thành Tự Anh
này. Nếu quý độc giả nào cần biết thêm về trường Fulbright, có thể sẽ có những trao đổi riêng.
Điều quan trọng là nhân lực cơ hữu của đại học Fulbright hiện nay rất kém về lĩnh vực kinh tế,
thể hiện cả ở bằng cấp, kinh nghiệm nghiên cứu và thành tích xuất bản quốc tế. Đại học
Fulbright hay Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright đều không thể so sánh về thành tích
nghiên cứu kinh tế với rất nhiều đại học khác, kể cả những đại học tư nhân như Duy Tân, và các
đại học công hạng II như Tôn Đức Thắng, Đà nẵng, Cần thơ, chứ chưa nói đến các đại học lớn
như ĐH Kinh tế Quốc dân hay Trường Kinh tế, ĐH Quốc gia, và ĐH Ngoại thương. (Đại học
Fulbright hoàn toàn vắng bóng trong các bảng xếp hạng về nghiên cứu kinh tế).
Vì sao thành tích nghiên cứu lại quan trọng đến vậy? Bởi thực tế, ở các quốc gia phát triển
người ta chọn người làm tư vấn kinh tế ở các tổ chức lớn đều chọn các nhà kinh tế uy tín
(đồng nghĩa với có thành tích xuất bản trên các tạp chí chất lượng cao). Nên nhớ rằng cả 3
thành viên hội đồng CEA và tất cả các chuyên gia kinh tế cao cấp hỗ trợ cho 3 thành viên
hội đồng đều có chất lượng nghiên cứu rất cao (thể hiện bằng xuất bản trên các tạp chí
chất lượng cao.)
Trong tương lai, có thể đại học Fulbright sẽ tuyển được nhiều chuyên gia kinh tế giỏi hơn. Tuy
nhiên, không có lý do gì để ưu tiên trường này hơn các đại học khác ở Việt nam và đừng bao giờ
quên bản chất chính trị của trường đỡ đầu cho đại học này, trường hành chính công Kennedy-
Harvard.
10.4. Nhà nước cần giao cho các nhà kinh tế đích thực chủ trì mọi dự án nghiên
cứu và tư vấn kinh tế
Nhà nước cần giao cho các nhà kinh tế đích thực (cả trong nước và hải ngoại) chủ trì mọi
dự án nghiên cứu và tư vấn kinh tế. Điều đó cũng hỗ trợ phát triển khoa học kinh tế Việt
nam. Nếu các nhà kinh tế gốc Việt không tự thực hiện hoàn toàn các dự án đó thì họ cũng có thể
đề xuất những tổ chức phù hợp (ví dụ Ngân hàng thế giới) để phối hợp thực hiện. Giới kinh tế
gốc Việt sẽ mời những người như David Dapice, Dwight Perkins, Jonathan Haughton trong một
số trường hợp cần thiết. Không nên lo ngại rằng những người này sẽ không hợp tác với Việt nam
nữa nếu các nhà kinh tế gốc Việt chủ trì đề tài. Thật ra, chỉ những người quan tâm đến Việt nam
như Dapice, Perkins, Haughton mới tham gia các đề tài nghiên cứu về Việt nam. Những người
như vậy sẽ không bỏ qua một cơ hội nào, đặc biệt là với những đề tài quan trọng, bất kể là ai
đứng ra mời. Nếu họ không tham gia thì sẽ có những người khác tham gia, (thế giới có rất nhiều
chuyên gia kinh tế giỏi quan tâm đến Việt nam) và họ sẽ là những người thiệt thòi.
46
Nói tóm lại, nhà nước tuyệt đối không nên coi các trường hành chính công như Kennedy-
Harvard, (SPEA-Indiana, Lý Quang Diệu-NUS) như một nơi đáng tin cậy để tư vấn kinh tế.
Chỉ nên thuê trường này tư vấn chính trị và hành chính, đúng với sở trường của họ.
Số lượng chuyên gia kinh tế quan tâm đến Việt nam của trường Kennedy-Harvard rất ít không
thể so sánh với cộng đồng các nhà kinh tế gốc Việt ở hải ngoại. Số lượng và chất lượng nghiên
cứu kinh tế của trường đại học Fulbright hiện nay rất kém, không thể so sánh với các đại học
khác của Việt nam. Trong tương lai cũng không có lý do nào chính đáng cần phải ưu tiên đại
học Fulbright hơn các đại học khác ở Việt nam trong mọi vấn đề liên quan đến kinh tế. Thậm
chí cần phải luôn luôn ghi nhớ rằng, cha đẻ của đại học Fulbright, trường hành chính công
Harvard là một trường có bản chất chính trị, và không được công nhận là một trường kinh tế.
Nhà nước cần hỗ trợ khoa học kinh tế Việt nam phát triển lành mạnh, đúng hướng, tránh sự can
thiệp của các thế lực chính trị nước ngoài, bằng cách giao cho các nhà kinh tế Việt nam đích
thực chủ trì mọi đề tài nghiên cứu và tư vấn liên quan đến kinh tế.
XI. LỰA CHỌN TỔ TƯ VẤN NHƯ HIỆN NAY LÀ SỰ PHÁ
HOẠI NGÀNH KINH TẾ VIỆT NAM
Trình độ trung bình của giới kinh tế gia Việt nam, kể cả nhóm hải ngoại, tương đối thấp
so với các quốc gia phát triển. Chính vì vậy, để giảm bớt khoảng cách về chất lượng tư vấn với
các quốc gia đó, cần phải chọn những người giỏi nhất. Những người thiếu hụt trầm trọng về kiến
thức (không có bằng tiến sỹ kinh tế cũng không phục vụ trong ngành kinh tế), không biết gì về
các lĩnh vực vĩ mô cần tư vấn thì sẽ tư vấn gì? Những người cả đời không viết nổi 1 bài báo kinh
tế cho ra hồn sẽ tư vấn gì? Chưa kể, khả năng kết nối với mạng lưới các nhà kinh tế quốc tế rất
kém thì không hiểu cho vào làm tư vấn quốc gia để làm gì??
Số lượng các vấn đề kinh tế vỹ mô trọng điểm rất nhiều và đó là những vấn đề rất phức tạp.
Thủ tướng cần tuyển những người có sở trưởng chuyên môn sâu, có khả năng nghiên cứu với
chất lượng cao về các vấn đề đó. Không nên tuyển những vị không biết gì, đọc tài liệu vài ngày
rồi chém gió lăng nhăng, hoặc ba hoa về những vấn đề không phải là kinh tế.
Có một quan niệm sai lầm rằng cần phải ưu tiên những người trước nay đóng góp nhiều
cho Việt nam. Họ cho rằng thường xuyên về nước hợp tác nghiên cứu, tư vấn cho các bộ ngành,
trường đại học, viện nghiên cứu mới là đóng góp. Trên thực tế, do các khoa xếp hạng cao trên
thế giới yêu cầu các nhà nghiên cứu phải xuất bản trên các tạp chí top field trở lên cho nên cho
nên các nhà kinh tế gốc Việt ở các nơi này ít khi hợp tác với Việt nam do khó kiếm được người
47
làm cộng tác nghiên cứu hơn ở hải ngoại. Trong khi đấy, các trường nhỏ ít uy tín chỉ yêu cầu
chất lượng tạp chí tương đương với yêu cầu của các nước đông nam Á cho nên giáo sư các
trường này rất tích cực hợp tác với các nhà khoa học trong nước. Ngoài ra, ngành chính sách
công rất khuyến khích các học giả của họ có kinh nghiệm tư vấn thực tiễn, kinh nghiệm lãnh đạo,
và các kinh nghiệm này được đánh giá cao không kém các kinh nghiệm nghiên cứu. Thế nên
không có gì ngạc nhiên, những người này rất tích cực tham gia hợp tác với các cơ quan Việt
nam, và kinh nghiệm thực tiễn của họ nhiều hơn hẳn các nhà kinh tế. Ở Mỹ tình trạng cũng
giống như vậy, nhưng CEA chỉ ưu tiên tuyển chọn các nhà kinh tế.
Trên thực tế, những người đang nỗ lực làm việc ở các khoa kinh tế xếp hạng cao, xuất
bản trên các tạp chí hàng đầu của ngành kinh tế (cho dù phần lớn thời gian làm việc ở nước
ngoài), mới là những người đóng góp nhiều nhất cho Việt nam, bởi vì họ đang góp phần nâng vị
trí của ngành kinh tế Việt nam trên đấu trường quốc tế. Và chỉ có họ mới có thể nâng tầm chất
lượng nghiên cứu cũng như tư vấn kinh tế Việt nam đến gần với chuẩn quốc tế.
