Post on 31-Oct-2015
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
LÊ XUÂN HIỀN
PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kinh tế Tài chính Ngân hàng
Mã số : 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người Hướng Dẫn Khoa Học
GS.TS Dương Thị Bình Minh
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2010
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................3 U
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA
TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG..................................................................6
1.1. Tổng quan về rửa tiền. ...................................................................................6
1.2. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.................................................................16
1.3. Hệ thống ngân hàng và phương thức phòng, chống rửa tiền qua hệ
thống ngân hàng. .................................................................................................23
1.4. Phòng, chống rửa tiền ở một số nước trên thế giới và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam..........................................................................................28
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA. ....................38
2.1. Khái quát về hệ thống ngân hàng Việt Nam................................................38
2.2. Tình hình rửa tiền tại Việt Nam...................................................................40
2.3. Thực trạng rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam...............................46
2.4. Thực trạng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam........50
2.5. Đánh giá hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân
hàng Việt Nam trong thời gian qua. ....................................................................60
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM......................................................................67
3.1. Chiến lược phát triển ngành ngân hàng và định hướng phòng, chống rửa
tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam. ..............................................................67
3.2. Dự báo tình hình rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam. ....................70
3.3. Các giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam. ..71
KẾT LUẬN ...............................................................................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
3
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài.
Hoạt động rửa tiền đã và đang trở thành một mối nguy cơ lớn đối với nhiều
quốc gia trên thế giới. Theo ước tính của các chuyên gia Liên Hiệp Quốc và thống
kê của Qũy Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), hàng năm số tiền được bọn tội phạm tẩy rửa
khoảng 400-500 tỷ USD, trong đó khoảng 60-70% là tiền mặt. Một trong những
thủ đoạn rửa tiền phổ biến là thông qua hệ thống ngân hàng, điều đó có nghĩa là
những quốc gia có hệ thống tài chính ngân hàng sơ khai, lỏng lẻo luôn là điểm đến
tiềm năng của bọn tội phạm rửa tiền. Tác hại của việc rửa tiền không chỉ làm mất
sự kiểm soát của các chính sách kinh tế, mà còn làm suy yếu khu vực kinh tế tư
nhân, lũng đoạn hệ thống tài chính, bóp méo hoạt động ngoại thương, ngăn cản
hội nhập quốc tế …. Chính tác hại to lớn của việc rửa tiền như trên, rất nhiều các
tổ chức chính phủ và phi chính phủ được phân công thực hiện công tác phòng,
chống rửa tiền như: Ngân Hàng Thế Giới (WB), Qũy Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), Ủy
Ban Giám Sát Ngân Hàng Basel, Lực Lượng Đặc Nhiệm Tài Chính (FATF),
v.v… Ở các nước phát triển như : Mỹ, Anh, Nga, Úc, Pháp, … Luật Phòng, chống
rửa tiền đã được hình thành và triển khai một cách hiệu qủa.
Tại Việt Nam, vấn đề phòng, chống rửa tiền là một trong những vấn đề
tương đối mới mẻ. Trước đây phòng, chống rửa tiền được đề cập đầu tiên thông
qua Công Ước Viên (Công ước của Liên Hợp Quốc về chống buôn bán bất hợp
pháp ma túy và chất hướng thần năm 1988) mà Việt Nam tham gia. Và sau này
là Nghị Định số 74/2005/NĐ-CP ngày 7 tháng 6 năm 2005 của Chính Phủ về
phòng, chống rửa tiền.
Nghị định 74/2005/NĐ-CP được ban hành năm 2005, tạo cơ sở pháp lý
ban đầu cho công tác phòng, chống rửa tiền. Đến nay, nghị định này đã ban hành
được hơn 5 năm, tuy nhiên hiệu quả của việc ngăn chặn rửa tiền nói chung và
rửa tiền qua hệ thống ngân hàng nói riêng còn rất hạn chế. Trong thời gian tới
nếu chúng ta không có những giải pháp đúng đắn, Việt Nam sẽ trở thành điểm
4
đến của tội phạm rửa tiền, mà ngân hàng được xem như là công cụ để thực hiện
hành vi đó. Vì vậy, vấn đề phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ở Việt
Nam đang được đặt ra như một đòi hỏi bức xúc trong công tác quản lý hiện nay.
Đó chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Phòng, chống rửa tiền qua hệ thống
ngân hàng Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: rửa tiền và công tác phòng, chống rửa tiền
- Phạm vi nghiên cứu: hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.
Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở dùng các phương pháp như:
- Phương pháp mô tả nhằm đưa ra cái nhìn tổng quan về tình hình rửa tiền
tại các nước trên thế giới và Việt Nam.
- Phương pháp thống kê nhằm tập hợp các số liệu và đánh giá thực trạng
rửa tiền.
- Phương pháp lịch sử nhằm so sánh, đối chiếu các thông tin trong quá khứ
để tìm hiểu nguyên nhân và có các kết luận phù hợp.
Nguồn dữ liệu của luận văn chủ yếu được lấy từ:
- Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF).
- Nhóm châu Á Thái Bình Dương về phống rửa tiền (APG).
- Tổng cục thống kê.
- Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam.
- Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu chủ yếu nhằm đạt được:
- Thứ nhất: phản ánh trung thực những tác động của việc rửa tiền.
- Thứ hai: nêu lên thực trạng rửa tiền tại Việt Nam và những ảnh hưởng của
nó đến kinh tế xã hội.
5
- Thứ ba: trên cơ sở đó đưa ra một số đóng góp để đẩy lùi nạn rửa tiền đang
có nguy cơ phát triển mạnh tại Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân
hàng.
Kết cấu của luận văn.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về rửa tiền và phòng chống rửa tiền qua hệ thống
ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt
Nam trong thời gian qua.
Chương 3: Các giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Việt Nam.
6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA
TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG.
1.1. Tổng quan về rửa tiền.
1.1.1. Khái niệm về rửa tiền.
Ở Châu Mỹ Latinh vào khoảng năm 1935, đã xuất hiện loại tội phạm mới,
mà theo tiếng Tây Ban Nha gọi là “blanqueo” được dịch ra tiếng anh là
“whitening” (tẩy trắng). Đây là hành vi nhằm chuyển tiền và tài sản bất hợp pháp
thành tiền và tài sản hợp pháp. Loại tội phạm này thường xảy ra trong các lĩnh
vực ngân hàng, thuế, hải quan và được các nhà làm luật gọi là “tẩy trắng các
đồng tiền bẩn thỉu”
Về sau loại tội phạm này đã xuất hiện ở nhiều nước và được gọi bằng
nhiều tên gọi khác nhau trong các ngôn ngữ như: “riciclaggio” (tiếng Italia, dịch
ra là “tái chế lại”), “blanchiment de fonds” (tiếng Pháp, dịch ra là “tẩy trắng
đồng tiền”). Đến năm 1970, loại tội phạm này xuất hiện tại Mỹ và được gọi là
“money laundering” (tẩy rửa tiền).
Có thể nói, định nghĩa có tính pháp lý đầu tiên về rửa tiền được nhắc đến
trong một văn bản pháp lý mang tính chất quốc tế là Công Ước Viên năm 1988.
Theo đó, rửa tiền là “hành vi chuyển đổi hoặc chuyển giao tài sản khi biết rằng tài
sản đó có được từ buôn bán ma tuý hoặc từ việc tham gia vào hoạt động phạm tội,
với mục đích che dấu nguồn gốc tài sản hoặc giúp người nào đó liên quan đến tội
phạm hoặc hành vi phạm tội để né tránh trách nhiệm pháp lý từ các hành vi của
mình; hành vi che dấu hoặc ngụy trang hình thái tự nhiên, nguồn gốc, địa điểm,
việc định đoạt, chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản hoặc các quyền liên quan đến
tài sản mà biết rõ là tài sản do phạm tội buôn bán ma tuý mà có; hành vi mua, tàng
7
trữ hoặc sử dụng tài sản khi biết rõ tài sản do phạm tội mà có”[1]
Tuy nhiên, định nghĩa về rửa tiền được nhiều quốc gia đồng thuận nhất, đó
là định nghĩa rửa tiền theo Công ước Palermo (2000), rửa tiền được quy định là
hành vi: “(i) Chuyển đổi hay chuyển nhượng tài sản, cho dù biết đó là tài sản do
phạm tội mà có, nhằm che dấu hoặc ngụy trang nguồn gốc bất hợp pháp của tài
sản đó hoặc nhằm giúp đỡ bất kỳ ai có liên quan đến việc thực hiện tội phạm gốc
để lẩn tránh trách nhiệm pháp lý do hành vi của người này mang lại; (ii) Che dấu
hoặc ngụy trang bản chất thực sự, nguồn gốc, địa điểm sự chuyển nhượng, sự vận
chuyển hoặc sở hữu hoặc các quyền liên quan đến tài sản, dù biết tài sản đó do
phạm tội mà có; (iii) Nhận, sở hữu hoặc sử dụng tài sản, mà tại thời điểm nhận đã
biết rằng tài sản đó do phạm tội mà có; (iv) Tham gia, phối hợp hoặc có âm mưu
thực hiện hành vi, cố gắng thực hiện hành vi hay giúp sức, xúi giục, tạo điều kiện
thuận lợi và lập kế hoạch để thực hiện bất kỳ một tội phạm nào tương ứng với quy
định tại điều này khi biết rõ là tài sản do phạm tội buôn bán ma tuý mà có”[2].
Theo Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) thì: “rửa tiền là việc xử lý
thu nhập có được do phạm tội mà có nhằm che đậy nguồn gốc bất hợp pháp của
chúng”[3].
Theo Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 của Chính phủ về
phòng, chống rửa tiền thì: “rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp
pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có thông qua các hoạt động: (i) tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản do phạm tội
mà có; (ii) thu nhận, chiếm dữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận
chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có; (iii)
đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm
1 UN (1988), Convention Against Illicit Traffic In Narcotic Drugs And Psychotropic Substances, p.p 3. 2 UN (2000), Convention Against Transnational Organized Crime, Palermo. 3FATF, What is Money Laundering?, http://www.fatf-gafi.org/document/29/0,3343,en_32250379_32235720 _33659613_1_1_1_1,00.html
8
cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất
thật sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do
phạm tội mà có”.
Tuy nhiên theo tác giả thì “rửa tiền là hành vi nhằm chuyển những tài sản
dễ bị nhận biết là có nguồn gốc bất hợp pháp thành những tài sản khó bị nhận
biết là có nguồn gốc bất hợp pháp”
1.1.2. Tác động của việc rửa tiền đối với nền kinh tế xã hội.
Rửa tiền gây ra những hậu quả kinh tế và xã hội nghiêm trọng cho các
nước đang phát triển đặc biệt là những nước có hệ thống tài chính yếu kém. Mặc
dù không thể lượng hóa hết tác động của việc rửa tiền, nhưng chúng ta có thể liệt
kê tương đối đầy đủ những tác động của rửa tiền đối với nền kinh tế như sau:
Làm mất sự kiểm soát các chính sách kinh tế
Tại một số nước mới nổi hay đang trong quá trình chuyển đổi, những
khoản tiền bất hợp pháp này làm cho ngân khố của chính phủ nhỏ lại do bị thất
thoát từ nguồn thu thuế. Kết quả là chính phủ rơi vào tình trạng mất kiểm soát
các chính sách kinh tế.
Làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân.
Bọn tội phạm rửa tiền sử dụng những công ty ngụy trang để trộn lẫn những
khoản tiền bất hợp pháp với những khoản tiền hợp pháp. Với những khoản tiền
bất hợp pháp, công ty ngụy trang có thể đưa ra những sản phẩm với giá thấp hơn
giá thành sản xuất. Điều này làm cho những doanh nghiệp hợp pháp rất khó khăn
trong việc cạnh tranh với công ty ngụy trang, và có thể dẫn đến phá sản.
Lũng đoạn hệ thống tài chính.
Hoạt động rửa tiền gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của các
ngành kinh tế tài chính vì hai lý do: (i) hoạt động rửa tiền làm gia tăng các hành
vi gian lận của các nhân viên trong định chế tài chính phục vụ cho mục đích rửa
tiền của bọn tội phạm. Hành vi thông đồng tiếp tay cho hoạt động rửa tiền của
9
nhân viên cũng là yếu tố đầu tiên của chu trình rửa tiền qua hệ thống ngân hàng;
(ii) ở các nước đang phát triển, uy tín của định chế tài chính tác động tới tâm lý
khách hàng, đến lượt nó tác động trở lại tới sự phát triển và lớn mạnh của định
chế tài chính đó.
Nguy hại đến nền kinh tế vĩ mô.
Trong một nghiên cứu, tổ chức tư vấn dịch vụ John Walker đã sử dụng
mô hình I-O để phân tích những kịch bản của tác động rửa tiền. Trong một kịch
bản trung hòa nhất cho thấy tác động như sau: 1 tỷ USD rửa tiền làm giảm đi
1,13 tỷ USD giá trị sản lượng, 609 ngàn USD thu nhập và 25 việc làm[4].
Bóp méo hoạt động ngoại thương.
Hoạt động rửa tiền có liên hệ mật thiết tới việc làm biến tướng các hoạt
động xuất nhập khẩu của một quốc gia. Trong lĩnh vực này, bọn tội phạm thường
sử dụng các khoản tiền bất hợp pháp đã được tẩy rửa để nhập khẩu các mặt hàng
sang trọng, đắt tiền, những mặt hàng này không hề sinh lợi cho nền kinh tế hay
tạo ra công ăn việc làm cho người dân thậm chí trong một số trường hợp còn tạo
ra một số cơn sụt giá giả tạo, điều đó dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp
sản xuất trong nước bị giảm sút.
Ngăn cản hội nhập quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập, nhiều vấn đề đã trở thành thách thức toàn cầu
như bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái, phòng, chống dịch bệnh, chống
khủng bố, chống tội phạm có tổ chức, bảo vệ sở hữu trí tuệ, trong đó có đấu
tranh phòng, chống rửa tiền luôn được quan tâm hàng đầu. Tiêu chí để đánh giá
một quốc gia tích cực đấu tranh chống rửa tiền là quốc gia đó phải: (i) Công
4 TS. Nguyễn Trọng Hoài, Nguyễn Hoài Bảo (2005), “Rửa tiền trở ngại cho phát triển kinh tế”, Tạp chí kinh tế phát
triển, (số 186), TPHCM.
10
nhận và tham gia ký kết các công ước quốc tế về phòng, chống rửa tiền; (ii) Có
hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền được xây dựng trên cơ sở 40+9
khuyến nghị của FATF; (iii) Có tổ chức chuyên trách về đấu tranh phòng, chống
rửa tiền và tổ chức tốt cuộc đấu tranh này. Nếu không có những điều kiện trên và
để cho hoạt động rửa tiền phát triển thì quốc gia đó không phải là một đối tác tin
cậy và không thể tham gia thị trường tài chính thế giới một cách toàn diện.