Lại có quan niệm sai lầm rằng ông A, bà B xưa nay đã đóng góp rất nhiều ý kiến tâm
huyết về lĩnh vực này cho nên đến giờ phải trọng dụng họ. Tiếc rằng, ngành kinh tế xưa nay
không coi trọng số lượng hay chỉ số trích dẫn. Có những người viết cả trăm bài báo nhưng chất
lượng kém thì cũng không được đánh giá cao bằng 1 bài báo của người khác trên các tạp chí
hàng đầu của thế giới. Nên tạo điều kiện để ông A, bà B đó trở thành tư vấn cấp tỉnh, huyện,
thành phố và trả lại vị trí tư vấn cấp quốc gia cho những người giỏi nhất.
Trước nay chính phủ vẫn tạo điều kiện để những người giỏi nhất của các ngành Toán, Vật lý
được đóng góp tiếng nói nhiều nhất, tạo ảnh hưởng lớn nhất đối với xã hội, đóng góp với Việt
nam một cách hiệu quả nhất bằng những việc làm cụ thể. Việc thành lập tổ tư vấn này là dịp rất
tốt để lặp lại điều đó đối với ngành kinh tế, bởi tổ tư vấn này đòi hỏi chất lượng chuyên môn rất
cao. Trọng dụng những người giỏi nhất sẽ ít gây ra sự bất mãn trong ngành, tăng khả năng độ
chính xác của tư vấn, và thể hiện đúng chính sách trải thảm đỏ đón nhân tài.
Thành phần tổ tư vấn như hiện là sự phá hoại ngành kinh tế, bởi phủ nhận những giá trị đích
thực của ngành kinh tế Việt nam: năng lực nghiên cứu và kiến thức uyên thâm về kinh tế, chưa
kể còn tạo ra sự nghi ngờ về sự can thiệp của các thế lực chính trị quốc tế để đưa những nhân vật
kém cỏi, không phù hợp vào các vị trí tư vấn.
Giới kinh tế Việt nam vốn ít cơ hội để giới thiệu những gương mặt sáng giá nhất đến cộng
đồng. Và trước nay ngành kinh tế chưa làm tốt công việc quảng bá cho những gương mặt đó.
Thời gian vừa qua, báo chí liên tục quảng cáo về những thành viên giả cầy và kém cỏi của Tổ Tư
vấn đã tạo ra một sự hiểu lầm quái gở đối với công chúng về ngành kinh tế, và thực sự là những
hành vi phá hoại ngành kinh tế, xúc phạm cộng đồng các nhà kinh tế nói chung.
48
XII. GIẢI PHÁP CẢI TẠO TỔ TƯ VẤN KINH TẾ 2017
12.1 Thủ tướng nên để cho cộng đồng các nhà kinh tế gốc Việt ở hải ngoại tự
lựa chọn và tiến cử những người đại diện cho họ trong Tổ Tư vấn kinh tế
Có lẽ khó khăn lớn nhất của Thủ tướng là tìm được một chỗ dựa chuyên môn cao về kinh tế để
lựa chọn những người xứng đáng vào Tổ tư vấn kinh tế. Ngành kinh tế Việt còn non trẻ, tiếc
thay, chưa làm tốt việc quảng cáo cho những tài năng chân chính của ngành, khiến cho các
nguyên thủ quốc gia và công chúng không phân biệt được các “nhà kinh tế thật” với các “nhà
kinh tế rởm”. Ngoài ra, có thể đám học giả ở trường Hành chính công Harvard, trường Fulbright,
và mấy cuốn sách làng nhàng kiểu như „Theo Hướng Rồng Bay’ đã góp phần không nhỏ dẫn đến
kết quả một Tổ Tư vấn Kinh tế tệ hại như hiện nay.
Thủ tướng không thể trông cậy vào các học giả từ những nơi như Trường Hành Chính Công
Kennedy-Harvard hay “con đẻ” của họ, đại học Fulbright, để thành lập Tổ tư vấn Kinh tế. Các
trường hành chính công chỉ thích hợp để giới thiệu chuyên gia hành chính, chính trị. Việc giới
thiệu nhân sự cho Tổ tư vấn Kinh tế cần do các nhà kinh tế đúng nghĩa đảm nhiệm. Giống như
tất cả các ngành khoa học khác, cộng đồng các nhà kinh tế gốc Việt ở hải ngoại là nơi tập trung
hầu hết những nhà kinh tế gốc Việt giỏi nhất. Thủ tướng nên để cho họ tự lựa chọn những đại
diện của họ trong Tổ Tư vấn Kinh tế.
Việc quan trọng trước tiên Thủ tướng nên làm là giải tán ngay 04 vị hải ngoại trong Tổ tư
vấn. Để lựa chọn các thành viên thay thế, có thể tham khảo cách làm của Hội đồng Cố vấn Kinh
tế cho Tổng Thống Hoa kỳ: thông báo công khai việc tuyển dụng, và lựa chọn các thành viên của
Nhóm hải ngoại dựa trên kết quả bình chọn của một Ủy ban Tuyển dụng bao gồm các học giả hải
ngoại am hiểu các lĩnh vực kinh tế vĩ mô của quốc gia. Cộng đồng các nhà kinh tế gốc Việt ở hải
ngoại sẽ phối hợp với văn phòng chính phủ để tiến hành việc thành lập Ủy ban Tuyển dụng, và
tổ chức việc tuyển chọn này. Cách làm cụ thế được trình bày ở phần tiếp theo đây.
12.2. Giải pháp cải tạo Tổ Tư vấn kinh tế
Ủy ban Tuyển dụng sẽ được thành lập dựa trên các học giả gốc Việt ở hải ngoại đã đăng ký
vào nhóm Kinh tế và Kinh doanh & Quản lý trên mạng IVANET. 11 nhà kinh tế tiêu biểu
có thể hỗ trợ tổ chức và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình tuyển dụng.
49
Mạng IVANET68
là một mạng lưới bao gồm hàng nghìn học giả gốc Việt đang làm việc tại
khoa/viện/trường thuộc tất cả các ngành ở hải ngoại, và sẵn lòng giúp đỡ Việt nam. Hơn 80 học
giả kinh tế, quản lý ở hải ngoại đã đăng ký trên mạng IVANET có thể tham gia bình chọn. Tuyệt
đối không nên để các học giả trong nước tham gia bình chọn nhóm thành viên hải ngoại bởi số
lượng các học giả trong nước quá đông, nhưng rất nhiều người trong số đó không am hiểu về
giới kinh tế hải ngoại, và cách đánh giá tư vấn theo chuẩn quốc tế cho nên dễ dẫn đến sai lệch kết
quả. Nhóm 11 nhà kinh tế tiêu biểu bao gồm nhóm giáo sư Lê Văn Cường, Ngô Văn Long, Trần
Nam Bình, Phạm Hoàng Văn, Phan Vũ Toàn, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Tiến Triển, đã có nhiều
kinh nghiệm điều hành một hiệp hội kinh tế69
, cùng với các nhà kinh tế hàng đầu trong nhóm
thâm niên nghiên cứu dưới 15 năm (Lê Tuấn Anh, Đỗ Quốc Anh, Nguyễn Đăng Bằng, Cao Vũ
Dân) có thể hỗ trợ các công việc tổ chức. (Xem Phụ lục A để biết e-mail liên lạc của 11 người
này). Việc lựa chọn sẽ được tiến hành theo 3 bước như sau:
(i) Kiểm tra thông tin và gửi thư mời các học giả kinh tế tham gia bình chọn.
(ii) Bình chọn các lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng điểm của quốc gia. Xác định số lượng thành
viên nhóm hải ngoại trong Tổ tư vấn Kinh tế.
(iii) Công khai đăng tuyển và bình chọn Nhóm hải ngoại của Tổ tư vấn Kinh tế.
Kiểm tra thông tin và gửi thư mời các học giả tham gia bình chọn
Các trợ lý của Thủ tướng có thể e-mail đề nghị 11 nhà kinh tế tiêu biểu trên hỗ trợ kiểm tra thông
tin để xác định tư cách học giả và gửi thư mời các học giả tham gia Ủy ban Tuyển dụng.