Bên cạnh những tác động tiêu cực, thì rửa tiền cũng có những tác động
tích cực đối với nền kinh tế như: cơ sở vật chất ở nước nhận đầu tư được cải
thiện, tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn, thu hút đầu tư nước ngoài nhiều hơn …
Tóm lại, những tích cực của rửa tiền mang lại là nhất thời, nhưng các tác
hại của nó gây ra là lâu dài. Do vậy, hoạt động chống tội phạm rửa tiền là một
hoạt động rất cần nhận được sự quan tâm của các nước trên thế giới.
1.1.3. Nguyên nhân và điều kiện phát triển nạn rửa tiền trên thế giới.
Nhu cầu hợp pháp hóa các tài sản bất hợp pháp.
Theo các chuyên gia IMF, nhu cầu tẩy rửa tiền hàng năm trên thế giới
khoảng 1040 tỷ USD đến 2600 tỷ USD, và con số này tăng khoảng 5% qua các
năm. Để xóa bỏ mọi dấu vết của tài sản bất hợp pháp, bọn tội phạm thường dấu
biệt danh tính của mình, tìm cách đầu tư vào các dự án hợp pháp và cố gắng thu
hồi trong thời gian nhanh nhất số tiền đầu tư đó.
Sự khiếm khuyết, chưa hoàn thiện của hệ thống pháp luật
Ngày 20/12/1988, lần đầu tiên tội phạm rửa tiền được định nghĩa trong
Công ước Viên của Liên Hiệp Quốc. Đến tháng 7/1989 nhóm hành động tài
chính (GAFI) được thành lập với sự tham gia của 130 chuyên gia đến từ 15 quốc
gia, và nhóm này đã đưa ra 14 nghị quyết về phòng, chống lạm dụng hệ thống
ngân hàng vào mục đích bất hợp pháp, củng cố hệ thống hình sự của các nước
thành viên và phát triển hợp tác quốc tế.
Ở góc độ quốc gia, mãi đến cuối những năm 80 và 90, hầu hết các quốc
11
gia trên thế giới mới quy định tội rửa tiền trong bộ luật hình sự. Một số nước
như: Trung Quốc, Đan Mạch, Bồ Đào Nha, Luxembourg quy định rửa tiền chỉ
liên quan tới ma túy. Trong khi đó các nước như: Đức, Tây Ban Nha, Hy Lạp
quy định rửa tiền nằm trong các tội phạm nghiêm trọng như: buôn bán ma túy,
vũ khí, mại dâm, buôn người. Và một số nước như: Mỹ, Thụy Điển, Pháp, Bỉ,
Áo … và Việt Nam lại quy định tội rửa tiền cho các loại tội phạm.
Chính sách nới lỏng kiểm soát ngoại hối.
Kể từ đầu những năm 1990, hầu hết các quốc gia đều có chính sách nới
lỏng kiểm soát ngoại tệ. Lượng tiền trao đổi hàng ngày đã tăng từ 590 tỷ USD
(năm 1989) lên 1880 tỷ USD năm 2004. Đi xa hơn, nhiều quốc gia đã sử dụng
hoặc công nhận Đô La Mỹ hay Euro như là một nội tệ bán chính thức của họ.
Nhờ thế một lượng tiền khổng lồ có thể được chuyển từ nước này sang nước
khác trong nháy mắt, ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan thẩm quyền.
Mức độ mở của nền kinh tế
Mức độ mở của nền kinh tế ở hầu hết các nước đã tăng vọt, nhất là 10-15
năm gần đây. Đi liền với sự gia tăng độ mở của nền kinh tế là sự đa dạng hóa các
loại hình dịch vụ tài chính với độ phức tạp cũng tăng lên. Dĩ nhiên, càng nhiều
loại hình dịch vụ tài chính thì càng nhiều cơ hội để chuyển tiền phi pháp.
Cạnh tranh thu hút vốn ngày càng gia tăng giữa các ngân hàng. Đây là yếu
tố mà bọn rửa tiền rất quan tâm, vì chúng biết rằng sớm muộn gì cũng có ngân
hàng sẵn sàng nhận tiền của chúng mà không cần biết nguồn tiền ấy có từ đâu.
Tác động của cuộc cách mạng thông tin.
Ở nhiều nước trên thế giới, các ngân hàng thương mại đã áp dụng những
tiến bộ của công nghệ thông tin sớm và nhanh nhất. Ngày nay, hầu hết dịch vụ
tài chính đều có thể thực hiện trong nháy mắt từ bất cứ nơi nào trên thế giới. Phí
giao dịch cũng hạ thấp: phí ngân hàng có thể được giảm tới 40% khi khách hàng
giao dịch qua fax thay vì đích thân đến ngân hàng, và giảm tới 98% khi dịch vụ
12
ấy được thực hiện qua internet. Với những thành quả này đã được bọn tội phạm
rửa tiền lợi dụng triệt để. Trong khi đó, các cơ quan công quyền, đặc biệt là ngân
hàng trung ương tỏ ra chậm chạp hơn nhiều, nhất là khi thực hiện sự phối hợp
với các ngân hàng thương mại hay với các nước khác.
Do vậy, để đảm bảo cho các nền kinh tế trên thế giới được phát triển một
cách bền vững, công tác phòng, chống rửa tiền phải đặt ra ở tất cả các nước trên
thế giới, không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển,
thông qua việc xây dựng luật phòng, chống rửa tiền và các văn bản quy phạm
pháp luật hướng tới kiểm soát chặt chẽ, hạn chế những điều kiện như trên. Qua
đó đẩy lùi nạn rửa tiền.
1.1.4. Quy trình và các phương thức rửa tiền.
1.1.4.1. Quy trình rửa tiền.
Về mặt quy trình, rửa tiền được chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: đưa tiền bất hợp pháp vào hệ thống kinh tế tài chính, gọt tắt
là “gài đặt”, “gửi tiền”. Giai đoạn này được coi là khó khăn nhất đối với bọn tội
phạm, vì tiền và tài sản bất hợp pháp đang được các cơ quan điều tra theo dõi.
Hơn thế nữa, nhà nước thường đặt ra nhiều quy chế để đón lõng bọn tội phạm
rửa tiền, ví dụ như: quy định lượng tiền mặt được đưa qua biên giới, được phép
thanh toán và thực hiện các quy định về khai báo ngân hàng.
Giai đoạn 2: tích tụ và quay vòng các khoản tiền sau khi chúng đã thâm
nhập hệ thống tài chính, gọi tắt là “chuyển dịch”, “sắp xếp”. Trong công đoạn
này, nhiều thao tác nghiệp vụ được thực hiện làm cho đồng tiền chuyển dịch
khắp nơi, quay vòng nhiều lần để xóa đi dấu vết tội phạm. Quốc gia nào có hệ
thống luật doanh nghiệp càng thông thoáng, thì càng dễ bị lợi dụng thông qua
việc thành lập công ty “ma”.
Giai đoạn 3: đầu tư hợp pháp, gọi tắt là “hòa nhập”. Đây là lúc bọn tội phạm
sử dụng tiền, tài sản đã được tẩy rửa để đầu tư một cách hợp pháp vào hoạt động
13
sản xuất kinh doanh dưới các hình thức như: đầu tư vào các doanh nghiệp, mua cổ
phiếu, tín phiếu, bất động sản … việc đầu tư vào sản xuất kinh doanh sẽ làm gia
tăng giá trị đồng tiền tội phạm, trộn lẫn đồng tiền hợp pháp và bất hợp pháp, đây
cũng là công đoạn khó khăn để có thể xác định hành vi cấu thành tội phạm.
1.1.5.2. Các phương thức rửa tiền.
Theo phạm vi thực hiện, thì có 5 trường hợp rửa tiền cơ bản:
Trường hợp 1: “tiền bẩn” được tẩy rửa và sử dụng ngay trong nước. Đây
là quá trình mà số tiền bất hợp pháp được hình thành, được tẩy rửa cũng như
được tái đầu tư qua hệ thống tài chính của nước đó.
Trường hợp 2: “tiền bẩn” được hình thành ở trong nước, sau đó chuyển ra
nước ngoài để tẩy rửa trong hệ thống tài chính khác và cuối cùng đem trở lại lưu
thông trên thị trường trong nước.
Trường hợp 3: “tiền bẩn” được hình thành ở nước ngoài, được tẩy rửa ở
nước đó hay nước khác và cuối cùng được đầu tư cho các nước đang phát triển.
Trường hợp 4: “tiền bẩn” được rửa và rút khỏi hệ thống tài chính của một
nước đang phát triển để sử dụng ở nước khác, không quay lại đầu tư cho nước đó.
Trường hợp 5: “tiền bẩn” sau khi rửa được chuyển vào một nước đang phát
triển nhưng không phải để đầu tư mà được lưu thông tản mạn, tiêu thụ khắp nơi.
Theo nội dung hoạt động, rửa tiền biểu hiện theo một số phương thức
như:
Rửa tiền thông qua đầu tư nước ngoài.
Thời gian qua, pháp luật đầu tư nước ngoài của những nước đang phát
triển được xây dựng và thường được bổ sung, sửa đổi theo hướng ngày càng
thông thoáng, thuận lợi cho nhà đầu tư. Thậm chí độ thông thoáng đến mức
người ta không cần quan tâm đến nguồn gốc vốn đầu tư. “Tiền sạch”, “tiền bẩn”
đều được chấp nhận thông qua hoạt động đầu tư. Đây là mảnh đất màu mỡ để
14
rửa tiền. Về phía bọn tội phạm, hiệu qủa đầu tư lại không phải là mục đích và lỗ
lãi không quan trọng nên hoạt động đầu tư chỉ được xem như là một công cụ rửa
tiền. Chúng đưa tiền vào nước các nước đang phát triển để mua bất động sản,
mua lại nhà máy, công ty phá sản, thành lập các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài mới … lợi nhuận sau đầu tư được chuyển đến các địa chỉ mong
muốn đã có bề ngoài hợp pháp.
Với thủ đoạn rửa tiền thông qua đầu tư nước ngoài, các tổ chức tội phạm
đã hoàn tất 3 công đoạn của quá trình rửa tiền. Duy trì các kết quả đầu tư càng
lâu dài thì bóng dáng của đồng vốn bất hợp pháp càng phai mờ.
Rửa tiền thông qua các công ty bảo hiểm.
Theo đó, bọn tội phạm dùng tiền có nguồn gốc bất hợp pháp mua bảo
hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm. Khoản tiền này được nằm trong tài
khoản của công ty bảo hiểm một thời gian nhất định. Tiền có nguồn gốc bất hợp
pháp không được sử dụng trong thời gian dài cũng đã tạo ra cho nó một điều
kiện an toàn nhất định. Sau đó, kẻ tẩy rửa sẽ viện một lý do nào đó để yêu cầu
rút tiền trước thời hạn hoặc dùng giá trị của hợp đồng bảo hiểm để đảm bảo chi
trả cho một nhu cầu giao dịch nào đó như mua bất động sản.
Trên thực tế bọn tội phạm còn biến hóa để nó trở nên rối rắm hơn nhiều.
Trong trường hợp khi yêu cầu công ty bảo hiểm rút tiền, chúng không rút tiền
cho chính bản thân mình mà sẽ chỉ định một người khác là người thụ hưởng như
con, cháu, đồng bọn, luật sư.
Rửa tiền bằng cách sử dụng hóa đơn, chứng từ giả.
Theo quy định pháp luật của nhiều nước, việc thành lập và hoạt động của
các doanh nghiệp hầu như không chịu sự kiểm soát nào từ phía nhà nước. Muốn
thành lập doanh nghiệp chỉ cần đăng ký qua mạng, qua điện thoại, qua luật sư
đại diện. Ngay sau khi thành lập, doanh nghiệp có thể mua hóa đơn từ chi cục
thuế để hoạt động. Những công ty bình phong có thể được lập ra, bằng cách thuê
người khác đứng tên để được thành lập, thuê địa chỉ làm trụ sở hoặc khai gian
15
địa chỉ rồi biến mất, những doanh nghiệp này được gọi là doanh nghiệp “ma”
hay doanh nghiệp “ảo”. Hoạt động của chúng không chỉ gắn với rửa tiền mà còn
có thể lừa đảo, trốn thuế, buôn lậu, tham nhũng …Và theo đó, bọn tội phạm sử
dụng tư cách pháp nhân của doanh nghiệp “ma” để ký kết các hợp đồng thương
mại “ma”, cung cấp các dịch vụ khống và xuất hóa đơn, chứng từ theo các yêu
cầu rửa tiền hay mục đích phạm tội. Ở hình thức khác, do có nhiều công ty ở
nhiều nước nên chúng chuyển tiền bất hợp pháp vào công ty ở nước này, rồi từ
công ty đó mua tài sản hoặc dịch vụ của công ty đặt ở nước khác (bề ngoài có
thể khác chủ, nhưng thực tế cùng chủ), với giá rất cao so với giá trị thực của tài
sản. Kỹ thuật này giúp chúng lý giải được nguồn gốc của số lãi giả tạo.
Rửa tiền tại các sòng bạc.
Tại các sòng bạc hầu như không có bất cứ hành động nào nhằm kiểm soát
nguồn gốc tiền của khách mang đến chơi bạc. Do vậy, sòng bạc được xem là
thiên đường để bọn tội phạm thực hiện tẩy rửa tiền bằng cách bỏ tiền có nguồn
gốc bất hợp pháp để mua vé, mua thẻ chơi bạc. Nếu thắng, chúng sẽ được trả
bằng séc để đưa tiền thắng bạc vào tài khoản của mình. Như vậy, bọn tội phạm
sẽ có séc của sòng bạc để hợp pháp hóa những đồng tiền bất hợp pháp. Ở khía
cạnh khác, nhiều khi việc đánh bạc chỉ là hình thức bên ngoài, thực chất bọn tội
phạm đang thỏa thuận với chủ sòng bạc để có được xác nhận các khoản tiền
thắng bạc với một tỷ lệ chi phí nhất định.
Rửa tiền thông qua xổ số và cá cược hợp pháp.
Việc hợp thức hóa tiền có nguồn gốc phạm tội đôi khi được thực hiện
thông qua mua lại những giải thưởng xổ số với giá lớn hơn giá trị thực mà người
trúng thưởng có thể được hưởng. Khoản chi phí lớn hơn đó là khoản chi phí đảm
bảo cho tính hợp pháp của đồng tiền bất hợp pháp. Sau khi sở hữu vé xổ số trúng
thưởng, bọn tội phạm vào Công ty phát hành xổ số là có thể nhận tiền hợp pháp.
Trong điều kiện của cơ chế thị trường, nhiều trò chơi cá cược được thừa
nhận là nhu cầu giải trí như: đua ngựa, đua chó, trọi gà, trọi trâu …., hoạt động
16
cá cược này sử dụng tiền mặt với số lượng lớn. Đây cũng là mảnh đất tốt cho
việc rửa tiền.
Rửa tiền thông qua đầu tư chứng khoán.
Thị trường chứng khoán cũng là nơi bọn tội phạm chú ý lợi dụng để rửa
tiền, nhất là thị trường chứng khoán ở những nước chưa có quy định chặt chẽ về
kiểm soát nguồn gốc tài chính và pháp luật về rửa tiền. Bọn tội phạm sử dụng
các khoản tiền bất hợp pháp để đầu tư cổ phiếu được niêm yết tại các trung tâm
giao dịch chứng khoán. Sau một thời gian đầu tư, các cổ phiếu trên sẽ được bán
ra với giá có thể thấp hơn giá đầu tư ban đầu, nhưng dấu vết tội phạm của đồng
tiền bất hợp pháp đã dần phai mờ. Do những đồng tiền này được nhận qua hệ
thống tài chính, nên nó có được bề ngoài hợp pháp.
Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng đã và đang trở thành một trong những
mô hình rửa tiền mà bọn tội phạm ưa thích sử dụng. Rửa tiền qua hệ thống ngân
hàng là việc lợi dụng những kẻ hở trong các quy định giao dịch, cho vay của
ngân hàng để thực hiện tẩy rửa tiền. Một trong những ưu điểm nổi bật của
phương thức này là nếu thực hiện trót lọt, dấu vết của đồng “tiền bẩn” gần như
được xóa bỏ hoàn toàn. Đồng tiền đội lốt hợp pháp được bổ sung vào dòng chảy
vốn của nền kinh tế một cách tự nhiên. Hơn nữa, trên thế giới hầu như nước nào
cũng có hệ thống ngân hàng. Càng ở những nước có quy định về phòng, chống
rửa tiền sơ khai, việc lợi dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền càng thuận lợi
hơn.
1.2. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.
1.2.1. Các dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.
Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là một trong những phương thức mà bọn
tội phạm thường sử dụng. Tuy nhiên, để có thể rửa tiền qua kênh này, bọn tội
phạm thường sử dụng các thủ thuật hết sức tinh vi. Do vậy, việc đưa ra các dấu
17
hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là hết sức cần thiết.
Có thể phân loại, định dạng và nhận biết một số dấu hiệu đáng ngờ ở các
giao dịch mà bọn tội phạm lợi dụng để rửa tiền như sau:
Thứ nhất, thông qua thông tin về khách hàng
Ngân hàng hoàn toàn có đủ cơ sở để nghi ngờ bất cứ một khách hàng nào
có thái độ miễn cưỡng khi cung cấp các thông tin, chứng từ thông thường theo
quy định của ngân hàng trong quan hệ giao dịch với khách hàng. Đặc biệt là
những khách hàng cung cấp ít thông tin, cung cấp thông tin sai sự thật, hoặc khi
nộp đơn xin mở tài khoản tại ngân hàng, những khách hàng này đã cung cấp
những thông tin mà nếu muốn xác minh được những thông tin đó thì ngân hàng
sẽ gặp khó khăn hoặc phải trả chi phí rất cao.
Thứ hai, các tài khoản giao dịch đang bị điều tra hoặc bị khởi kiện.
Nhân viên ngân hàng thường chú ý đến các chủ tài khoản đang bị điều tra,
khởi kiện hoặc liên quan đến các vụ án đang được xét xử tại tòa án, hoặc nằm
trong danh sách cảnh báo rửa tiền.
Thứ ba, thông qua tính chất, đặc điểm của giao dịch.
Các giao dịch không mang lợi ích về mặt kinh tế
Các giao dịch này có đặc điểm không phù hợp với các hoạt động thông
thường của khách hàng. Ví dụ như việc sử dụng thư tín dụng và một số biện
pháp tài chính thương mại để chuyển tiền từ quốc gia này sang quốc gia khác.
Tuy nhiên, việc chuyển tiền này lại không phù hợp với các hoạt động kinh doanh
thông thường của khách hàng. Một trường hợp điển hình khác là các giao dịch
qua các tài khoản mà trước đó hầu như không có giao dịch nào, nhưng hiện tại
lại có rất nhiều giao dịch một cách bất thường mà chủ tài khoản này không đưa
ra được sự giải thích hợp lý cho việc liên tục sử dụng tài khoản ở mức độ cao.
Các giao dịch gồm nhiều khoản tiền mặt giá trị lớn.
18
Một là, mua hoặc bán ngoại tệ bằng tiền mặt với số lượng lớn cho dù
khách hàng có tài khoản trong ngân hàng.
Hai là, thường rút tiền mặt từ tài khoản với số lượng lớn, mà số tiền này
dường như không phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Ba là, rút tiền mặt với số lượng lớn từ tài khoản vừa mới bất ngờ nhận
được một khoản chuyển tiền vô cùng lớn từ nước ngoài.
Bốn là, gửi tiền mặt với số lượng lớn vào tài khoản bằng cách chia nhỏ số
tiền mặt muốn gửi thành nhiều khoản khác nhau. Tuy nhiên, nếu tính tổng số tất
cả các khoản tiền gửi đã chia nhỏ thì giá trị rất lớn.
Năm là, các khách hàng thường xuyên gửi tiền mặt với số lượng lớn vào
ngân hàng, nhưng tiền rút ra khỏi tài khoản thường bằng séc chi trả cho các cá
nhân, hay công ty không có quan hệ kinh doanh với khách hàng.
Các giao dịch liên quan đến các tài khoản trong ngân hàng có một số đặc
điểm bất thường. Sau đây là hai trường hợp tiêu biểu:
Một là, tài khoản có tốc độ chu chuyển tiền trong ngày rất cao. Điều này
thể hiện ở việc thay đổi đột biến doanh số giao dịch trên tài khoản. Doanh số
giao dịch lớn trong một thời gian ngắn nhưng số dư tài khoản nhỏ.
Hai là, các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác
nhau về một tài khoản thành một khoản tiền lớn và ngược lại. Trong một thời
gian rất ngắn, tiền được chuyển lòng vòng qua nhiều tài khoản khác nhau.
Các giao dịch liên quan đến các cuộc chuyển tiền ra nước ngoài.
Trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, các
giao dịch liên quan đến chuyển tiền ra nước ngoài là phổ biến. Tuy nhiên trong
số các giao dịch đó, cũng có những giao dịch với mục đích bất thường. Nhân
viên ngân hàng có thể nhận biết được qua mục đích, tính chất của việc chuyển
tiền. Sau đây là một số dấu hiệu điển hình mà ngân hàng cần quan tâm, lưu ý:
19
Việc một khách hàng vãng lai chuyển tiền ra nước ngoài mà không đưa ra
lý do hợp pháp.
Một khách hàng chuyển tiền tới chi nhánh nước ngoài, công ty con, hoặc
ngân hàng có trụ sở tại một quốc gia nơi mà buôn lậu, tham nhũng, sản xuất và
buôn bán ma túy thường xuyên diễn ra.
Các giao dịch liên quan đến hoạt động đầu tư.
Một là, hoạt động mua bán chứng khoán không phù hợp với vị thế hiện tại
của khách hàng, hoặc khách hàng đầu tư chứng khoán bằng tiền mặt một cách
khác thường với số lượng lớn.
Hai là, vốn đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có nguồn
gốc từ các nước có tỷ lệ tội phạm cao như: Ý, Nga, Macao ….. hay từ các nước có
hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền còn yếu kém như các nước Châu Phi.
Thứ tư, thông qua các khoản vay có hoặc không có thế chấp
Các khoản vay được trả bằng tiền mặt, ngoại tệ hoặc các công cụ thanh
toán khác mà người cho vay không được tiết lộ.
Các khoản cho vay được đảm bảo bằng tài sản của bên thứ ba mà không
có mối liên hệ minh bạch với khách hàng.
1.2.2. Điều kiện phát sinh rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.
Thứ nhất, hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền chưa đầy đủ.
Rửa tiền là một vấn đề mang tính toàn cầu. Bọn tội phạm thường lợi dụng
những sơ hở trong các quy định về giám sát của ngân hàng để thực hiện hành vi
rửa tiền. Do đó, điều đầu tiên phải kể đến đó là hệ thống tài chính tiền tệ đang
trong giai đoạn phát triển với những quy định lỏng lẻo trong cơ chế giám sát từ
phía các tổ chức tài chính là một trong những nguyên nhân tạo cơ hội thực hiện
rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, bộ máy tổ chức về phòng, chống rửa tiền còn hạn chế
20
Về công tác quản lý: ngân hàng trung ương thiếu một cơ quan đầu mối về
phòng, chống rửa tiền. Cơ quan này có nhiệm vụ tiếp nhận thông tin về các giao
dịch đáng ngờ từ các ngân hàng thương mại trong nước, cũng như tập hợp danh
sách các giao dịch đáng ngờ từ các nước trên thế giới.
Về phía các ngân hàng thương mại: thiếu cán bộ, hệ thống công nghệ
thông tin còn tương đối lạc hậu và chưa có quy trình về phòng, chống rửa tiền.
Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thường phải đối
mặt với nhiều rủi ro. Do đó, các ngân hàng phải xây dựng các quy trình giám sát,
kiểm toán nội bộ thực sự chặt chẽ. Tuy nhiên, trong hầu hết các ngân hàng, việc
xây dựng các quy trình giám sát về phòng, chống rửa tiền còn thiếu hoặc chưa
được quan tâm đúng mức. Các ngân hàng không áp dụng các quy định trong việc
nhận dạng và thực hiện nguyên tắc hiểu biết khách hàng.
Thứ ba: một số quy định về thanh toán tạo thuận lợi cho hoạt động rửa tiền.
Tín dụng chứng từ (LC) là một trong những công cụ được bọn tội phạm
rửa tiền ưa thích sử dụng nhất, là vì các giao dịch “ma” thanh toán bằng phương
thức này ít bị nghi ngờ và có thể qua mặt ngân hàng và cơ quan pháp luật. Một
trong những yếu tố hấp dẫn của LC là “các ngân hàng giao dịch trên cơ sở các
chứng từ chứ không phải bằng hàng hóa, dịch vụ hoặc các thực hiện khác có liên
quan đến chứng từ” [5], tức là ngân hàng phát hành LC sẽ thanh toán khi nhận
được các chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của LC chứ không
phải chờ khi hàng đến rồi mới thanh toán. Đối với những LC thanh toán bằng
vốn tín dụng, ngân hàng có thể tham gia can thiệp vào một số điều kiện, điều
khoản của LC nhằm tránh rủi ro cho khách hàng và gián tiếp là tránh rủi ro cho
ngân hàng tài trợ. Ngoài ra, sau khi cho vay thanh toán LC, ngân hàng còn theo
dõi, kiểm tra hàng hóa. Tuy nhiên, đối với LC thanh toán bằng vốn tự có và ký
5 International Chamber Commerce (2007), the Uniform Customs and Practice for Documentary
Credits, Art 5
21
qũy đủ 100% thì các ngân hàng thường chỉ tư vấn chứ không can thiệp vào nội
dung LC và cũng không phải kiểm tra, theo dõi hàng hoá đã được nhận hay
chưa. Thêm vào đó ngân hàng không yêu cầu nhà nhập khẩu bổ sung tờ khai hải
quan sau khi hoàn tất thủ tục nhận hàng. Điều này tạo điều kiện tội phạm mở LC
“ma” với yêu cầu về chứng từ đơn giản để người thụ hưởng là đồng bọn của
chúng có thể dễ dàng xuất trình chứng từ yêu cầu thanh toán. Theo điều 15 của
UCP 600: “khi ngân hàng phát hành xác định việc xuất trình là phù hợp, thì nó
phải thanh toán”, khi đó ngân hàng phát hành thực hiện ghi nợ tài khoản thanh
toán của nhà nhập khẩu. Đến thời điểm này ngân hàng đóng hồ sơ LC mà không
có tờ khai hải quan, nhà nhập khẩu nhận bộ chứng từ nhưng không đi nhận hàng
vì thực tế đó chỉ là giao dịch “ma”, tiền được chuyển ra nước ngoài không gặp
trở ngại nào.
Phương thức nhờ thu chứng từ cũng được bọn tội phạm lợi dụng để rửa
tiền. Thủ thuật có thể được thực hiện như sau: nhà xuất khẩu là đồng bọn của
nhà nhập khẩu thông qua ngân hàng chuyển giao chứng từ và chỉ thị nhờ thu.
Theo đó, bộ chứng từ được gửi đến ngân hàng xuất trình để nhờ thu, ngân hàng
này xuất trình bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu và yêu cầu thanh toán. Biết rằng
bộ chứng từ là giả mạo nhưng nhà nhập khẩu vẫn đồng ý thanh toán cho nhà
xuất khẩu, và tất nhiên nhà nhập khẩu cũng sẽ không đi nhận hàng. Những giao
dịch không có thật này, thường được bọn tội phạm thanh toán bằng vốn tự có để
tránh việc ngân hàng kiểm tra hàng hóa như trong trường hợp giao dịch nhập
khẩu được ngân hàng tài trợ bằng vốn tín dụng.
Ứng trước một phần tiền hàng là một trong những điều kiện mua bán bình
thường trong hợp đồng thương mại quốc tế. Để nhà xuất khẩu có thể ứng trước
một phần tiền hàng từ nhà nhập khẩu, thì giữa nhà xuất khẩu và nhập khẩu phải
có hợp đồng mua bán hàng hóa với điều khoản thanh toán trước cho nhà xuất
khẩu một số tiền nhất định, để làm cơ sở cho việc ngân hàng chuyển tiền thanh
toán. Như vậy tại thời điểm thanh toán ngân hàng chưa có đầy đủ chứng từ thanh
toán. Nếu đây là những giao dịch thật thì không có vấn đề gì phải bàn, nhưng
22
nếu đó là thủ thuật của bọn tội phạm lợi dụng để rửa tiền thì là chuyện khác.
Ngân hàng có thể bị cáo buộc là đã tiếp tay cho bọn tội phạm rửa tiền. Có ngân
hàng cẩn thận hơn yêu cầu khách hàng bổ sung tờ khai hải quan và các chứng từ
khác khi hoàn tất việc nhận hàng. Nhưng giao dịch “ma” nhằm mục đích rửa tiền
thì làm gì có hàng để nhận. Do vậy nhà nhập khẩu sẽ không thể bổ sung các
chứng từ theo yêu cầu của ngân hàng. Ngân hàng chỉ còn biết rút kinh nghiệm
lần sau sẽ không chấp nhận chuyển tiền cho nhà nhập khẩu này nữa.