Việc xác định tư cách và mời các học giả tham gia Ủy ban Tuyển dụng chủ yếu sẽ dựa trên danh
sách các học giả đã đăng ký trong 02 nhóm Kinh tế và Kinh doanh và Quản lý trên mạng
IVANET. Đó là những người tự khai là các giáo sư, tiến sỹ đang làm việc ở các cơ sở nghiên
cứu liên quan đến kinh tế ở hải ngoại và sẵn lòng giúp đỡ Việt nam. Về nguyên tắc, những
người đủ tư cách tham gia Ủy ban Tuyển dụng cần phải là những người làm việc ở hải ngoại
trong các lĩnh vực tương đối gần với các lĩnh vực kinh tế vĩ mô của quốc gia để đảm bảo việc
bình chọn được chính xác. (Tính đến cuối năm 2016, có 39 người đăng ký ở nhóm Kinh tế và 49
người ở nhóm Kinh doanh và Quản lý. Trong đó, theo kiểm tra sơ bộ của tác giả, có khoảng 55
người có đủ tư cách tham gia Ủy ban Tuyển dụng bởi họ làm việc trong những lĩnh vực gần với
các lĩnh vực kinh tế vĩ mô và thực sự làm việc các cơ sở nghiên cứu ở hải ngoại. 33 người còn lại
không đủ tư cách tham gia Ủy ban do ngành nghề sở trường không liên quan đến các lĩnh vực vĩ
mô của quốc gia (ví dụ sở trường là Marketing, Quản lý Hệ thống Thông tin, Nghiên cứu Tác
nghiệp, Lý thuyết Trò chơi, Chính sách Công), hoặc làm việc trong nước hoặc không xác minh
được thông tin. Xem thêm phụ lục B).
68 http://www.ivanet.org/ Chúng tôi đề cập đền các nhà kinh tế đã tham gia mạng IVANET để Thủ tướng và Chính
phủ tham khảo. Tuy nhiên, các Thư ngỏ này không có bất kỳ mối liên quan nào với các thành viên sáng lập và ban
lãnh đạo của trang Facebook IVANET cũng như của mạng IVANET.ORG, và cũng không phản ánh quan điểm của những người này. Tất cả những người này đều là các học giả thuộc các lĩnh vực khác chứ không phải kinh tế hoặc
đang không làm việc trong ngành kinh tế. IVANET là một mạng lưới bao gồm rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Kinh tế
chỉ là một trong số đó. 69 Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh hiệp hội này có rất nhiều thành viên trong nước tham gia cho nên không đại
diện cho giới kinh tế hải ngoại và không nên sử dụng hiệp hội này để bình chọn Nhóm hải ngoại.
50
Như vậy, dự kiến sẽ có khoảng 55 học giả trong Ủy ban Tuyển dụng. Những người khác, không
tham gia mạng IVANET, nhưng đủ tư cách cũng có thể được mời tham gia Ủy ban này.
Bình chọn các lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng điểm của quốc gia. Xác định số
lượng thành viên nhóm hải ngoại trong Tổ tư vấn Kinh tế.
55 người trong Ủy ban Tuyển dụng sẽ bình chọn các lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng điểm của quốc
gia đồng thời xác định số lượng thành viên của Nhóm hải ngoại trong Tổ tư vấn. Số lương thành
viên này có thể từ 4-6 người, trong đó có thể có 1 người giữ vị trí đảm bảo chất lượng thống kê
(tương tự vị trí giám đốc văn phòng thống kê của CEA. Đó là một người có trình độ toán học,
kinh tế lượng, hoặc thống kê vượt trội).
55 người này sẽ tham vấn văn phòng Thủ tướng và dựa trên các văn kiện quan trọng, ví dụ như
Nghị Quyết về Kế hoạch Phát triển Kinh tế-Xã hội 2016-2020, đã được Quốc hội khóa 13
thông qua, để lựa chọn các lĩnh vực kinh tế vĩ mô quan trọng nhất. Đồng thời, những người này
sẽ xác định số lượng thành viên của Nhóm hải ngoại và phân chia những lĩnh vực chủ yếu do
Nhóm trong nước tư vấn và những lĩnh vực sẽ do Nhóm hải ngoại tư vấn.
Ban kiểm phiếu sẽ bao gồm 3 người từ Văn phòng Thủ tướng và 3 người từ Ủy ban Tuyển dụng
để đảm bảo tính khách quan và minh bạch.
Công khai đăng tuyển và bình chọn Nhóm thành viên hải ngoại cho Tổ tư
vấn Kinh tế
Tiếp theo, các trợ lý của thủ tướng sẽ công khai thông báo việc tuyển thành viên cho Nhóm hải
ngoại trong Tổ tư vấn Kinh tế và các lĩnh vực kinh tế trọng điểm trên trang chủ của Văn phòng
Thủ tướng.
55 người trong Ủy ban Tuyển dụng sẽ xem xét hồ sơ ứng viên và bình chọn những người phù
hợp nhất vào vị trí thành viên của Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng. Ban kiểm phiếu sẽ bao gồm
3 người từ văn phòng Thủ tướng và 3 người từ nhóm 55 học giả này, không bao gồm các ứng
viên, để đảm bảo tính khách quan và minh bạch.
Một thông tin không vui là có thể sẽ có những cản trở khiến cho một số nhà kinh tế tài năng ở
hải ngoại không dám ứng tuyển, dù rất muốn trở thành Tư vấn kinh tế cho Thủ tướng. Thậm chí
có thể có những thế lực cố gắng ngụy biện để loại bỏ hầu hết hồ sơ của các nhà kinh tế gốc Việt
tài năng, để cố giữ lại 04 nhân vật của bài viết này.
Do vậy, một cách làm khác, an toàn hơn, là Ủy ban Tuyển dụng có thể sử dụng toàn bộ 4-6 suất
của Nhóm hải ngoại để đăng tuyển ứng viên từ cả hải ngoại và trong nước (mặc dù ưu tiên các
nhà kinh tế gốc Việt ở Hải ngoại). Nghĩa là tất cả những nhà kinh tế gốc Việt ở hải ngoại và
trong nước đều có quyền nộp hồ sơ ứng tuyển, và Ủy ban Tuyển dụng sẽ cân đối và tuyển chọn
trên cơ sở tất cả các hồ sơ nhận được. „Nhóm hải ngoại‟ trong trường hợp này mang ý nghĩa là
51
những người được cộng đồng các nhà kinh tế gốc Việt ở hải ngoại tuyển chọn. Cách làm này có
thể sẽ dẫn đến giảm số thành viên gốc Việt đến từ hải ngoại (nếu có những rào cản lớn cản trở sự
tham gia của hầu hết các nhà kinh tế gốc Việt tài năng ở hải ngoại), nhưng sẽ đảm bảo chất
lượng của Tổ tư vấn. Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu trong nước được đào tạo ở các quốc gia
phát triển, năng lực học vấn và năng lực toán học đều tốt, kiến thức chung về kinh tế đảm bảo,
chất lượng nghiên cứu tốt tương đương đẳng cấp quốc tế, lĩnh vực sở trường phù hợp với các
lĩnh vực kinh điểm quốc gia hơn hẳn 04 vị hải ngoại của bài viết này. Thật tiếc vì họ hoàn toàn
vắng bóng trong Tổ Tư vấn.
Chương này đề xuất một phương án tuyển dụng thành viên cho Nhóm hải ngoại của Tổ Tư vấn
Kinh tế tương đối công bằng, đảm bảo chất lượng, và không gây ra bất mãn trong cộng đồng
các nhà kinh tế Việt nam. Các nhà kinh tế cũng có thể đề xuất những giải pháp khác.
Điều quan trọng là Thủ tướng nên để cho cộng đồng các học giả hải ngoại tự lựa chọn những
người đại diện cho họ trong Tổ Tư vấn Kinh tế, không nên dựa vào những trường như trường
hành chính công Kennedy-Harvard (trường Fulbright), SPEA-Indiana, Lý Quang Diệu-NUS),
bởi các trường này chỉ thích hợp để giới thiệu chuyên gia hành chính, chính trị.
XIII. KẾT LUẬN
Giáo sư Robert Shiller, chủ nhân của giải Nobel kinh tế 2013, từng viết: “Vấn đề là một khi
chúng ta chú trọng vào chính sách, thì sẽ không còn chỗ cho khoa học. Yếu tố chính trị đang len
lỏi vào nghiên cứu kinh tế, và dư luận lại đánh giá cao các động tác giả mang tính chính trị.”70
Ông khuyến cáo rằng các nhà khoa học chân chính sẽ luôn luôn phải đấu tranh vất vả để phân
biệt mình với những thứ rác rưởi, giả mạo muốn trà trộn với họ. Cũng cần nhấn mạnh rằng Hiệp
hội Kinh tế Hoa kỳ không bao giờ để cho ai không có bằng tiến sỹ kinh tế đồng thời không làm
việc trong ngành kinh tế chui vào ban điều hành của Hiệp hội.
Lịch sử sẽ dành cho những nhân vật giả cầy, kém cỏi gốc Việt của Tổ Tư vấn Kinh tế 2017
những lời phán xét khắc nghiệt. Đó là điều chúng tôi chắc chắn, bởi lẽ sự tự tôn nghề nghiệp và
sự liêm chính trong đánh giá năng lực sẽ trở thành giá trị phổ quát. Tuy nhiên, lúc này đây, các
nhà kinh tế gốc Việt cần tỏ thái độ cương quyết về vụ này:
Ngành kinh tế Việt nam không chịu trách nhiệm về mọi sai lầm, yếu kém của các nhà kinh tế
giả cầy và chất lượng thấp trong Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng; không chịu trách nhiệm
về mọi sự thao túng (nếu có) của các thế lực chính trị ngoại bang.
Ngành kinh tế Việt nam cần mời 04 vị hải ngoại (đặc biệt là hai tiến sỹ chính sách công Trần
Ngọc Anh và Vũ Minh Khương) đối thoại trực tuyến trên truyền thông đại chúng để phơi bày
trình độ và lý lịch của họ. Bất kể Thủ tướng có thay đổi quyết định hay không, công chúng
cũng cần phải biết về những sự thật xấu xí và dơ bẩn này.
70
http://www.phantichkinhte123.com/2014/11/kinh-te-hoc-co-phai-la-mon-khoa-hoc-hay.html
52
Tuyên truyền trên báo chí, trong toàn xã hội về các tài năng kinh tế chân chính và các giá trị
đích thực của ngành kinh tế.
Xin chân thành cám ơn tất cả những người đã khuyến khích và ủng hộ bài viết này. Hi vọng bài
viết sẽ đáp ứng được phần nào những bức xúc, phẫn nộ của các bạn. Để kết thúc, chúng tôi xin
trích mấy câu thơ của trẻ đồng dao: “Mù đi công tác. Lác lái máy bay. Cụt tay đào hầm. Câm gọi
điện. Điếc nghe đài.” Có lẽ cái vận số của nước mình nó thế. Chỉ e mùa đông u ám của ngành
kinh tế Việt nam sẽ còn rất dài.
Tháng 11/2017
[Nhóm soạn thảo Thư ngỏ]
PHỤ LỤC A: DANH SÁCH CÁC NHÀ KINH TẾ TIÊU BIỂU
GỐC VIỆT Ở HẢI NGOẠI
A.1 Các nhà kinh tế tiêu biểu gốc Việt có sở trường nghiên cứu liên quan đến
các lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng điểm của Việt nam71
Dưới đây là danh sách (chưa đầy đủ) các nhà kinh tế tiêu biểu và có ngành nghề phù hợp để
tham gia bỏ phiếu Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng. Họ là nhà kinh tế tiêu biểu dựa trên tiêu chí
đang làm việc ở các khoa kinh tế, trường kinh doanh xếp hạng cao trên thế giới và/hoặc có nhiều
xuất bản trên các tạp chí chất lượng rất cao (first tier top field, top general và TOP5 (AER,
Ecca, QJE, JPE, RES) của ngành kinh tế, hoặc BIG3 hoặc BIG3+1 (JF, JEF, RFS)+JFQG) của
ngành tài chính) (TOP5 không tính AER số tháng 5, hoặc còn gọi là số pp hoặc paper and
proceedings, BIG3 chỉ áp dụng cho các bài báo thuộc lĩnh vực tài chính thị trường, không áp
dụng cho lĩnh vực tài chính công. Tài chính công thuộc ngành kinh tế cho nên những bài báo tốt
nhất phải theo tiêu chuẩn của ngành kinh tế, nghĩa là xuất bản ở TOP5). Cùng với bảng QS,
bảng xếp hạng USNews của Hoa kỳ rất quan trọng để tham khảo bởi Hoa kỳ chiếm đến hơn 70%
số giải Nobel kinh tế thế giới, là quốc gia hàng đầu về tăng trưởng kinh tế và khởi nghiệp, và có
51 bang, nghĩa là tương đương với 51 quốc gia. Danh sách này bao gồm cả những người có tiềm
năng tham gia Tổ tư vấn kinh tế như một chuyên gia đảm báo chất lượng thống kê (tương tự
Giám đốc Văn phòng Thống kê của CEA của Obama, Hoa kỳ, xem chương XII).
(Ghi chú: các chức danh Lecturer, Senior Lecturer, Reader ở Anh và Úc là tương đương với các
bậc giáo sư ở Hoa kỳ và nhiều quốc gia khác.)
71 Trong danh sách này có một người vì lý do đặc biệt có thể phát biểu không khách quan về các 04 vị hải ngoại
trong Tổ tư vấn. Tuy nhiên, do người này thỏa mãn các tiêu chí của một nhà kinh tế tiêu biểu cho nên chúng tôi vẫn
đưa vào danh sách.
53
*** Thâm niên xuất bản kinh tế trên 14 năm
1. Vương Quang: (Sở trường nghiên cứu Kinh tế Lượng của giáo sư Quang có lẽ không
phải là lĩnh vực kinh tế trọng điểm quốc gia, tuy nhiên ông Quang vẫn có thể tham gia Tổ
Tư vấn kinh tế nếu như có một vị trí chuyên gia đảm bảo chất lượng thống kê, một chức
danh tương tự Giám đốc Văn phòng Thống kê trong CEA của Obama, nhờ năng lực vượt
trội về Kinh tế lượng). Giáo sư Quang là nhà kinh tế nổi tiếng thế giới với kiểm định
Vương-test được áp dụng rộng rãi trong ngành kinh tế và nhiều ngành khoa học xã hội.
Lĩnh vực nghiên cứu sở trường của ông Quang, kinh tế lượng, là lĩnh vực hết sức quan
trọng để đảm bảo chất lượng nghiên cứu của mọi chuyên ngành kinh tế. Ông Vương
Quang có 10 bài báo thuộc TOP5 Kinh tế (Econometrica và Review of Economic
Studies) và vài chục bài báo top general và top field về kinh tế. Giáo sư Vương Quang
hiện là giáo sư Khoa Kinh tế, đại học New York (#12 về kinh tế Hoa kỳ và #24 của thế
giới, theo QS) và đã từng là giáo sư kinh tế của ĐH Bang Pensylvania, Nam California,
Toulouse. Ông Vương Quang tốt nghiệp tiến sỹ Kinh tế ĐH Northwestern, (top 10 của
Hoa kỳ). Lĩnh vực nghiên cứu sở trường: Kinh tế lượng. E-mail: [email protected]
Vợ ông, bà Isabelle Perrigne cũng là một giáo sư kinh tế của ĐH Rice và ĐH Bang
Pensylvania.
2. Ngô Văn Long: Giáo sư Long làm việc tại khoa Kinh tế ĐH McGill, Canada (#3 kinh tế
của Canada, top 50 của thế giới, theo QS). GS Long đã có 5 bài TOP5, (Econometrica và
Quarterly Journal of Economics, tuy 1 bài trong số đó là bình luận), và vài chục bài báo
trên các tạp chí top general như the Journal of Economic Theory, the International
Economic Review, the Economic Journal, Economic Theory, và các tạp chí top field.
Ông còn là Biên tập viên (associate editor) cho các tạp chí kinh tế uy tín cao của ngành
kinh tế quốc tế như Journal of International Economics, International Game Theory
Review, Journal of Public Economic Theory, Review of International Economics. Lĩnh
vực nghiên cứu sở trường: Kinh tế Tài nguyên và Môi trường, Thương mại Quốc tế,
Kinh tế Vi mô Ứng dụng (hiệu ứng mạng lưới, giá điện và đấu thầu) E-mail:
3. Lê Văn Cường: Giáo sư Cường từng là giám đốc nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu
Khoa học Quốc Gia (CNRS) của Pháp, và là giáo sư trường Kinh tế Paris, đại học
Sorbonne và Phó chủ tịch hội Lý thuyết Kinh tế Công của Thế giới. GS Cường đã có trên
20 bài báo top general và top field kinh tế (Journal of Economic Theory, Economic
Theory, Journal of Mathematical Economics, Journal of Economic and Dynamic
Controls), và nhiều bài báo khác. Giáo sư cũng là người đã có nhiều đóng góp quan trọng
để thúc đẩy nghiên cứu kinh tế ở Việt nam, ví dụ như đưa Hội thảo về Lý thuyết kinh tế
Công cộng 2006 về Việt nam với sự tham gia của hàng trăm nhà kinh tế quốc tế, và hội
thảo kinh tế thường niêm VEAM, quy tụ các nhà kinh tế Việt nam về khắp nơi trên thế
giới. Lĩnh vực nghiên cứu sở trường: Kinh tế toán, Tăng trưởng tối ưu, Kinh tế Công
cộng, Kinh tế vĩ mô, Kinh tế Việt nam, Năng suất Tổng hợp. E-mail: [email protected], [email protected]
54
4. Trần Nam Bình: Giáo sư Bình tốt nghiệp tiến sỹ kinh tế và làm việc tại trường Kinh
doanh, ĐH New South Wales (#2 và #23 về Kinh doanh của Úc và thế giới, theo QS).