Lợi dụng bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Nhà xuất khẩu A (trong nước) ký
hợp đồng xuất khẩu “ma” với nhà nhập khẩu B (nước ngoài), trong đó quy định
nhà xuất khẩu A phải cung cấp cho nhà nhập khẩu B một bảo lãnh ngân hàng trị
giá 10% giá trị hợp đồng để đảm bảo cho việc giao hàng. Nhà xuất khẩu A ký
qũy 100% để ngân hàng phát hành bảo lãnh. Khi đến hạn giao hàng nhà xuất
khẩu A cố tình không giao hàng và để cho ngân hàng phải thanh toán cho nhà
nhập khẩu B tiền phạt không thực hiện hợp đồng. Như vậy, tiền được chuyển ra
nước ngoài, với bề ngoài có vẻ hợp pháp. Trong trường hợp ngân hàng quan tâm
đến tổn thất của khách hàng thì được nhà xuất khẩu A trả lời rằng: “mặc dù phải
thanh toán tiền phạt không thực hiện hợp đồng nhưng trong thương vụ này công
ty vẫn có lãi vì đã ký hợp đồng với nhà nhập khẩu khác với giá cao hơn nhiều”.
Lý giải này có vẻ xóa tan nghi ngờ của ngân hàng.
Lợi dụng bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước: nhà nhập khẩu B (trong nước)
ký hợp đồng nhập khẩu “ma” với nhà xuất khẩu A (nước ngoài), trong đó quy
định nhà nhập khẩu B phải trả trước 20% trị giá hợp đồng khi nhận được bảo
lãnh hoàn trả tiền ứng trước do ngân hàng của nhà xuất khẩu A phát hành. Khi
nhận được bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, nhà nhập khẩu B xuất trình thư bảo
lãnh và đề nghị ngân hàng của mình thực hiện chuyển tiền cho nhà xuất khẩu A
bằng vốn tự có của mình. Tất nhiên nhà nhập khẩu B chẳng bao giờ yêu cầu
ngân hàng phát hành bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước mặc dù nhà xuất khẩu A
không thực hiện các cam kết theo hợp đồng.
23
Bên cạnh rửa tiền thông qua các giao dịch “ma”, bọn tội phạm còn thực
hiện rửa tiền thông qua những giao dịch có thật, nhưng thủ thuật tinh vi hơn, đó
là hạ giá hoặc nâng giá hàng hóa. Khoản chênh lệch giữa giá thực tế và giá nhập
khẩu chính là khoản tiền phi pháp mà bọn tội phạm muốn tẩy rửa. Sau vụ 11/9,
Mỹ nghi ngờ mạng lưới Al Qaeda có thể đã sử dụng thủ thuật nâng giá xuất khẩu
mật ong để chuyển tiền giữa Mỹ và Trung Đông. Phân tích của hai giáo sư Đại
học quốc tế Florida cho thấy giá xuất khẩu mật ong đến Các Tiểu Vương Quốc
Ả Rập, Cô-oét, Ả Rập xê-út, Yemen cao hơn giá xuất khẩu mật ong đến các
nước khác đáng kể. Bộ Ngân khố Mỹ đã ra lệnh cho các ngân hàng phong tỏa tài
khoản của ba Công ty bán mật ong cho Yemen, vì nghi ngờ các Công ty này có
thể là một bộ phận của mạng lưới Al Qaeda.
1.3. Hệ thống ngân hàng và phương thức phòng, chống rửa tiền qua hệ
thống ngân hàng.
1.3.1. Hệ thống ngân hàng.
Tại hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng được
chia thành hai cấp: cấp 1 là ngân hàng trung ương, cấp 2 là ngân hàng trung gian.
Ngân hàng trung ương
Ngân hàng trung ương là một định chế quản lý nhà nước về tiền tệ tín
dụng, nó nằm trong bộ máy quyền lực quốc gia. Hiện nay, các nước trên thế giới
dù lớn hay nhỏ đều có ngân hàng trung ương, nó có thể được xây dựng ngay sau
khi hình thành quốc gia, hoặc có thể có nguồn gốc từ các ngân hàng thương mại
tư nhân được quốc hữu hóa [6]
Với tư cách là một bộ máy của Chính phủ, ngân hàng trung ương có nhiệm
vụ và quyền hạn như một cơ quan của chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà
6 TS.Lê Vinh Danh (1997), Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương ở các nước tư bản phát
triển, tr 46
24
nước trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng. Nhiệm vụ cụ thể khi thực hiện chức năng
này bao gồm: (i) Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội của nhà nước; (ii) Xây dựng chiến lược phát triển ngành ngân hàng trình cấp
có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện; (iii) Xây dựng các dự án luật, pháp
lệnh và các dự án khác về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo sự phân công của
chính phủ; (iv) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan nhà nước xây dựng và trình các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và
hoạt động ngân hàng; tuyên truyền, phổ biến và kiểm tra các văn bản quy phạm
pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; (v) Xây dựng chính sách tiền tệ quốc
gia trong từng thời kỳ trình chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện; (vi) Chủ
động điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, các biện pháp khác để thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia; (vii) Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động
của các tổ chức tín dụng; (viii) Thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý các vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp
luật; (ix) Chủ trì phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng chính sách, kế
hoạch phòng, chống rửa tiền và tổ chức thực hiện; (x) Quản lý ngoại hối và hoạt
động ngoại hối; (xi) Đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế về tiền tệ và
hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật; (xii) Tổ chức thực hiện hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng và thực hiện các nhiệm vụ
quyền hạn khác theo quy định pháp luật của từng quốc gia.
Với tư cách là ngân hàng trung ương, cơ quan này thực hiện các chức
năng có tính chất nghiệp vụ như : (i) Phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ;
(ii) Thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng; (iii) Thực hiện chức
năng ngân hàng của chính phủ.
Ngân hàng trung gian.
Thuật ngữ “ngân hàng trung gian” dùng để ám chỉ nhiều loại ngân hàng.
Tùy theo mỗi quốc gia, các loại ngân hàng này có thể có những tên gọi khác
nhau, nhưng nhìn chung hệ thống ngân hàng trung gian gồm có: ngân hàng
25
thương mại, ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng đặc biệt, các định chế tài
chính trung gian phi ngân hàng khác.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, ngân hàng trung gian thực hiện các
chức năng cơ bản như sau:
Thứ nhất là trung gian tín dụng, vì ngân hàng là cầu nối giữa khách hàng
gửi tiền và vay tiền, ngân hàng chuyển hóa những khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm,
tài sản tạm thời chưa sử dụng của một số chủ thể kinh tế này đến tay chủ thể
kinh tế khác đang cần tiền để sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. Với chức năng
trung gian tín dụng, ngân hàng trung gian là một thiết chế kinh doanh chuyên
nghiệp, giúp cho cung cầu tín dụng trong nền kinh tế có thể dễ dàng gặp nhau.
Thứ hai là là trung gian thanh toán. Theo chức năng này, ngân hàng trung
gian thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài
khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài
khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh
của họ. Để thực hiện tốt chức năng này, ngân hàng cung cấp cho khách hàng
nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như: séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ
rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn
cho mình phương thức thanh toán phù hợp.
Thứ ba là trung gian giữa ngân hàng trung ương và nền kinh tế. Thông
qua ngân hàng trung gian, tiền mặt từ ngân hàng trung ương cung ứng ra lưu
thông và việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương sẽ tác động
trực tiếp đến nền kinh tế. Cũng thông qua ngân hàng trung gian, tình hình về nhu
cầu tiền, tổng cung tiền tệ, lãi suất, tỷ giá, gian lận thương mại, đặc biệt là việc
lợi dụng hệ thống ngân hàng để tiến hành rửa tiền được phản hồi về ngân hàng
trung ương.
1.3.2. Phương thức phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.
Với những tác hại to lớn của việc lợi dụng hệ thống ngân hàng để tiến
26
hành rửa tiền. Nhìn chung, các quốc gia phát triển đều đã thực hiện phương thức
phòng, chống rửa tiền như sau:
Ban hành Luật và các quy định liên quan đến phòng, chống rửa tiền.
Hiện nay, tại hầu hết các nước phát triển đã ban hành Luật phòng, chống
rửa tiền. Thời gian ban hành Luật ở mỗi nước có khác nhau, tùy thuộc vào quy
mô, mức độ tác hại của rửa tiền đối với quốc gia đó. Tuy nhiên, Luật phòng,
chống rửa tiền ở các nước có một số đặc điểm chung như: (i) Luôn hướng đến
việc tuân thủ các khuyến nghị của FATF; (ii) Liệt kê tất cả các tội danh liên quan
đến rửa tiền; (iii) Yêu cầu các tổ chức tín dụng phải thực hiện quy tắc nhận biết
khách hàng; (iv) Quy định mức giao dịch phải báo cáo; (v) Các dấu hiệu của
giao dịch đáng ngờ; (vi) Trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan chuyên trách về
phòng, chống rửa tiền.
Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền.
Hầu hết các quốc gia đều xây dựng cho mình một cơ quan chuyên trách về
phòng, chống rửa tiền. Nhiệm vụ của cơ quan này là giám sát việc thực hiện
Luật phòng, chống rửa tiền. Có hai mô hình hoạt động cơ bản:
Mô hình thứ nhất, cơ quan phòng, chống rửa tiền là đơn vị trực thuộc bộ
máy Chính phủ, thường là trực thuộc ngân hàng trung ương, trợ giúp chính phủ
thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền. Bên cạnh việc thực hiện chức năng
giám sát thi hành Luật phòng, chống rửa tiền, cơ quan này còn thực hiện chức
năng thu thập các thông tin từ các tổ chức tín dụng, xử lý báo cáo giao dịch đáng
ngờ và đề xuất các biện pháp liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền.
Mô hình thứ hai, cơ quan phòng, chống rửa tiền là đơn vị hoàn toàn độc
lập với bộ máy Chính phủ, không chịu sự chi phối của bất kỳ đơn vị nào trong
bộ máy chính phủ. Nó có quyền hạn, chức năng, phạm vi hoạt động rộng rãi hơn.
Ở các nước xem cơ quan này là cơ quan tình báo tài chính. Ưu điểm nổi bật của
mô hình này là đảm bảo sự độc lập, khách quan trong điều tra rửa tiền.
27
Thiết lập quy trình phòng, chống rửa tiền tại các ngân hàng thương mại.
Đánh giá khách hàng, phân loại rủi ro.
Nhìn chung, các ngân hàng thương mại coi việc đánh giá và phân loại
khách hàng là việc làm hàng đầu. Việc đánh giá và phân loại khách hàng có ý
nghĩa quan trọng quyết định, vì thông qua đây, ngân hàng thương mại sẽ có các
biện pháp quản lý rủi ro thích hợp. Thông thường các ngân hàng thương mại trên
thế giới thường phân khách hàng thành 3 loại như sau:
Bảng 1.1: Phân loại các khách hàng có nghi vấn đến hoạt động rửa tiền
Phân loại khách hàng Mức độ giám sát
Khách hàng có rủi ro cao Kiểm tra giám sát thường xuyên và bắt buộc
trong việc tìm hiểu thông tin về khách hàng.
Khách hàng rủi ro trung bình Kiểm tra, giám sát ở mức độ bình thường và tìm
hiểu thông tin về khách hàng khi có yêu cầu.
Khách hàng rủi ro thấp Kiểm tra giám sát ở mức độ đơn giản và chỉ đòi
hỏi những thông tin thông thường về khách hàng.
Nguồn: Ngân hàng thế giới (2006), Nhận biết và theo dõi khách hàng, Hà nội.
Kiểm soát các giao dịch đáng ngờ.
Giao dịch đáng ngờ là giao dịch có dấu hiệu bất thường liên quan đến rửa
tiền được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật của từng quốc
gia. Hầu hết các quốc gia trên thế giới như: Mỹ, Nhật, Anh … đều xem xét dấu
hiệu bất thường dựa trên mức (ngưỡng) giá trị của các giao dịch quy định (thông
thường các giao dịch có giá trị vượt mức 10.000 USD hoặc tương đương sẽ nằm
trong danh sách các giao dịch cần phải lưu ý, báo cáo). Tuy nhiên ở một số ít các
quốc gia khác lại lưu ý đến những giao dịch có dấu hiệu không bình thường thông
qua tính chất, đặc điểm giao dịch, các thông tin về khách hàng … mà không quá
28
quan tâm đến giá trị giao dịch, tiêu biểu cho trường hợp này là Malaysia.
Khi phát hiện về các giao dịch đáng ngờ, nhân viên ngân hàng phụ trách
sẽ tiến hành xử lý, báo cáo cấp trên xem xét. Sau khi kiểm tra tính xác thực
thông tin về khách hàng, ngân hàng sẽ quyết định việc chuyển các thông tin này
cho Cơ quan phòng, chống rửa tiền. Để việc này được tiến hành tốt, các ngân
hàng phải được hướng dẫn xây dựng quy trình báo cáo thông tin về giao dịch
này, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc bảo mật thông tin khách hàng.
Lưu giữ hồ sơ về khách hàng
Các ngân hàng thương mại thực hiện nghiêm chỉnh việc lưu giữ hồ sơ,
thông tin về khách hàng. Các thông tin về nhận dạng khách hàng và thông tin
giao dịch được lưu giữ trong thời gian tối thiểu là 5 năm hoặc dài hơn theo yêu
cầu của các cơ quan chức năng, đặc biệt là các hồ sơ có liên quan đến công tác
điều tra khởi tố. Theo Luật phòng, chống rửa tiền của Malaysia, thời gian lưu giữ
hồ sơ khách hàng là 6 năm nếu không có dính líu gì đến các vụ việc khác.
Tuân thủ các khuyến nghị của FATF và thực hiện hợp tác quốc tế về
phòng, chống rửa tiền.
Ngày nay, hành vi rửa tiền không chỉ thực hiện trong phạm vi một quốc
gia mà còn có thể thực hiện xuyên suốt từ quốc gia này đến quốc gia khác. Do
vậy, công tác phòng, chống rửa tiền rất cần sự hợp tác của các quốc gia trong
việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm.