Giáo sư Bình là chuyên gia hàng đầu về chính sách thuế, quản lý, hành chính thuế với
hơn 60 bài báo, trong đó có nhiều bài báo trên các tạp chí chất lượng cao như British Tax
Review, Canadian Tax Journal, Australian Tax Forum. Giáo sư Bình đã có nhiều đóng
góp về chính sách và hành chính thuế cho chính phủ Úc và New Zealand, và hiện là cố
vấn chính sách và quản lý hành chính về thuế và cải tổ giáo dục cho Bộ Tài chính và Bộ
Giáo dục Việt nam. Lĩnh vực nghiên cứu sở trường: Chính sách Thuế, Quản lý và
Hành chính Thuế, Thương mại Quốc tế, Kinh tế Phát triển. E-mail: [email protected]
5. Hoàng Thị Hà: Giáo sư Hà tốt nghiệp tiến sỹ về Hành vi Tổ chức từ trường Kinh doanh,
ĐH Berkeley (#5 về Kinh doanh ở Hoa kỳ) và hiện đang làm việc ở Trường Kinh doanh,
ĐH Essec, Pháp (#3 về Kinh doanh ở Pháp, theo QS). Bà Hà có 4 bài báo trên các tạp tốt
nhất trong ngành của bà (Academy of Management Journal, Strategic Management
Journal, Journal of Business Venturing) và một số bài báo chất lượng cao khác. Lĩnh vực
nghiên cứu sở trường: Liên minh Chiến lược, Khảo sát Tổ Chức, Tham gia Thị
trường, Động lực Cạnh tranh và Hợp tác. E-mail: [email protected]
6. Linda Bùi: Giáo sư Linda đang làm việc ở ĐH Brandeis, tốt nghiệp tiến sỹ kinh tế ở
Viện Công nghệ Massachusetts - MIT (#1 đồng hạng về Kinh tế ở Hoa kỳ, theo
USNews). Bà Linda có 1 bài báo TOP5 (American Economic Review), 2 bài trên top
general journal (Review of Economic and Statistics) và 1 số bài báo top field. Bà cũng có
một số kinh nghiệm giảng dạy ở đại học Boston, Michigan, và MIT. Lĩnh vực nghiên
cứu sở trường: Kinh tế Môi trường, Kinh tế Công cộng, Các tổ chức Công nghiệp. E-
mail: [email protected]
7. Peter Kiên Phạm: Giáo sư Peter Kiên đang làm việc tại trường Tài chính-Ngân hàng,
ĐH New South Wales ( #2 về Tài chính của Úc, và #13 của thế giới, theo QS). Ông Peter
Phạm có 2 bài báo BIG3 (Journal of Finance, Review of Financial Studies), 2 bài báo
BIG3+1 (Journal of Financial and Quantitative Analysis) và một số bài báo chất lượng
cao khác. Ông Kiên tốt nghiệp tiến sỹ tài chính năm 2003 từ ĐH Monash, (#5 và #26 về
Tài chính của Úc và của thế giới, theo QS). Lĩnh vực nghiên cứu sở trường: Tài Chính,
Quản trị Doanh Nghiệp, E-mail: [email protected]
8. Phạm Hoàng Văn: Giáo sư Văn đang làm việc ở Đại học Baylor, tốt nghiệp tiến sỹ Kinh
tế từ ĐH Cornell năm 1998 (#16 Hoa kỳ và #24 thế giới về Kinh tế, theo QS), có 2 bài
TOP5 (American Economic Review, 1 trong số đó là bài phản hồi), và một số bài báo
chất lượng cao bao gồm top field (Journal of Development Economics, Journal of
Economics and Management Strategy). Bài báo của giáo sư Văn cùng với Kaushik Basu
trên tạp chí số 1 của ngành kinh tế thế giới (AER) đã có gần 1700 trích dẫn và trở thành
một trong những bài báo kinh điển quan trọng nhất của lĩnh vực Kinh tế Lao động, (đặc
biệt là lao động trẻ em).72
Lĩnh vực nghiên cứu sở trường: Thương mại và Bán lẻ,
Thương mại Quốc tế, Đổi mới Công nghệ, Kinh tế Lao động ở các Quốc gia Đang
72
https://www.jstor.org/stable/116842
55
Phát triển, Nợ công, Di dân, Tham nhũng, Kinh tế vi mô Ứng dụng. E-mail:
9. Đỗ Quý Toàn: Tiến sỹ Toàn là chuyên gia kinh tế cao cấp của Worldbank (Washington
DC), tốt nghiệp tiến sỹ kinh tế ở Viện Công nghệ Massachusetts năm 2002 (#1 đồng hạng
về Kinh tế ở Hoa kỳ). Ông Toàn đã có 10 bài báo trên các tạp chí top general (Review of
Economic and Statistics, Journal of Economic Theory) và top field bao gồm cả first tier
(Journal of Development Economics, AEJ applied Economics, Journal of Financial
Economics, Social Science and Medicine, Worldbank Economic Review, Economic
Development and Cultural Change) . Ông Toàn còn là phi công và vận động viên nhảy
dù nghiệp dư (140 lần nhảy dù). Lĩnh vực nghiên cứu sở trường: Kinh tế Nông nghiệp
(đầu tư nông nghiệp, tín dụng cho nông nghiệp), Kinh tế thể chế, Kinh tế chính trị.
10. Nguyễn Tiến Triển: Giáo sư Triển tốt nghiệp tiến sỹ kinh tế từ ĐH West Ontarion (#5
Kinh tế của Canada, top 100 của thế giới, theo QS) và đang giảng dạy tại khoa kinh tế,
ĐH Waterloo. Ông Triển đã có 6 bài báo trên các tờ top general, top field (Economic
Journal, Journal of Economic Theory, European Economic Review, International
Economic Review, Journal of Public Economics, World Development) và một số bài báo
chất lượng cao khác. Lĩnh vực nghiên cứu sở trường: Kinh tế Công cộng, Chính sách
Công, Kinh tế Châu Á, Kinh tế Tính toán và Mô hình Tổng quát, Đào tạo Kinh tế và
Phương pháp Định lượng. E-mail: [email protected]
11. Nguyễn Văn Phú: Phó giáo sư Phú là nhà nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Khoa
học Quốc Gia (CNRS) tại Trung tâm Lý thuyết và Ứng dụng Kinh tế (BETA), ĐH
Strasbourg, Pháp. Ông Phú đã có 6 bài báo trên các tạp chí chất lượng cao bao gồm cả
first tier top field (Journal of Public Economics, Journal of Development Economics,
Journal of Economic Behavior & Organization, Journal of Business & Economic
Statistics, Environmental & Resource Economics, Macroeconomic Dynamics) và nhiều
bài báo khác. Năm 2015, ông Phú đoạt Huy chương Đồng của Trung tâm Nghiên cứu
Khoa học Quốc gia Pháp dành cho các nhà nghiên cứu trẻ xuất sắc (dưới 40 tuổi). Lĩnh
vực nghiên cứu sở trường: Kinh tế Tài nguyên và Môi trường, Kinh tế Năng lượng,
Kinh tế Lượng Ứng dụng, Đổi mới Công nghệ. E-mail: [email protected]
*** Thâm niên xuất bản kinh tế từ 7 đến 14 năm
(Đánh giá nhà kinh tế/tài chính gốc Việt hàng đầu là sự kết hợp của 3 tiêu chí: Danh tiếng
của trường tốt nghiệp + Danh tiếng của nơi làm việc + Chất lượng nghiên cứu)
1. Lê Tuấn Anh: Tiến sỹ Tuấn Anh tốt nghiệp ngành Tài chính, ĐH New York (#3 về tài
chính ở Hoa kỳ), đã và đang làm việc ở ĐH Bắc Carolina, và ĐH Bang Pennsylvania (#8
và #24 về tài chính ở Hoa kỳ). Ông Tuấn Anh là nhà nghiên cứu tài chính hàng đầu trong
nhóm học giả gốc Việt với 4 bài báo BIG3 và một số bài chất lượng cao khác. Lĩnh vực
nghiên cứu sở trường: Tài chính, Lãi suất, Mô hình Rủi ro Tín dụng, Thu nhập Cố
định. E-mail: [email protected].
56
2. Đỗ Quốc Anh: (Sở trường nghiên cứu Kinh tế Chính trị (bao gồm chống tham nhũng,
minh bạch chính phủ, đạo đức kinh doanh…) của ông Quốc Anh có lẽ không phải là lĩnh
vực kinh tế trọng điểm quốc gia, tuy nhiên ông Quốc Anh vẫn có thể tham gia Tổ Tư vấn
kinh tế nếu như có một vị trí chuyên gia đảm bảo chất lượng thống kê, một chức danh
tương tự Giám đốc Văn phòng Thống kê trong CEA của Obama, nhờ năng lực vượt trội
về toán học). Phó giáo sư Quốc Anh từng đạt huy chương vàng Olympic Toán Quốc tế
với điểm tuyệt đối 42/42, tốt nghiệp tiến sỹ Kinh tế từ ĐH Havard (#1 đồng hạng về Kinh
tế ở Hoa kỳ), là Gương mặt Tiêu biểu Việt nam 1997, hiện làm việc ở Khoa kinh tế,
trường Khoa học và Chính trị, Paris (#3 Kinh tế của Pháp, theo QS). Ông Quốc Anh là
nhà kinh tế hàng đầu trong nhóm học giả gốc Việt có thâm niên dưới 15 năm, với 2 bài
báo TOP5 (American Economic Review và Quarterly Journal of Economics), 1 bài tạp
chí số 1 của châu Âu (Journal of European Economic Association) và một số bài top
field. Bài báo của ông cùng với Filipe Campante trên AER đã được đưa tin trên nhiều tờ
tin tức ở nhiều bang ở Hoa kỳ73
. Lĩnh vực nghiên cứu sở trường: Kinh tế Chính trị (bao
gồm minh bạch chính phủ, chống tham nhũng, đạo đức kinh doanh), Phân phối Thu
nhập, Kinh tế Ứng dụng, Mạng xã hội, Đánh giá Chính sách, Quản trị Doanh nghiệp.
E-mail: [email protected]
3. Nguyễn Đăng Bằng: Phó giáo sư Bằng đang làm việc tại trường kinh doanh của ĐH
Cambridge (#3 và #8 về Kinh doanh của Anh và thế giới, theo QS). Ông Bằng cũng là
một nhà nghiên cứu hàng đầu về tài chính trong nhóm học giả gốc Việt, với 2 bài báo
BIG3 (1 bài sắp xuất bản) và 2 bài báo cũng được đánh giá cao trong ngành tài chính như
Management Science (chỉ sau BIG3+1). Bài báo „Who wins when a politican wins‟ của
ông Bằng cùng với ông Đỗ Quốc Anh chưa xuất bản nhưng đã được đưa tin trên tờ The
Economist (blog), tờ báo tin tức nổi tiếng của giới kinh tế quốc tế.74
Ông Bằng tốt nghiệp
tiến sỹ tài chính trường HEC Paris (#2 về Tài chính của Pháp, theo QS). Lĩnh vực nghiên
cứu sở trường: Tài chính doanh nghiệp, Tài chính Ứng dụng, Quản trị Doanh nghiệp.
E-mail: [email protected]
4. Cao Vũ Dân: Phó giáo sư Dân từng đạt huy chương bạc toán quốc tế, tốt nghiệp tiến sỹ
kinh tế từ Viện Công Nghệ Massachussets (#1 đồng hạng về Kinh tế ở Hoa kỳ). Ông Dân
cũng là một nhà nghiên cứu kinh tế hàng đầu trong nhóm các học giả gốc Việt thâm niên
dưới 15 năm, với 1 bài báo TOP5 Kinh tế (Econometrica) kỳ vọng sẽ xuất bản và 6 bài
báo trên các tạp chí top general (Journal of Economic Theory, Economic Journal) và top
field (Journal of Monetary Economics, AEJ Macroeconomics, Review of Economic
Dynamics). Ông Dân đang làm việc ở ĐH Georgetown (#24 kinh tế của Hoa kỳ, theo
QS). Lĩnh vực nghiên cứu sở trường: Kinh tế Vĩ mô, Kinh tế Lý thuyết, Tài chính,
Kinh tế Tiền tệ, Kinh tế Toán. Email: [email protected]
5. Trần Lương Anh: Phó giáo sư Lương Anh đã có 3 bài báo BIG3 và tương đương (2 trên
Journal of Financial Economics và 1 trên Journal of Accounting and Economics. Ngành
tài chính coi tạp chí TOP3 ngành kế toán và TOP5 ngành kinh tế tương đương BIG3 Tài
73 https://www.aeaweb.org/articles?id=10.1257/aer.104.8.2456 74
https://www.economist.com/blogs/democracyinamerica/2016/04/elections-and-business
57
chính), 1 bài BIG3+1 (Journal of Financial and Quantitative Analysis), và 1 bài trên
Management Science. Ông tốt nghiệp tiến sỹ tài chính từ ĐH Drexel, của Hoa kỳ và đang
làm việc tại trường Kinh doanh, ĐH Thành phố London (#9 Kinh doanh của Anh, theo
QS). Lĩnh vực nghiên cứu sở trường: Tài chính Doanh nghiệp, Quản trị Doanh
nghiệp, Thù lao cho Lãnh đạo, Mua bán Sát nhập. E-mail: [email protected].
6. Trần Chung: Phó giáo sư Chung đang làm việc ở Đại học Quốc Gia Úc (#2 của Úc, #29
của thế giới về kinh tế, theo QS). Ông Chung hiện có 7 bài báo top general (European
Economic Review), top field và chất lượng cao (Journal of Economic Dynamic Control,
Journal of Development Economics, Economic Modelling). Lĩnh vực nghiên cứu sở
trường: Kinh tế Vĩ mô, Kinh tế Lao động, Kinh tế tiền tệ, Kinh tế Công Cộng, Chính
sách Thuế, Bảo hiểm Xã hội, Lợi tức, Kinh tế Sức khỏe, Kinh tế Phát triển và tăng
trưởng, E-mail: [email protected]
7. Vũ Đặng Hải Anh: Tiến sỹ Hải Anh tốt nghiệp tiến sỹ kinh tế nông nghiệp và ứng dụng
từ ĐH Minesota (#7 về Kinh tế Nông nghiệp ở Hoa kỳ) và hiện là chuyên gia kinh tế cao
cấp của World bank. Ông Hải Anh có 9 bài báo trên các tạp chí chất lượng cao bao gồm
top field (Journal of Development Economics, Economics of Education Review,
Worldbank Economic Review, European Journal of Political Economy, Review of
Income and Wealth, Oxford Economic Papers, Economic Development and Cultural
Change). Lĩnh vực nghiên cứu sở trường: Kinh tế Phát triển, Phân phối Thu nhập và
Giảm nghèo, Kinh tế Lao động, Kinh tế Giáo dục. E-mail: [email protected]
8. Nguyễn Mạnh Hùng: Tiến sỹ Hùng là nhà nghiên cứu của trường kinh tế ĐH Toulouse,
(#4 Kinh tế của Pháp, theo QS). Ông Hùng đã có 4 bài báo chất lượng cao bao gồm top
field (Journal of Mathematical Economics, macroeconomic dynamics) và một số bài bào
khác.Ông Hùng tốt nghiệp tiến sỹ toán học từ ĐH Sorbonne. Lĩnh vực nghiên cứu sở
trường: Kinh tế Vĩ mô Động, Tối ưu, Kinh tế Tài nguyên và Môi trường, Biến đổi Khí
hậu, Kinh tế Sinh học và Dịch bệnh. E-mail: [email protected]
9. Nguyễn Đức Quang: Phó giáo sư Quang tốt nghiệp tiến sỹ Kinh tế ĐH Hawaii, Hoa kỳ
và hiện làm việc tại ĐH MiddleSex, Anh. Ông Quang đã có 1 bài báo TOP5 (American
Economic Review), và 6 bài báo chất lượng cao (Journal of International Business
Studies, Journal of Development Studies, Tourism Management, Economic Development
and Cultural Change, Environment and Development Economics, Journal of Risk and
Uncertainty) và một số bài báo khác. Lĩnh vực nghiên cứu sở trường: Kinh tế Nông