1.4. Phòng, chống rửa tiền ở một số nước trên thế giới và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam.
1.4.1. Hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống rửa tiền.
Một trong những quy định quốc tế đầu tiên là Bản tuyên bố về ngăn ngừa
tội phạm sử dụng hệ thống ngân hàng cho mục đích rửa tiền của Uỷ ban Basel về
giám sát ngân hàng. Bản tuyên bố này đưa ra các chính sách và thủ tục cơ bản
mà giám đốc ngân hàng cần bảo đảm có sẵn trong tổ chức của mình để hỗ trợ
29
cho việc chống rửa tiền. Về cơ bản, có bốn nguyên tắc được đưa ra trong Bản
tuyên bố này, đó là: (i) Nhận dạng khách hàng đúng cách; (ii) Tiêu chuẩn đạo
đức cao và tuân thủ luật pháp; (iii) Hợp tác với các cơ quan thi hành pháp luật;
và (iv) Các chính sách và thủ tục để bảo đảm tuân thủ Bản tuyên bố này
Do mối quan ngại về tình trạng buôn bán ma túy bất hợp pháp trên quốc tế
ngày càng tăng và những khối lượng tiền khổng lồ liên quan được đưa vào hệ
thống ngân hàng. Chương trình Liên Hợp Quốc về Kiểm soát ma túy (UNDCP)
đã khởi xướng một hiệp định quốc tế về chống buôn bán ma túy bất hợp pháp và
rửa tiền. Trong năm 1988, Công ước của Liên Hợp Quốc về chống buôn bán bất
hợp pháp ma túy và chất hướng thần (Công ước Viên) đã được thông qua, có
169 nước tham gia vào Công ước này và có hiệu lực từ tháng 11 năm 1990.
Công ước này chủ yếu đề cập đến các điều khoản để chống buôn bán bất hợp
pháp ma túy và các vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật. Mặc dù trong Công
ước không sử dụng thuật ngữ rửa tiền nhưng Công ước đã đưa ra định nghĩa về
khái niệm này và yêu cầu các nước hình sự hóa hoạt động đó. Tuy nhiên, Công
ước Viên chỉ quy định tội buôn bán ma túy bất hợp pháp là tội phạm nguồn và
không xử lý các khía cạnh mang tính phòng ngừa.
Tổ chức quốc tế quan trọng nhất trong việc phòng, chống rửa tiền là Lực
Lượng Đặc Nhiệm Tài Chính (FATF) do nhóm G-7 thành lập tại Paris năm
1989. Đó là tổ chức liên chính phủ nhằm phát triển và khuyến khích các tổ chức
cảnh sát trong việc chống rửa tiền. Việc thành lập tổ chức này xuất phát từ ý
tưởng cho rằng hoạt động rửa tiền là tội phạm kinh tế rất phức tạp, do đó nó
không thể được kiểm soát một cách hiệu quả bởi những phương pháp làm luật
thông thường. Kết quả là cần thiết phải tập hợp các cơ quan chức năng như:
Ngân hàng Trung ương, Bộ Tài chính, Cảnh sát… để phòng, chống rửa tiền.
Điều đó sẽ tạo ra sự phối hợp toàn diện để giải quyết vấn đề phức tạp này.
Nhiệm vụ đầu tiên của FATF là giúp các nước thành viên ban hành các quy
định về phòng, chống rửa tiền mà mục tiêu cuối cùng là ban hành được Luật Chống
30
Rửa Tiền. Theo hướng này, tháng 4 năm 1990, FATF đã ban hành 40 khuyến nghị
nhằm tìm kiếm sự nhất trí giữa các nước trong việc ban hành luật và thống nhất
hành động của các ngân hàng để hạn chế các dòng tiền thu được từ hoạt động buôn
bán ma tuý chuyển qua các tổ chức tài chính. Mặc dù các gợi ý về luật pháp được
đưa ra, nhưng FATF vẫn tiến hành đánh giá việc thực hiện của các nước thành viên
thông qua nỗ lực của từng nước trong việc ban hành các quy định về phòng, chống
rửa tiền. Một chức năng khác của FATF là cung cấp các trợ giúp kỹ thuật cho các tổ
chức ngoài nhóm như: Nhóm Châu Á Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG),
Lực lượng đặc nhiệm tài chính khu vực Caribe (CFATF), Hội đồng châu Âu, Nhóm
chống rửa tiền khu vực Đông và Nam Phi (ESAAMLG), Lực lượng đặc nhiệm tài
chính về chống rửa tiền khu vực Nam Mỹ (GAFISUD)
Mặc dù không thể khẳng định rằng FATF đã hạn chế được tất cả các giao
dịch rửa tiền trong giao dịch quốc tế, nhưng FATF đã có ảnh hưởng tích cực
trong việc tạo ra những quy tắc và luật lệ quốc tế về phòng, chống rửa tiền. Qua
việc đánh giá các nước trong việc thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền,
FATF đã yêu cầu các nước thành viên không chỉ ban hành hệ thống luật pháp,
mà còn phải thực hiện luật đó một cách nghiêm túc. Hơn nữa, FATF đã tạo ra
một diễn đàn hợp tác phòng, chống rửa tiền trên phạm vi quốc tế và đã thúc đẩy
các hoạt động phối hợp xuyên quốc gia về phòng, chống rửa tiền. Một ví dụ điển
hình là sự phối hợp giữa Mỹ và Colombia trong việc điều tra hoạt động rửa tiền
của Tập đoàn Cali vào những năm 90.
FATF cũng đã thành công trong việc biên soạn danh sách những nước và
những tổ chức khủng bố liên quan đến rửa tiền. Mục đích của “danh sách đen” này
là “chỉ tên và làm xấu hổ” các nước được coi là thiên đường của việc rửa riền. Danh
sách đen này bao gồm: Ecuado, Iran, Pakistan, North Korea, Ethiopia, Angola,
Turkmenistan, Sao Tome and Principe. Khi danh sách được công bố, hàng loạt các
ngân hàng đã cắt bỏ quan hệ đại lý với các ngân hàng tại các nước trong danh sách
trên. Mặc dù, một mặt các nước trên đều phản đối danh sách này, mặt khác hầu hết
họ đều nỗ lực ban hành hoặc sửa đổi các luật lệ và quy định cho phù hợp với các
31
khuyến nghị của FATF, đồng thời tích cực hợp tác quốc tế toàn diện và thực hiện
báo cáo các giao dịch đáng ngờ để cố gắng ra khỏi danh sách trên.
1.4.2. Phòng, chống rửa tiền tại một số nước trên thế giới.
1.4.2.1. Phòng, chống rửa tiền tại Mỹ.
Mỹ là nước có hệ thống luật pháp về phòng, chống rửa tiền toàn diện và
nghiêm khắc nhất trên thế giới mà tất cả các định chế tài chính và nhân viên của
họ đều phải tuân theo.
Với mục tiêu tìm cách chống lại nạn rửa tiền và tài trợ khủng bố trên tất
cả các mặt trận, bao gồm cả tích cực theo đuổi điều tra tài chính. Nhìn chung,
chiến lược phòng, chống rửa tiền của Mỹ tập trung vào ba mục tiêu chính: (i) Để
hiệu quả hơn, tiến hành cắt đứt sự tiếp cận hệ thống tài chính tài quốc tế của tội
phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố; (ii) Tăng cường khả năng của chính quyền
liên bang hướng đến các tổ chức rửa tiền và các hệ thống tài trợ khủng bố; (iii)
Tăng cường và cải tiến biện pháp phòng, chống rửa tiền cho các nhà cung cấp
dịch vụ tài chính để cải thiện hiệu quả những nỗ lực tuân thủ và thực thi pháp
luật để ngăn ngừa và ngăn chặn lạm dụng.
Để cụ thể hóa chiến lược trên, Mỹ kiểm tra các tổ chức tài chính trong việc
tuân thủ các quy định của hệ thống, và thực thi những yêu cầu thông qua hành vi
dân sự và hình sự. Bên cạnh đó, Mỹ đánh giá các lĩnh vực khác nhau để xác định
lỗ hổng chống rửa tiền, nhằm áp đặt các biện pháp kiểm soát thích hợp. Tính minh
bạch và trách nhiệm được khuyến khích trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, cũng như
trong các lĩnh vực phi tài chính có liên quan. Và Mỹ cũng xem xét khu vực tư
nhân là một thành phần quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phòng, chống
rửa tiền. Trong thời gian qua, Chính phủ Mỹ đã có những nỗ lực trong các khu
vực then chốt sau đây: (i) Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan; (ii) Đảm bảo
rằng các cơ quan thực thi pháp luật và Lực Lượng Đặc Nhiệm Tài Chính sử dụng
và chia sẻ cơ sở dữ liệu tài chính và các công cụ phân tích; (iii) Tập trung nhân
viên thực thi pháp luật và các nguồn lực khác vào các mục tiêu và các hệ thống tài
32
chính có mức độ ảnh hưởng cao nhất; (iv) Cải cách các cơ quan lập pháp và hành
pháp; (v) Gia tăng các hoạt động hợp tác quốc tế; (vi) Nâng cao sự hỗ trợ lẫn nhau
giữa chính phủ Mỹ với cộng đồng tài chính; và (vii) Giúp chính quyền địa phương
điều tra và truy tố tội phạm tài chính và rửa tiền.
Với các chiến lược và nỗ lực như trên, hàng năm FinCEN nhận được hơn
14,7 triệu báo cáo giao dịch, trong đó chủ yếu là báo cáo giao dịch vượt ngưỡng
(hơn 13,67 triệu giao dịch), báo cáo giao dịch đáng ngờ (hơn 0,66 triệu giao
dịch) ….
Bảng 1.2: Số lượng báo cáo được FinCEN nhận được qua các năm.
Loại hình báo cáo Năm 2003 Năm 2004
Báo cáo giao dịch đáng ngờ (SAR) 413.052 663.655
Báo cáo vượt ngưỡng (CTR) 13.341.699 13.674.114
Báo cáo của Ngân hàng nước ngoài 199.738 218.667
Báo cáo cho các khoản thanh toán tiền mặt
trên 10.000 USD
129.824 151.998
Tổng số 14.084.313 14.708.434
Nguồn: FATF, APG (2006), Thist Mutual Evaluation Report on Anti-
money Laundering anh combating the financing of terrotirsm in USA, France
Qua đó, hàng năm Mỹ đã đưa ra hơn 1000 trường hợp xét xử theo loại tội
phạm rửa tiền và số trường hợp bị kết án có xu hướng giảm qua các năm:
Biểu đồ 1.1: Số trường hợp bị kết án về tội rửa tiền từ năm 2002 đến 2005
33
Nguồn: FATF, APG (2006), Thist Mutual Evaluation Report on Anti-
money Laundering anh combating the financing of terrotirsm in USA, France
Bên cạnh kết quả như trên, hệ thống phòng, chống rửa tiền của Mỹ còn tồn
tại một số lỗ hỗng như: (i) Các biện pháp liên quan đến những người có quan hệ
chính trị không áp dụng một cách rõ ràng cho các Công ty dịch vụ tiền tệ, lĩnh vực
bảo hiểm, các nhà tư vấn đầu tư và kinh doanh hàng hóa; (ii) Không có quy định rõ
ràng yêu cầu các công ty bảo hiểm, các công ty dịch vụ tiền tệ, hoặc các nhà tư vấn
đầu tư và kinh doanh hàng hóa có các chính sách và thủ tục đối với các giao dịch
không trực tiếp; (iii) Các yêu cầu của Đạo luật bí mật ngân hàng không áp dụng cho
các chi nhánh nước ngoài và văn phòng của Các công ty bảo hiểm nhân thọ.
1.4.2.2. Phòng, chống rửa tiền tại Singapore.
Không giống như Mỹ, Singapore đã thông qua một phương pháp tiếp cận
đa phương để đối phó với các rủi ro rửa tiền. Các nỗ lực chống rửa tiền hướng
vào khung pháp lý, thể chế, chính sách một cách toàn diện và đầy đủ, tỷ lệ tội
phạm trong nước ở mức thấp, không khoan dung cho tham nhũng trong nước,
một bộ máy tư pháp hiệu quả, một nền văn hóa tuân thủ đã được thiết lập từ lâu
và các biện pháp giám sát được thực hiện đầy đủ và hiệu quả.
Singapore cho rằng họ đã đi đầu trong theo dõi và làm gián đoạn hành vi
rửa tiền thông qua các thông tin tình báo và quyền lực pháp lý khác. Và họ đã
xác định các yếu tố chính của chiến lược chống rửa tiền và tài trợ khủng bố như
sau: (i) Xác định các khu vực ưu tiên cao cho hành động dựa trên đánh giá rủi ro
34
của các mối đe dọa lớn và các lỗ hổng về hành vi rửa tiền và tài trợ khủng bố;
(ii) Thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế một cách nghiêm chỉnh, đặc biệt là 40+9
khuyến nghị của FATF; (iii) Duy trì một chế độ hình phạt nghiêm khắc chống lại
nạn buôn bán ma túy, khủng bố và các tội phạm nghiêm trọng khác; (iv) Thực
thi pháp luật hiệu quả là biện pháp ngăn chặn mạnh mẽ; (v) Áp đặt các tiêu chí
lựa chọn chặt chẽ đối với các định chế tài chính muốn gia nhập ngành tài chính
của Singapore; (vi) Bảo đảm hiệu quả giám sát các định chế tài chính hoạt động
tại Singapore; (vii) Thuê chuyên gia và những chuyên viên nòng cốt để phát triển
và thực hiện các chính sách và biện pháp phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng
bố; (viii) Thực hiện sự phối hợp và hợp tác cao giữa các cơ quan chính phủ; (ix)
Cung cấp hỗ trợ pháp lý khác thông qua các kênh chính thức và không chính
thức, bao gồm cả việc chia sẻ thông tin và tình báo.
Để tăng cường các biện pháp phòng, chống rửa tiền, chính phủ Singapore
đã quan tâm nhiều hơn đến loại hình kinh doanh và nghề nghiệp phi tài chính
nhạy cảm với rửa tiền. Và họ đã đưa ra các sáng kiến mới bao gồm: (i) Ban hành
quy định phòng, chống rửa tiền đối với các hoạt động casino; (ii) Thực hiện một
hệ thống khai báo cho du khách xuất nhập cảnh để kịp thời phát hiện vận chuyển
tiền hoặc công cụ chuyển nhượng vô danh; (iii) Mở rộng yêu cầu phòng, chống
rửa tiền và tài trợ khủng bố trong môi giới hàng hóa kỳ hạn; (iv) Mở rộng chương
trình tiếp cận lĩnh vực kinh doanh và ngành nghề phi tài chính bao gồm cả luật sư,
đại lý bất động sản, kim hoàn và các doanh nghiệp nói chung; (v) Xây dựng
hướng dẫn thi hành Luật xã hội; (vi) Nghiên cứu một khuôn khổ pháp lý phòng,
chống rửa tiền chi tiết hơn đối với các nhà cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp;
(vii) Đánh giá tham nhũng, buôn bán ma túy và các tội phạm nghiêm trọng khác
để điều chỉnh các quy định có liên quan, và có tính đến các yếu tố phản hồi về các
vấn đề thực hiện.