nghiệp, Tài nguyên và môi Trường, Quản trị Doanh nghiệp. E-mail: [email protected]
10. Phạm Sĩ Công: Phó giáo sư Công tốt nghiệp tiến sỹ Kinh tế, ĐH Syracuse, Hoa kỳ và
hiện làm việc tại trường Kinh doanh, ĐH Deakin (#10 Kinh doanh của Úc). Ông Công đã
có 4 bài báo trên các tạp chí top general và top field của ngành kinh tế (Review of
Economics and Statistics, Journal of International Economics, World Development) và
một số bài báo khác. Lĩnh vực nghiên cứu sở trường: Kinh tế Phát triển, Thương mại
Quốc tế, Tài chính Công, Kinh tế Lượng Ứng dụng, Kinh tế Việt nam, Kinh tế Trung
Quốc. E-mail: [email protected]
58
11. Đào Chi Mai: Bà Mai tốt nghiệp tiến sỹ kinh tế từ ĐH Columbia, Hoa kỳ (#9 Kinh tế
của Hoa kỳ) và hiện là chuyên gia kinh tế của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Bà Mai đã có 2
bài báo trên các tạp chí top general (Review of Economics and Statistics, Journal of
International Economics) và một số bài báo khác. Lĩnh vực nghiên cứu sở trường: Kinh
tế Vĩ mô, Kinh tế Quốc tế, Kinh tế Lao động. E-mail: [email protected]
*** Thâm niên xuất bản kinh tế dưới 7 năm
1. Phan Vũ Toàn: Phó giáo sư Toàn tốt nghiệp tiến sỹ kinh tế năm 2012 từ ĐH
Northwestern (#7 Kinh tế ở Hoa kỳ, #15 của thế giới, theo USNews và QS), nhưng đến
nay đã có 5 bài báo top general (Economic theory, Journal of International Economics,
International Economic Review) và top field. Ông Toàn từng đoạt giải 3 kỳ thi toán Quốc
gia của Việt nam và là thành viên đội tuyển toán PUTNAM của Hoa kỳ. Hiện nay ông
làm việc ở ĐH Bắc Carolina (#29 về Kinh tế của Hoa kỳ). Lĩnh vực nghiên cứu sở
trường: Kinh tế Vĩ mô, Kinh tế Quốc tế. E-mail: [email protected]
2. Nguyễn Tung Thiên: Ông Thiên tốt nghiệp tiến sỹ ngành tài chính năm 2012 từ trường
kinh doanh Wharton (#1 về Tài chính của Hoa kỳ, theo USNews) nhưng đến nay đã có 1
bài báo BIG3 và 1 bài first tier top field là Journal of Monetary Economics. Tiến sỹ Thiên
hiện là giáo sư tập sự của ĐH Bang Ohio (#23 về Tài chính của Hoa kỳ). Lĩnh vực
nghiên cứu sở trường: Kinh tế Vĩ mô, Thị trường Tài chính, Định giá Tài sản, Tài
chính Công, Các Quy định Tài chính. E-mail: [email protected]
3. Trần Ngọc Khanh: Ông Khanh tốt nghiệp tiến sỹ kinh tế từ Viện Công Nghệ
Massachussets (#1 đồng hạng về Kinh tế ở Hoa kỳ) năm 2012 và đến nay đã có 1 bài báo
BIG3 và một số bài báo khác. Ông Khanh đang làm việc ở ĐH Washinton, St Louis (#21
về Kinh doanh của Hoa kỳ). Lĩnh vực sở trường: Định giá Tài sản, Tài chính Quốc tế.
E-mail: [email protected]
4. Nguyễn Hoài Lưu: Bà Lưu tốt nghiệp tiến sỹ kinh tế Viện Công Nghệ Massachussets
(#1 đồng hạng về Kinh tế ở Hoa kỳ, theo USNews) năm 2015 và hiện là giáo sư tập sự
của trường kinh doanh, ĐH Berkeley (#7 về Kinh doanh ở Hoa kỳ). Bà Lưu có lẽ là một
trong những nhà kinh tế trẻ gốc Việt triển vọng nhất, xét dưới góc độ danh tiếng của nơi
làm việc. Lĩnh vực sở trường:Ngân hàng, Thị trường tín dụng, Bất động sản. E-mail:
A2. Các nhà kinh tế tiêu biểu khác (không liên quan đến các lĩnh vực vĩ mô
trọng điểm của Việt nam)
(Dưới đây là các học giả đang làm việc tại các khoa kinh tế/trường kinh doanh xếp hạng cao trên
thế giới, tuy nhiên lĩnh vực ở trường của họ không phải là các lĩnh vực kinh tế vĩ mô trọng điểm
của quốc gia.)
59
1. Đoàn Xuân Vinh: Ông Vinh tốt nghiệp tiến sỹ về Nghiên cứu Tác nghiệp ở Viện Công
Nghệ Massachussets (#2 về kinh doanh của Hoa kỳ), và hiện là giảng viên trưởng kinh
doanh, ĐH Warwick (#5 về kinh doanh ở Anh và #26 của thế giới). Ông Vinh đã có 7 bài
báo trên các tạp chí hàng đầu về nghiên cứu tác nghiệp (European Journal of Operational
Research, Operation Research, SIAM Journal on Optimization, SIAM Journal of
Scientific Computing, Mathematics of Operation Research, Operation Research Letters)
Lĩnh vực sở trường: Tối ưu không Chắc chắn, Nghiên cứu Tác nghiệp. E-mail:
2. Lâm Kim Sơn: Phó giáo sư Sơn tốt nghiệp tiến sỹ Marketing từ ĐH Houston và hiện
đang giảng dạy ở khoa Marketing của ĐH Georgia (#48 về kinh doanh của Hoa kỳ). Ông
Sơn có 15 bài báo trên các tạp chí hàng đầu của ngành Marketing (Journal of Marketing,
Journal of Service Research, Journal of Academy of Marketing Science, Strategic
Management Journal, Journal of Retailing, MIT Sloan Management Review). Lĩnh vực
sở trường: Chiến lược Marketing (Quản lý Bán hàng và Quan hệ Tiếp thị). E-mail:
3. Nguyễn Thu Hằng: Bà Hằng tốt nghiệp tiến sỹ Quản trị Kinh doanh, Marketing, ĐH
Conecticut năm 2013, hiện làm việc ở ĐH Bang Michigan (#37 về kinh doanh của Hoa
kỳ). Bà đã có 2 bài báo trên các tạp chí hàng đầu của ngành Marketing (Journal of
Marketing Research, Journal of Financial and Quantitative Analysis). Lĩnh vực sở
trường: Quản lý Nhãn hiệu và Sản phẩm, Kết nối Khách hàng, Ảnh hưởng Tài chính
của Chiến lược Marketing, Liên Minh và Thu mua. E-mail: [email protected]
4. Nguyễn Thành: Ông Thành tốt nghiệp tiến sỹ Quản trị Kinh doanh từ ĐH Cornell, (#16
về Kinh doanh của Hoa kỳ) và hiện là giảng viên ĐH Purdue (#50 Kinh doanh của Hoa
kỳ, theo USNews). Lĩnh vực sở trường: Lý thuyết Trò chơi, Thiết kế Thị trường, Tối
ưu hóa. E-mail: [email protected]
5. Michael Tuấn Phạm: Giáo sư Michael Tuấn tốt nghiệp tiến sỹ Marketing từ đại học
Florida (#40 về kinh doanh của Hòa kỳ) và hiện là giảng viên ĐH Columbia (#9 về kinh
doanh của Hoa kỳ). Ông Michael Tuấn đã có vài chục bài báo trên các tạp chí hàng đầu
của ngành Marketing (Journal of Consumer Research, Journal of Marketing Research,
Psychological Science, Organizational Behavior and Human Decision Processes, Journal
of Consumer Psychology, International Journal of Research in Marketing, Review of
General Psychology, Personality and Social Psychology Review, Journal of Economic
Psychology, Marketing Letters, Recherche et Applications en Marketing). Ông Tuấn còn
có một phòng thí nghiệm riêng Nghiên cứu về Cảm xúc và Quyết định tại ĐH Columbia.
Lĩnh vực sở trường: Cảm xúc và Quyết định, Tự điều tiết của người tiêu dùng. E-mail:
PHỤ LỤC B: DANH SÁCH CÁC NHÀ KINH TẾ GỐC VIỆT Ở
HẢI NGOẠI TRÊN MẠNG IVANET
Đây là những người có bằng tiến sỹ các ngành Kinh tế, Kinh Doanh, Quản lý thuộc các lĩnh vực
gần với yêu cầu của tổ tư vấn hoặc đang làm việc trong lĩnh vực đó (Kinh tế, Tài chính, Kế toán,
60
Quản trị kinh doanh, Doanh nghiệp, Quản lý tổ chức) đã đăng ký trên mạng IVANET. Danh sách
này để phục vụ việc lựa chọn thành viên vào Ủy ban Tuyển dụng để cải tạo Tổ tư vấn Kinh tế
cho Thủ tướng. (Xem thêm chương X. GIẢI PHÁP CẢI TẠO TỔ TƯ VẤN KINH TẾ 2017)
http://www.ivanet.org và tạp chí Journal Economics Literature – JEL (Danh sách của JEL chỉ có
danh sách những người tốt nghiệp các ngành kinh tế ở Hoa kỳ và Canada
*** Kinh tế (Economics)
1. Linda Bùi, Department of Economics, Brandeis University, United States, e-mail:
2. Cao Vũ Dân, Department of Economics, Georgetown University, United States,
3. Đặng Hải Anh, Development Data Group, World Bank, United States,
4. Đặng Diệu Hương, Department of Economics and Finance, University of
Canterbury, New Zealand, [email protected]
5. Đào Quang Minh, Department of Economics, Eastern Illinois University, United
States, [email protected]
6. Đỗ Quốc Anh, Department of Economics, Sciences Po, France,
7. Đỗ Phạm Kim Hằng, Department of Economics, Massey University, New Zealand,
8. Hsueh-Ling Huynh, Department of Economics, Boston University, United States,
9. Lê Văn Cường, CNSR, Université Paris 1 Panthéon-Sorbonne, France, levan@univ-
paris1.fr, [email protected]
10. Thanh Le, Flinders University, [email protected]
11. Lương Tuấn Anh, Faculty of Law and Business, De Montfort University,
12. Ngô Văn Long, Department of Economics, McGill University, Australia,
13. Ngô Văn Phương, Development Economics, Cleveland State University, United
States, [email protected]
14. Nguyễn Trí Dũng, Department of Economics, Insurance and Health Care
Management, WHL Graduate School of Business and Economics, Germany,
15. Nguyễn Đức Khương, IPAG Business School, [email protected]
16. Nguyễn Mạnh Hùng, Toulouse School of Economics, France,
17. Nick Nguyễn, School of Economics & Finance, Massey University, New Zealand,
18. Nguyễn Đức Quang, Department of Intl Management & Innovation,
19. Nguyễn Quyền, Department of Economics, University of Ottawa, Canada,
61
20. Nguyễn Đức Thọ, Griffith Business School, Griffith University, Australia,
21. Nguyễn Thúy Lan, Economics Department Santa Clara University, USA,
22. Triển Nguyễn, Department of Economics, University of Waterloo, Canada,
23. Peter Kiên Phạm, Monash University BCom, Monash University, Australia,
24. Phạm Hoàng Văn, Department of Economics Baylor University, United States,
25. Phan Vũ Toàn, Department of Economics, University of North Carolina, Chapel
Hill, United States, [email protected]
26. Angie Ngọc Trần, Department of Social, Behavioral, and Global Studies California
State University, Monterey Bay, United States, [email protected]
27. Trần Nam Bình, Taxation School University of New South Wales, Australia,
28. Trần Chung, School of Economics, Australian National University, Australia,
29. Trần Đăng, Department of Economics, California State University, Los
Angeles, United States, [email protected]
30. Trần Hữu Dũng, Department of Economics Wright State University, United States,
31. Trần Văn Hoa, Victoria University, Australia, [email protected]
32. Trần Ngọc Khanh, Finance Group, Olin Business School Washington University,
33. Trần Văn Thọ, School of Social Sciences, Waseda University, Japan,
34. Cameron Trương, Department of Banking and Finance Monash University,
Clayton, United States, [email protected]
35. Quang Trương, Maastricht School of Management, Netherlands, [email protected]
36. Vũ Băng Tâm, Department of Economics, College of Business and Economics
University of Hawaii_Hilo, United States, [email protected]
37. Vương Quang, Department of Economics, New York University, United States,
38. Vương Vân Anh, Faculty of Management, Economics and Social Sciences,
University of Cologne, Germany, [email protected]
*** Kinh doanh và Quản lý (Business and Management)
1. Mai Thi Tuyet Dao, (Accounting) College of Business and Innovation, University of
Toledo, United States, [email protected]
2. Tami Thi Dinh, (Accounting) Institute of Accounting, Control and Auditing,University of
St.Gallen, Switzerland, [email protected]
3. Diệp Ngọc Dương, (Finance), Utica College, United States, [email protected]
62
4. Hoàng Thị Hà, (Organizational Behavior), Essec Business School, France,
5. Lê Tuấn Anh, (Finance), Penn State University, [email protected]
6. Duong Le, (Finance), Marietta College, United States, [email protected]
7. Lê Anh Sơn, (Business Administration), Management Department, Louisiana Tech
University, United States, [email protected]
8. Thai Thi Thanh Mai (International Business), HEC Montréal, Canada, mai-thi-
9. Nguyễn Đăng Bằng (Finance), Cambridge Judge Business School, University of
Cambridge, United Kingdom, [email protected]
10. Duong Nguyen, (Finance), Chalton College of Business, University of Massachusetts
Dartmouth, United States, [email protected]
11. Nguyễn Hoàng, (Finance), Department of Finance and Economics, University of
Baltimore, United States, [email protected]
12. James Nguyen, (Finance), Department of Finance and Economics Texas A&M
University - Texarkana, United States, [email protected]
13. Thanh Nguyen, (Finance), Mihaylo College of Business and Economics, California State
University, Fullerton, United States, [email protected]
14. Nguyen Tung Thiên, (Finance), Department of Finance, Fisher College of Business, The
Ohio State University, United States, [email protected]
15. Toan Pham,(Finance), School of Banking and Finance University of New South
Wales, Australia, [email protected]
16. Alfred Tran (Accounting), College of Business and Economics, Australian National
University, Australia, [email protected]
17. Anh Luong Tran, (Finance), Cass Business School, City University London, United
Kingdom, [email protected]
*** Những người khác trên mạng IVANET
(Dưới đây là những người có ngành nghề không phù hợp với công việc của Tổ Tư vấn, hoặc
không xác minh được thông tin, dù đã đăng ký trong mục Kinh tế hoặc Kinh doanh và Quản lý
trên mạng IVANET)
1. Vũ Minh Khương (Public Policy)
2. Myla Bui (Marketing)
3. Tung X. Bui (Information System Management)
4. Ngan Chau (Marketing)
5. Carolyn Thanh Thuy Dang (Không xác minh được)
6. Ly Thuy Dao (Intercultural Management)
7. Viet Tuan Dao (Information System Management)
8. Đoàn Xuân Vinh (Operation Research)
9. Kris Hoang (Không xác minh được)
10. Candice Huynh (Operations Management)
11. Minh Q. Huynh (Information System Management)
63
12. Son K. Lam (Marketing)
13. Thang Dinh Le (Maketing & Information System)
14. Doan Thuc Nguyen (Marketing)
15. Duc Ngoc Nguyen (Không xác minh được)
16. Dung Nguyen (Marketing)
17. Hang Nguyen (Marketing)
18. Hang Thu Nguyen (Marketing)
19. Hannah-Hanh D. Nguyen (Psychology)
20. Pascal Nguyen (Không xác minh được)
21. Thang Nguyen (Information System Management)
22. Thanh Nguyen (Game Theory)
23. Lam D. Nguyen (Marketing)
24. Michael Tuan Pham, (Marketing),
25. Michel Phan (Marketing)
26. Phillip Phan (Strategic Management)
27. Ban Phung (English)
28. Nguyen Tien Thong (Marketing)
29. Hien Van Tran (Information System Management)
30. Kim Chi Trinh (Không xác minh được)
31. Thang Do Truong (Aviation)
32. Thuy-Huong Truong (Marketing)
33. Nguyen Viet Long (Làm việc ở Việt nam)
PHỤ LỤC C: BẰNG CHỨNG VỀ TRƯỜNG KENNEDY,
HARVARD
Chương V nói về việc trường Kennedy, Harvard đã sửa lại website sau khi Trần Ngọc Anh bị tổ
cáo cách đây 2 năm liên quan đến 1 vụ việc khác. Đây là bằng chứng chụp màn hình ngày
1/12/2017. (2 Years Ago là năm 2015)
https://www.econjobrumors.com/topic/policy-phd-placements-in-econ/page/2
64
https://www.econjobrumors.com/topic/policy-phd-placements-in-econ/page/3