Thông qua phương pháp tiếp cận như trên, số lượng báo cáo giao dịch
đáng ngờ tăng đều qua các năm, với 6.356 báo cáo, chủ yếu là từ các ngân hàng
2.063 báo cáo, các công ty bảo hiểm 2.964 báo cáo ….
35
Bảng 1.3: Số lượng báo cáo được Cơ Quan Quản Lý Tiền Tệ Singapore
nhận được qua các năm 2004-2007
36
Nhóm báo cáo 2004 2005 2006 2007
Các ngân hàng 1 074 1 243 1 712 2 063
Các công ty bảo hiểm 543 590 911 2 964
Đại lý đổi tiền và chuyển tiền 32 107 195 111
Các thị trường vốn trung gian 24 60 350 1 039
Công ty tài chính 7 29 56 87
Các cơ quan Chính phủ 57 25 26 30
Các đơn vị khác (bao gồm cả cá nhân) 37 21 35 62
Tổng cộng 1 772 2 075 3 285 6 356
Nguồn: FATF, APG (2008), Third Mutual Evaluation Report on Anti-
money Laundering anh combating the financing of terrotirsm in Singapore,
France
1.4.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Mặc dù là nước đi sau trong việc thực hiện các biện pháp phòng, chống
rửa tiền. Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể rút ngắn khoảng cách chênh lệch
và giảm thiểu thiệt hại trong việc thực hiện kiểm soát rửa tiền. Qua nghiên cứu
việc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền tại một số nước như: Mỹ,
Singapore, chúng ta có thể rút ta một số kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:
Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
Kinh nghiệm của các nước trên cho thấy, việc sớm ban hành hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền sẽ tạo cơ sở pháp lý cho các cơ
quan thực thi đầy đủ các quyền và chức năng của mình.
Xây dựng hệ thống giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật về
phòng, chống rửa tiền hiệu quả. Mặc dù Mỹ là nước có hệ thống luật pháp về
phòng, chống rửa tiền từ những năm 1970, nhưng do thiếu một hệ thống giám sát
37
hiệu quả nên vụ ngân hàng Boston cố tình vi phạm các quy định về lưu giữ
chứng từ, giao dịch với các tội phạm nổi tiếng qua nhiều năm mới được phát
hiện. Do vậy, công tác giám sát đóng một vai trò quan trọng trong công tác
phòng, chống rửa tiền của các quốc gia.
Xây dựng chính sách nhận biết khách hàng. Theo kinh nghiệm của các
nước có hệ thống phòng, chống rửa tiền hiệu quả thì việc các ngân hàng thương
mại xây dựng được chính sách nhận biết khách hàng là đã thực hiện cắt đứt sự
tiếp cận hệ thống ngân hàng của bọn tội phạm; tức giai đoạn 1 của quy trình rửa
tiền chưa được thực hiện.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này, tác giả đã giới thiệu các khái niệm về rửa tiền, các
phương thức và quy trình rửa tiền tiêu biểu cũng như những ảnh hưởng của hoạt
động rửa tiền đến nền kinh tế. Hoạt động rửa tiền ngày nay không bó hẹp trong
phạm vi một quốc gia hay một khu vực mà luôn có xu hướng mở rộng trên toàn
thế giới với khối lượng tiền được tẩy rửa mỗi năm ngày càng gia tăng.
Dù cho hoạt động rửa tiền có xu hướng biến đổi như thế nào thì ngân
hàng vẫn là sự lựa chọn hàng đầu để thực hiện hành vi tẩy rửa bởi vì khả năng
giao dịch lớn và đồng tiền qua ngân hàng sẽ trở thành một “đồng tiền sạch”, từ
đó có thể giao dịch đến bất kỳ đâu mà không gây ra bất cứ một sự nghi ngờ gì về
tính hợp pháp của chúng. Ngành ngân hàng Việt Nam hiện đang đứng nguy cơ
sẽ là điểm đến của tội phạm rửa tiền trên thế giới. Thực trạng phòng, chống rửa
tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam được trình bày ở chương 2 sẽ cho thấy rõ
hơn về vấn đề này.
38
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.
2.1. Khái quát về hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu
cuộc cách mạng tư duy kinh tế ở Việt Nam. Những quan điểm, đường lối đổi
mới do Đại hội đề ra là cơ sở cho việc tiến hành đổi mới toàn bộ nền kinh tế nói
chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Nghị Định 53/HĐBT ngày 26/03/1988
của Hội đồng bộ trưởng về tổ chức Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tiếp đến là 2
Pháp lệnh ngân hàng: Pháp lệnh Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, Pháp lệnh
Ngân hàng, Hợp tác xã Tín dụng Và Công ty Tài chính ngày 23/05/1990 là
những cơ sở pháp lý quan trọng thực hiện chuyển đổi cơ chế hoạt động của hệ
thống ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang hai cấp. Theo đó, Ngân hàng Nhà
nước là cơ quan ngang bộ, trực thuộc Chính Phủ, là ngân hàng trung ương có
chức năng quản lý nhà nước đối với hệ thống ngân hàng, còn các TCTD có chức
năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã nhanh chóng được củng cố, sắp xếp lại
để phát triển. Trong giai đoạn 1990-1997 hoạt động ngân hàng đã đạt được
những thành tựu đáng kể: đã xây dựng được hệ thống ngân hàng, bước đầu thích
ứng được với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu qủa quản lý của nhà nước, bảo đảm ổn định tiền tệ
kiểm soát lạm phát, vai trò tự chủ kinh doanh ngày càng lớn mạnh. Tuy nhiên,
trong giai đoạn này hoạt động ngân hàng cũng bộc lộ không ít hạn chế, điển hình
là sự hoạt động kém hiệu qủa của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần, sự
buông lỏng trong quản lý tín dụng ở một số ngân hàng thương mại quốc doanh.
Ngày 2/12/1997, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ
chức tín dụng được Quốc hội khóa X chính thức thông qua và có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/10/1998. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan của Chính
39
phủ và là ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các TCTD và ngân
hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước
nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng
và hệ thống các TCTD. Sự ra đời Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức
tín dụng đã khắc phục cơ bản của những hạn chế của 2 pháp lệnh trước đó, hoàn
chỉnh hơn khuôn khổ pháp lý cho hoạt động ngân hàng và khẳng định quyết tâm
đổi mới mạnh mẽ của Việt Nam.
Trực thuộc Ngân hàng nhà nước là các TCTD, bao gồm 2 loại: TCTD
ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác có liên quan; và TCTD phi ngân hàng là loại
hình TCTD được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh
doanh thường xuyên, không được nhận tiền gửi không kỳ hạn và không làm dịch
vụ thanh toán.
Sơ đồ 2.1: Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
05 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài
39 Chi nhánh Ngân hàng Nước ngoài
05 Ngân hàng Liên doanh
37 Ngân hàng Thương mại cổ phần
02 Ngân hàng chính sách
05 Ngân hàng Thương mại Nhà nước
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
40
Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước năm 2009
Ngân hàng thương mại nhà nước: trước đây, chúng ta có tất cả 5 ngân
hàng thương mại 100% vốn nhà nước, sau đó vào năm 2008 cổ phần hóa Ngân
hàng Ngoại Thương Việt Nam, năm 2009 cổ phần hóa Ngân hàng Công Thương
Việt Nam. Nên hiện nay chỉ còn 3 ngân hàng thương mại 100% vốn nhà nước là:
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn Việt Nam và Ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Các ngân hàng thương mại nhà nước có mạng lưới rộng lớn với khoảng 2000 chi
nhánh các loại được phân bố trên phạm vi cả nước. Các ngân hàng này có được
mối quan hệ truyền thống, gắn bó lâu năm với khách hàng và có uy tín khá cao
trong xã hội, và là ngân hàng đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các chính
sách phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Ngân hàng thương mại cổ phần: các ngân hàng thương mại cổ phần chủ
yếu được thành lập sau khi có 2 pháp lệnh ngân hàng và là một trong những kết
qủa đáng chú ý của quá trình cải cách ngân hàng. Hiện nay có 37 ngân hàng
đang hoạt động, chiếm hơn 30% thị phần huy động và cho vay. Các ngân hàng
thương mại cổ phần ở Việt Nam hiện nay thường được đặt tại ở những thành phố
lớn và những khu vực nông thôn có sản xuất hàng hóa phát triển, khách hàng
mục tiêu là những doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước có quy mô kinh tế vừa
và nhỏ, cá nhân, hộ gia đình. Đã có một số ngân hàng phát triển tương đối tốt
như: ACB, Sacombank, Techcombank ….
Cùng với chính sách mở cửa kinh tế, khu vực ngân hàng cũng được mở
cửa cho các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức cơ
bản là: Liên doanh với các TCTD trong nước, thành lập chi nhánh ngân hàng
nước ngoài và thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Cho đến nay ở Việt
Nam có 5 ngân hàng liên doanh, 39 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 5 ngân
hàng 100% vốn nước ngoài.
2.2. Tình hình rửa tiền tại Việt Nam.
41
2.2.1. Tình hình kinh tế xã hội có liên quan đến hoạt động rửa tiền tại Việt
Nam.
Sau một thời gian khôi phục và phát triển, cho đến nay tình hình kinh tế
xã hội trong nước đã có những khởi sắc và từng bước hòa nhập vào nền kinh tế
khu vực và thế giới. GDP tăng đều hàng năm, trung bình 7,5%/năm. Mức sống
người dân dần được cải thiện.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nước ta cũng phải đối mặt với không
ít khó khăn và thách thức. Toàn cầu hóa đã đem đến những bước phát triển thần
tốc cho nền kinh tế nhưng cũng làm cho tội phạm quốc tế có thể xâm nhập vào
nước ta dễ dàng. Những thủ thuật đã bị phát hiện và xử lý ở những quốc gia phát
triển, lại bắt đầu du nhập vào nước ta đang còn non kém về trình độ kiểm soát,
đặc biệt là kiểm soát rửa tiền. Song song với toàn cầu hóa, vấn đề nội tại bên
trong nền kinh tế cũng mang lại không ít cơ hội và điều kiện để thực hiện hành
vi rửa tiền như: hệ thống tài chính tiền tệ còn non kém, công tác cổ phần hóa còn
lỏng lẻo, tình hình buôn lậu ma túy, tham nhũng, tội phạm băng nhóm có tổ chức
đang ngày càng gia tăng.
Về hệ thống tài chính tiền tệ
Hệ thống tài chính tiền tệ nước ta bao gồm: tài chính công, tài chính
doanh nghiệp, hệ thống ngân hàng, bảo hiểm và thị trường tài chính. Trong thời
gian qua, hệ thống tài chính tiền tệ nước ta đã có sự tiến bộ đáng kể, đóng góp
quan trọng vào ổn định và tăng trưởng kinh tế, cụ thể: (i) Thu ngân sách tăng
bình quân hơn 20%/năm, tỷ lệ bội chi ngân sách cố gắng đạt ở mức dưới
5%/GDP; (ii) Vào cuối năm 2000, số lượng doanh nghiệp là 42.228 đơn vị, với
doanh thu bình quân 19,15 tỷ đồng, vốn bình quân 26 tỷ đồng. Đến cuối 2009, số
lượng doanh nghiệp là 205.689 đơn vị, doanh thu bình quân 25,84 tỷ đồng, vốn
bình quân 31 tỷ đồng; (iii) Hệ thống ngân hàng thương mại ngày càng đáp ứng
tốt hơn các nhu cầu như: thanh toán, vay vốn, gửi tiền, thư tín dụng, bảo lãnh
…., mạng lưới các ngân hàng thương mại được trải khắp đến các huyện trên cả
42
Song song với sự tiến bộ như trên, hệ thống tài chính tiền tệ còn tồn tại
một số vấn đề tạo cơ hội cho bọn tội phạm thực hiện hành vi rửa tiền như: các
văn bản quy phạm pháp luật còn nhiều kẻ hở, công nghệ ngân hàng còn tương
đối lạc hậu, các ngân hàng thương mại đều thành lập bộ phận chống rửa tiền
nhưng chỉ mang tính hình thức.
Công cuộc cổ phần hóa ở các doanh nghiệp nhà nước, và đặc biệt là cổ
phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc cổ phần hóa mang lại luồng
sinh khí mới, xóa bỏ tình trạng vô chủ, nhưng nó cũng mang lại không ít mặt
tiêu cực trong quá trình cổ phần hóa như: xác định giá trị, bán cổ phần doanh
nghiệp. Đây được xem là kẻ hở của chính sách cổ phần hóa để tiến hành tham
nhũng và được xem là nguồn gốc của “tiền bẩn” khi tiến hành các công đoạn rửa
tiền. Ở khía cạnh khác, sau khi tiến hành cổ phần hóa các ngân hàng thương mại
nhà nước, mục tiêu của các ngân hàng này chủ yếu là lợi nhuận, các chỉ tiêu tăng
trưởng được đặt ra ở mức cao, đặc biệt là các chỉ tiêu về tín dụng, huy động. Do
vậy, nhu cầu huy động vốn cấp bách và thiết thực hơn bao giờ hết, và nếu như
các ngân hàng này không có chính sách nhận biết khách hàng hiệu quả, không
hiểu rõ nguồn gốc vốn huy động thì họ sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị lạm dụng
rửa tiền là rất lớn.
Tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế đã giảm dần trong các năm gần
đây, nhưng vẫn còn ở mức khá cao với tỷ lệ 14% vào năm 2009, gây khó khăn
trong công tác giám sát lưu thông tiền tệ. Hiện tại ở những nước phát triển chỉ
43
tiêu này ở mức 1 con số.
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán (%)
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Nguồn kiều hối chuyển về Việt Nam khá lớn, trở thành nguồn thu quan
trọng, bổ sung ngoại tệ phục vụ cho công tác thanh toán thương mại quốc gia.
Trong tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động, lượng tiền kiều hối do cộng
đồng người Việt ở nước ngoài chuyển về trong năm 2009 chỉ ở mức 6,28 tỷ
USD giảm 12,8% so với năm 2008. Nhưng con số thực tế cao hơn nhiều, với
lượng kiều hối phi chính thức chiếm khoảng 30-60%, đây là nguồn tiền thường
khó xác định nguồn gốc thu nhập. Trong bối cảnh hệ thống ngân hàng vẫn còn
hạn chế thì hệ thống chuyển tiền khác lại được sử dụng rộng rãi. Do vậy nguy cơ
rửa tiền thông qua con đường này rất lớn.
Biểu đồ 2.2: Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam qua các năm.
44
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Theo đánh giá của của Ngân hàng thế giới, Việt Nam là một trong 20
nước nhận chuyển tiền lớn nhất thế giới trong năm 2009.
Biểu đồ 2.3: Danh sách 20 quốc gia nhận chuyển tiền lớn nhất thế giới
năm 2009
Nguồn: World Bank (2010), Migration and Development Brief 12
Về các hoạt động đầu tư: việc kêu gọi và thu hút đầu tư nước ngoài của
các nước đang phát triển và đầu tư ra nước ngoài của các nước phát triển là một
xu hướng hợp tác kinh tế phổ biến hiện nay trên thế giới. Pháp luật đầu tư nước
ngoài của Việt Nam được xây dựng và hoàn thiện sửa đổi theo hướng ngày càng
thông thoáng, thuận lợi cho đầu tư. Hiện nay không chỉ ở cấp quốc gia mà còn
tất cả các địa phương đang tạo mọi điều kiện thông thoáng nhất để kêu gọi và
thu hút đầu tư. Thậm chí thông thoáng đến mức mà người ta không cần quan tâm
đến nguồn gốc của vốn đầu tư. Do đó, “tiền sạch”, “tiền bẩn” đều được chấp
nhận thông qua hoạt động đầu tư. Đây là mảnh đất màu mỡ tạo điều kiện cho
bọn tội phạm thực hiện hành vi rửa tiền một cách dễ dàng.
Về tình hình an ninh trật tự xã hội: buôn lậu ma túy, tham nhũng, tội
phạm băng nhóm có tổ chức đang ngày càng gia tăng. Đặc biệt tội phạm quốc tế
đã xuất hiện và sử dụng những thủ đoạn hết sức tinh vi. Tội phạm kinh tế, nhất là
tội phạm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ hay còn gọi là tội phạm “cổ cồn trắng”
45
đang len lỏi vào trong nền kinh tế. Những tội phạm này tạo ra nguồn thu bất hợp
pháp rất lớn và chúng luôn có nhu cầu chuyển những nguồn thu bất hợp pháp
này thành những nguồn thu có bề ngoài hợp pháp.
2.2.2. Hoạt động rửa tiền tại Việt Nam thời gian qua.
Trong xu thế toàn cầu hoá, rửa tiền không chỉ dừng lại ở những quốc gia
phát triển, mà đang tràn đến những nước đang phát triển, đặc biệt là những quốc
gia có hệ thống tài chính yếu kém. Trong tương lai gần, nền kinh tế nước ta sẽ
hội nhập sâu vào hệ thống tài chính thế giới. Một mặt sẽ là cơ hội giúp Việt Nam
nhanh chóng đuổi kịp các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, mặt khác
sự hội nhập này sẽ làm cho hệ thống ngân hàng của Việt Nam đối mặt với nhiều
hành vi rửa tiền có mức độ tinh vi và mang tầm vóc quốc tế.
Ở Việt Nam chưa có một công bố thống kê chính thức nào về hoạt động
rửa tiền cũng như độ lớn của nó trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trong một nghiên
cứu công bố gần đây về các hoạt động phi chính thức tại Việt Nam làm chúng ta
lo ngại. Nghiên cứu của Stoyan và cộng sự cho rằng: “hoạt động phi chính thức
tại Việt Nam vào năm 2001 vào khoảng 50% GDP và có xu hướng tăng dần
hàng năm. Trong đó, các hoạt động phụ thuộc của hộ gia đình ở nông thôn chiếm
24%, hoạt động kinh doanh và dịch vụ không khai báo ở thành thị là 10,5% và
hoạt động không khai báo khác là 10%”[7]. Như vậy, dù ít hay nhiều thì hoạt
động rửa tiền ở Việt Nam đã tồn tại và có ảnh hưởng không nhỏ đối với hoạt
động kinh tế xã hội.
“Theo ước tính của các chuyên gia Liên Hiệp Quốc và thống kê của Quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF), hằng năm số tiền được bọn tội phạm tẩy rửa khoảng 400 -
7 TS. Nguyễn Trọng Hoài, Nguyễn Hoài Bảo (2005), “Rửa tiền trở ngại cho phát triển kinh tế”, Tạp chí kinh tế phát
triển, (số 186)
46
500 tỉ USD, bằng 2-5% GDP của thế giới"[8]. Thì với dự tính thấp nhất ở mức
2% GDP, thì số tiền được tẩy rửa tại Việt Nam hàng năm gần 2 tỷ USD.
Mặc dù rất khó tính toán chính xác mức độ rửa tiền tại Việt Nam, nhưng
con số nói trên không phải là thiếu hiện thực, khi có hàng trăm vụ án được đem
ra xét xử hàng năm theo điều 250 Bộ luật hình sự về “tội chứa chấp hoặc tiêu thụ
tài sản do người khác phạm tội mà có”, và có đến hàng triệu USD có nguồn gốc
tội phạm trên lãnh thổ Việt Nam, cũng như có bằng chứng về hàng triệu USD
tiền mặt bất hợp pháp đang được chuyển vào Việt Nam từ Mỹ, Canada, Anh, Úc
và các nước khác như một hình thức rửa tiền.
Bảng 2.1: Số lượng các vụ án được đem ra truy tố, xét xử theo điều 250
Bộ Luật hình sự:
Năm Số trường hợp
điều tra
Số trường hợp
truy tố
Số trường hợp
xét xử
Số bị cáo bị tịch
thu tiền, tài sản
2006 266 243 240 566
2007 228 256 260 616
2008 297 251 226 592
2009 291 282 258 629
Nguồn: Nhóm Châu Á Thái Bình Dương Về Phòng, chống Rửa Tiềnm
2.3. Thực trạng rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.
2.3.1. Các biểu hiện rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Cho đến nay có rất nhiều biểu hiện rửa tiền qua hệ thống ngân hàng được
các nước trên thế giới ghi nhận. Tại Việt Nam, mặc dù hiện tại chưa có vụ án rửa
tiền nào được đưa ra xét xử, nhưng như thế không phải là chúng ta không có rửa
8 TS. Đoàn Hồng Lê (2009), “Kinh nghiệm của Hồng Kông vào việc chống tội phạm “rửa tiền” ở nước ta
hiện nay”, Tạp chí sinh hoạt lý luận, (số 4/2009), tr.73-79
47
tiền. Trong thời gian qua, Cục phòng, chống rửa tiền đã nhận được hàng trăm
báo cáo giao dịch đáng ngờ từ các tổ chức tín dụng, với các hành vi rửa tiền
được biểu hiện như: khách hàng có thái độ miễn cưỡng khi cung cấp các thông
tin theo quy định của ngân hàng, các khách hàng đang bị điều tra, khởi kiện hoặc
nằm trong danh sách cảnh báo rửa tiền quốc tế, các giao dịch không mang lợi ích
về mặt kinh tế, các giao dịch gồm nhiều khoản tiền mặt có giá trị lớn, các giao
dịch liên quan đến các cuộc chuyển tiền quốc tế, các giao dịch liên quan đến các
hoạt động đầu tư.
Bảng 2.2: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được thống kê theo biểu
hiện rửa tiền.
Loại biểu hiện 2006 2007 2008 2009Thái độ miễn cưỡng khi cung cấp thông tin. 0 1 4 6 Khách hàng đang bị điều tra, khởi kiện hoặc nằm trong danh sách cảnh báo rửa tiền của quốc tế.
3 5 18 25
Các giao dịch không mang lợi ích về mặt kinh tế. 0 1 4 5 Các giao dịch gồm nhiều khoản tiền mặt có giá trị lớn.
1 1 2 4
Các giao dịch liên quan đến các cuộc chuyển tiền quốc tế.
1 4 14 17
Các giao dịch liên quan đến các hoạt động đầu tư. 0 0 1 3 Tổng cộng 4 11 43 60
Nguồn: Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng
Số liệu báo cáo giao dịch đáng ngờ trên cho thấy các loại giao dịch có tính
chất biểu hiện như: các giao dịch mà khách hàng đang bị điều tra khởi kiện, hoặc
nằm trong danh sách cảnh báo rửa tiền quốc tế, các giao dịch liên quan đến
chuyển tiền quốc tế là những giao dịch có nguy cơ rửa tiền cao. Nhìn chung,
những giao dịch có nguy cơ rửa tiền cao như trên là đều thuộc nhóm khách hàng
quốc tế, vào năm 2009, các giao dịch đáng ngờ có biểu hiện này chiếm 70% các
giao dịch đáng ngờ. Trong khi đó, tại các nước có hệ thống phòng, chống rửa
48
tiền hiệu quả như: Mỹ, Anh, Úc thì con số này chỉ ở mức 35-50%. Nói như vậy
không có nghĩa là cơ cấu biểu hiện rửa tiền của Việt Nam hoàn toàn khác với cơ
cấu biểu hiện rửa tiền của các nước có hệ thống phòng, chống rửa tiền hiệu quả,
mà sự khác biệt về cơ cấu biểu hiện rửa tiền này chủ yếu là do tại Việt Nam chưa
có hệ thống kiểm soát rửa tiền hữu hiệu. Để phát hiện những giao dịch đáng ngờ
có biểu hiện là những giao dịch không mang lợi ích về mặt kinh tế, những giao
dịch liên quan đến hoạt động đầu tư thì đòi hỏi Việt Nam có hệ thống kiểm soát
rửa tiền hiệu quả, các tổ chức tín dụng phải có chính sách nhận biết khách hàng
và được trang bị các phần mềm phục vụ công tác chống rửa tiền.
2.3.2. Những phương thức rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Theo Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng, trong thời gian qua tội phạm
rửa tiền đã lạm dụng hệ thống ngân hàng Việt Nam để tiến hành rửa tiền thông
qua các phương thức sau:
Phương thức thứ nhất: bọn tội phạm qua mặt hệ thống kiểm soát của các
ngân hàng bằng cách chia nhỏ tiền sau đó chuyển dần ra nước ngoài. Đây được
xem là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng “đào hối” từ các hành vi rửa tiền của tội
phạm trong nước và quốc tế.
Phương thức thứ hai: một số đối tượng nước ngoài dùng các chứng từ giả
để mở tài khoản tại các ngân hàng Việt Nam để thực hiện các giao dịch chuyển
tiền đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khuyến cáo. Phương thức để thực
hiện thủ đoạn này như sau: các đối tượng thực hiện mở tài khoản cá nhân tại các
ngân hàng thương mại ở Việt Nam để thực hiện các giao dịch chuyển tiền có giá
trị lớn từ ngân hàng nước ngoài gửi về. Sau khi chủ tài khoản này rút tiền, một
thời gian sau ngân hàng ở nước ngoài có thông báo đề nghị thu lại số tiền đã bị
rút với lý do giao dịch bị giả mạo.
Phương thức thứ ba: các đối tượng thông qua hệ thống ngân hàng để thực
hiện lừa đảo tín dụng. Bọn tội phạm thường giả danh các tập đoàn hay các khách
hàng nước ngoài đến các ngân hàng đề nghị cho ngân hàng vay khoản tiền lớn
49
với lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thị trường nhiều lần, thời gian vay dài hạn
nhưng yêu cầu “lại qủa” trước cho chúng một khoản tiền lớn tương đương 5-
10%.
Phương thức thứ tư: các công ty tại các nước ngoài dùng tiền bất hợp
pháp sau một thời gian phân chia lòng vòng để xóa dấu vết, sau đó dùng chính
số tiền này để mua cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt
Nam. Sau một thời gian chuyển lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh này ra nước
ngoài.
Phương thức thứ năm: rửa tiền thông qua nghiệp vụ chuyển tiền của ngân
hàng thương mại.
Với hơn 4 triệu kiều bào sống tại hơn 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế
giới. Hằng năm số kiều bào này chuyển về nước một lượng lớn ngoại tệ trợ cấp
thân nhân trong nước và đầu tư. Đây là một trong những nguồn cân đối quan
trọng trong cán cân ngoại hối Việt Nam. Bên cạnh những mặt tích cực của kiều
hối như: là nguồn cân đối quan trọng trong cán cân ngoại hối, làm gia tăng đầu
tư trong nước, ….. thì nó cũng có những mặt trái như: bọn tội phạm lợi dụng
chính sách kiểm soát kiều hối nới lỏng của nhà nước, để chuyển tiền về Việt
Nam phục vụ các hoạt động phạm pháp, cũng như là thực hiện các hoạt động rửa
tiền.
Phương thức thứ sáu: thông qua việc mở tài khoản tiền gửi tại các ngân
hàng thương mại để phục vụ việc giao dịch chứng khoán. Hiện nay ở Việt Nam,
các ngân hàng thương mại thực hiện mở tài khoản tiền gửi cho các khách hàng
kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, nguồn gốc thu nhập để mua cổ phiếu chưa
được ngân hàng quan tâm đúng mức. Nguồn tiền ban đầu đưa vào tài khoản để
kinh doanh chứng khoán có thể là tiền bất hợp pháp, nhưng sau một thời gian
kinh doanh chứng khoán, tiền được rút ra từ ngân hàng đã được “ngụy trang” là
tiền hợp pháp. Đây được xem là hành vi rửa tiền khá đơn giản trong bối cảnh hệ
thống kiểm soát rửa tiền qua hệ thống ngân hàng của chúng ta còn khá sơ khai.
50
Bảng 2.3: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được thống kê theo
phương thức rửa tiền.
Phương thức rửa tiền 2006 2007 2008 2009 Phương thức thứ nhất 0 1 4 5Phương thức thứ hai 2 2 5 9Phương thức thứ ba 1 2 4 7Phương thức thứ tư 0 0 0 1Phương thức thứ năm 1 6 29 36Phương thức thứ sáu 0 0 1 2
Tổng cộng 4 11 43 60
Nguồn: Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng
Trong số 118 báo cáo giao dịch đáng ngờ mà Cục phòng, chống rửa tiền
(trước đây là Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền) nhận được từ năm 2006
đến năm 2009, thì có đến 72 báo cáo giao dịch đáng ngờ được thực hiện thông
qua nghiệp vụ chuyển tiền giữa các ngân hàng thương mại, chiếm 56,25% số
lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ, trong khi đó các phương thức rửa tiền khác
như: rửa tiền qua hoạt động giao dịch chứng khoán, đầu tư vào cổ phiếu của các
ngân hàng thương mại, thì ít được bọn tội phạm quan tâm. Điều này phản ánh
một thực tế là trong thời gian qua bọn tội phạm tại Việt Nam ưa thích thực hiện
rửa tiền thông qua nghiệp vụ chuyển tiền giữa các ngân hàng thương mại, vì ưu
điểm của phương thức rửa tiền này là chỉ trong thời gian ngắn bọn tội phạm có
thể tạo ra hàng trăm giao dịch chuyển tiền để tiến hành tẩy rửa.
2.4. Thực trạng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.
2.4.1. Các phương thức phòng, chống rửa tiền trong thời gian qua.
Trước nguy cơ Việt Nam sẽ là điểm đến của bọn rửa tiền quốc tế, đặc biệt
là rửa tiền qua hệ thống ngân hàng. Trong thời gian qua, Chính phủ đã thực hiện
một số biện pháp cơ bản làm giảm nguy cơ lợi dụng hệ thống ngân hàng để thực
hiện các hành vi rửa tiền, cụ thể như sau:
51
2.4.1.1. Xây dựng hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
Quy định pháp luật đầu tiên của Việt Nam về phòng, chống rửa tiền được
nhắc đến trong điều 251 Bộ Luật hình sự năm 1999 được Quốc hội khóa X thông
qua ngày 21/12/1999 và được sửa đổi, bổ sung tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa
XII thông qua ngày 19/06/2009. Điều luật đã nêu bật lên được nội hàm cơ bản
của hành vi rửa tiền, cụ thể đã nêu lên nguồn gốc của khoản tiền bất hợp pháp là
tiền do phạm tội mà có và các phương thức phạm tội của hành vi rửa tiền, đó là
thông qua các giao dịch ngân hàng hoặc các giao dịch khác để hợp pháp hoá
tiền, tài sản do phạm tội mà có. Đồng thời điều luật này cũng đưa ra các khung
hình phạt khác nhau đối với các mức độ phạm tội khác nhau, với mức phạt tù tối
đa đến 15 năm đối với các hành vi phạm tội có giá trị lớn và đặc biệt nghiêm
trọng.
Tiếp theo, Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày
12/12/1997 và có hiệu lực ngày 01/10/1998, tại điều 19 đã có quy định về trách
nhiệm của các TCTD đối với các khoản tiền có nguồn gốc bất hợp pháp.
Nghị Định 74/2005/NĐ-CP ngày 7/6/2005 của Chính Phủ về phòng,
chống rửa tiền được ban hành tạo cơ sở pháp lý cũng như thể hiện cam kết đối
với quốc tế về việc phòng, chống rửa tiền. Nghị Định này quy định: các cá nhân,
tổ chức có trách nhiệm phòng, chống rửa tiền; các biện pháp phòng, chống rửa
tiền; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền; và hợp
tác quốc tế về rửa tiền.
Điểm nổi bật nhất của Nghị định này là đưa ra các quy định nhận biết
khách hàng, quy định mức giá trị giao dịch bằng tiền mặt từ 200 triệu đồng trở
lên, hay giao dịch tiền gửi tiết kiệm từ 500 triệu đồng trở lên phải báo cáo theo
quy định, và 13 dấu hiệu của giao dịch đáng ngờ.
2.4.1.2. Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền.
Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền (nay là Cục phòng, chống rửa
tiền) được thành lập theo quyết định số 1003/2005/QĐ-NHNN ngày 08/07/2005
52
của Ngân hàng Nhà nước là đơn vị trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
được thành lập với mục tiêu là cơ quan đầu mối, để tiếp nhận xử lý và phân tích
thông tin, có quyền yêu cầu các cơ quan, cá nhân tổ chức liên quan cung cấp tài
liệu hồ sơ và thông tin liên quan đến các giao dịch đã báo cáo; phổ biến các văn
bản và thông tin cho các cơ quan chức năng, thu thập các báo giao dịch đáng ngờ
từ các tổ chức tín dụng.
Với các chức năng như trên, Cục phòng, chống rửa tiền không có chức
năng điều tra, nhưng thông tin về các trường hợp rửa tiền tiềm năng được chuyển
đến Bộ Công An để tiến hành điều tra. Liên quan đến chức năng tình báo tài
chính, Cục này nhận các báo cáo giao dịch đáng ngờ từ các TCTD thông qua
giấy tờ. Còn đối với các giao dịch phải báo cáo theo quy định, do thiếu hệ thống
công nghệ thông tin về phòng, chống rửa tiền, nên Cục này chưa có khả năng
tổng hợp được các giao dịch phải báo cáo theo quy định. Tuy nhiên, các TCTD
phải có trách nhiệm lưu trữ thông tin về các giao dịch này, khi cần Cục phòng,
chống rửa tiền có thể yêu cầu các TCTD cung cấp thông tin về các giao dịch này
bất cứ lúc nào.
Bảng 2.4: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được Cục phòng, chống
rửa tiền thu thập.
Loại đơn vị báo cáo 2006 2007 2008 2009
Ngân hàng TMCP 3 7 8 14
Ngân hàng TM Nhà nước 0 3 28 35
Các ngân hàng liên doanh 0 0 0 1
Các ngân hàng nước ngoài 1 1 6 9
Các tổ chức tín dụng khác 0 0 1 1
Tổng cộng 4 11 43 60
Nguồn: Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng
53
Theo thống kê, từ khi thành lập vào tháng 7/2005 đến cuối năm 2009, cơ
quan này chỉ nhận được 118 báo cáo giao dịch đáng ngờ, và chỉ có 37 báo cáo
giao dịch đáng ngờ được chuyển sang Bộ Công An để tiến hành điều tra, nhưng
không nhận được bất cứ phản hồi nào từ Bộ Công An. So sánh tổng số báo cáo
giao dịch đáng ngờ với số lượng các tổ chức trong nước phải báo cáo, thì đây là
tỷ lệ là rất thấp.
2.4.1.3. Tăng cường phối hợp phòng, chống rửa tiền giữa các cơ quan có liên
quan.
Ngày 13/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
470/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống rửa tiền do Phó Thủ
tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng làm Trưởng ban. Các Phó trưởng ban là
Thống đốc NHNN Việt Nam và lãnh đạo Bộ Công An, 11 ủy viên là lãnh đạo
các Bộ, ngành liên quan. NHNN là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo,
NHNN thành lập tổ thường trực giúp việc Ban Chỉ đạo và nhiều hoạt động khác
phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền.
Việc thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống rửa tiền sẽ giúp chính phủ nâng
cao hiệu quả chỉ đạo và điều phối hoạt động giữa các Bộ, ngành trong công tác
phòng, chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam, và theo đó Ban chỉ đạo có các
nhiệm vụ quyền hạn như: (i) Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo xây dựng chiến
lược, chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch, cơ chế, giải pháp trong
công tác phòng, chống rửa tiền; (ii) Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều
phối hoạt động, đôn đốc, kiểm tra và đánh giá công tác phòng, chống rửa tiền
trên lãnh thổ Việt Nam. (iii) Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc triển khai
thực hiện nghĩa vụ thành viên của Việt Nam trong Nhóm châu Á – Thái Bình
Dương về chống rửa tiền (APG) và tiến tới thực hiện đầy đủ 40+9 khuyến nghị
của FATF; (iv) Phối hợp với các lực lượng nòng cốt trong công tác chống khủng
bố nhằm nghiên cứu, đề xuất cơ quan có thẩm quyền ban hành chính sách pháp
luật, xây dựng biện pháp chống tài trợ khủng bố trên lãnh thổ Việt Nam; (v)
54
Giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, ban hành chủ trương, chính sách về hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền phù hợp từng thời kỳ.
2.4.1.4. Nâng cao nhận thức của ngân hàng thương mại trong phòng, chống
rửa tiền.
Bên cạnh việc ban hành các quy định yêu cầu các TCTD xây dựng các quy
trình phòng, chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước cần tổ chức các buổi tọa đàm cho
các lãnh đạo ngân hàng thương mại để nâng cao nhận thức phòng, chống rửa tiền.
Tại các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam hầu hết có các
chương trình đào tạo nhân viên về phòng, chống rửa tiền, tổ chức cho nhân viên
tham gia tập huấn trong và ngoài nước về phòng, chống rửa tiền nhằm hạn chế
rủi ro uy tín của ngân hàng.
Đối với các ngân hàng thương mại trong nước, hầu hết đã ban hành các
quy trình, quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền theo yêu cầu tại Nghị định
74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005. Tuy nhiên, việc triển khai thi hành các quy
trình, quy định nội bộ này chỉ thực sự có ở các ngân hàng lớn có uy tín như:
Vietcombank, Vietinbank, BIDV, ACB, Sacombank.. Các ngân hàng này đã có
các chương trình đào tạo về phòng, chống rửa tiền cho nhân viên làm công tác
chuyển tiền, nhân viên mới tuyển dụng …
2.4.1.5. Hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống rửa tiền.
Hợp tác quốc tế không chỉ mang lại lợi ích thiết thực cho các bên tham
gia, mà nó còn củng cố mối quan hệ của các quốc gia. Hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực phòng, chống rửa tiền cũng không là ngoại lệ, nó giúp các quốc gia dễ dàng
trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ công nghệ …
Nhận thức được tầm quan trọng của hợp tác quốc tế trong công tác phòng,
chống rửa tiền, ngày 4/5/2007, Việt Nam đã được kết nạp làm thành viên thứ 33
của Nhóm Châu Á Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền, tiến tới thực hiện
đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền, đồng thời tham gia đầy
55
đủ và nhận đánh giá đa phương của APG về Việt Nam. Hiện Việt Nam đã được
APG đánh giá đa phương lần thứ nhất vào năm 2009.
Trong thời gian qua, bên cạnh việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế, Ngân hàng
Nhà nước đã tích cực tìm kiếm các đối tác hỗ trợ Việt Nam trong công tác
phòng, chống rửa tiền. Qua đó, Ngân hàng Nhà nước và một số cơ quan chức
năng khác đã nhận được sự hỗ trợ của WB, IMF, ADB, UNODC.... cho các dự
án về phòng, chống rửa tiền.
Cùng với việc tìm kiếm đối tác hỗ trợ Việt Nam trong công tác phòng,
chống rửa tiền, trong thời gian qua Ngân hàng Nhà nước đã ký bản ghi nhớ trao
đổi, cung cấp thông tin với Đài Loan, Nga, Hàn Quốc, Úc, Anh, Malaysia,
Singapore, Trung Quốc, Hồng Kông và tiếp tục đàm phán ký kết trao đổi thông
tin với Nhật, Mỹ, Pháp, Hà Lan, Thái Lan, Lào, Đức, Bỉ, Thụy Sĩ, Áo, Ấn Độ và
Canada. Và cũng trong thời gian này, Ngân hàng Nhà nước nhận được một
lượng đáng kể các yêu cầu tương trợ tư pháp để điều tra và đối phó với các hoạt
động rửa tiền của các cá nhân, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam, và các cá nhân,
tổ chức Việt Nam ở nước ngoài.
Bảng 2.5: Số lượng yêu cầu tương trợ tư pháp để điều tra và đối phó với
các hoạt động rửa tiền.
Quốc gia Số lượng yêu cầu Quốc gia Số lượng yêu cầu
Séc 109 Ba Lan 36
Nga 12 Đức 11
Ukraina 4 Pháp 4
Trung Quốc 4 Hungary 3
Đài Loan 2 Canada 2
Argentina 1 Slovakia 1
Hàn Quốc 1 Nhật Bản 1
56
Mông Cổ 1 Hà Lan 1
Nguồn: APG (2009), Mutual Evaluation Report On Anti-money
Laundering And Combating The Financing Of Terrotirsm In Viet Nam, France
2.4.2. Phòng, chống rửa tiền tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
2.4.2.1. Phòng, chống rửa tiền tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt
Nam (Vietcombank).
Là ngân hàng thương mại có uy tín hàng đầu, Vietcombank chiếm hơn
20% doanh số thanh toán xuất nhập khẩu và chuyển tiền quốc tế của toàn bộ hệ
thống ngân hàng. Để có thể trở thành một ngân hàng có thương hiệu không chỉ
trong phạm vi quốc gia mà có vị thế trên thương trường quốc tế. Vào năm 2004,
Vietcombank dự định đặt văn phòng đại diện tại Mỹ. Tuy nhiên, do công tác
phòng, chống rửa tiền chưa được triển khai tại Việt Nam nên việc đặt văn phòng
tại Mỹ đã không thành công. Phía Mỹ yêu cầu những nước đã triển khai hiệu qủa
Luật phòng, chống rửa tiền và ngân hàng đó phải có quy trình phòng, chống rửa
tiền thì mới có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh tại Mỹ. Chính vì vậy,
công tác phòng, chống rửa tiền có một ý nghĩa hết sức quan trọng với
Vietcombank. Trong thời gian chờ đợi Thông tư hướng dẫn của Ngân hàng Nhà
nước, ngày 28/09/2006 Vietcombank đã ban hành quy định tạm thời về phòng,
chống rửa tiền với các quy định cụ thể như: biện pháp nhận biết khách hàng; các
giao dịch đáng ngờ; nguyên tắc giao tiếp trong trường hợp có giao dịch đáng
ngờ; quy trình thực hiện báo cáo và cung cấp thông tin; xây dựng chương trình
tin học về quản lý, thu thập, lưu giữ, xử lý và luân chuyển thông tin liên quan
đến đến việc phòng, chống rửa tiền; trách nhiệm của nhân viên, bộ phận thực
hiện giao dịch với khách hàng v.v...
Sơ đồ 2.2: Quy trình phòng, chống rửa tiền tại Vietcombank
57
Báo cáo Cục PCRT
Thu thập thêm thông tin
Có dấu hiệu đáng ngờ
Khách hàng thuộc danh sách 1627
Nhận dạng Khách hàng thông thường
Có dấu hiệu đáng ngờ
Nhận dạng
Thông tin khách hàng
Nguồn: Phòng thông tin tín dụng và chống rửa tiền – Vietcombank.
Kể từ khi ban hành quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền, đến cuối
năm 2009 Vietcombank đã phát hiện được 47 giao dịch đáng ngờ, trong số 47
giao dịch đáng ngờ được báo cáo về Cục phòng, chống rửa tiền thì có đến 16
giao dịch sau đó được chuyển sang cơ quan cảnh sát điều tra bộ công an.
Biểu đồ 2.4: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được Vietcombank
chuyển về Cục phòng, chống rửa tiền qua các năm 2006-2009.
58
1 0 2 1
17
6
27
9
05
1015202530
2006 2007 2008 2009
Báo cáo giao dịch đáng ngờBáo cáo giao dịch đáng ngờ được chuyển sang bộ công an
Nguồn: Phòng thông tin tín dụng và chống rửa tiền – Vietcombank.
Vietcombank được xem là ngân hàng đầu tiên của Việt Nam ứng dụng
công nghệ core banking từ năm 2003, nhưng đến nay việc kiểm soát các giao
dịch liên quan đến rửa tiền đều được nhân viên ngân hàng theo dõi thủ công,
chưa có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin nên gặp không ít khó khăn. Mặc dù,
chủ trương đầu tư chương trình tin học về quản lý, thu thập, lưu giữ, xử lý và
luân chuyển thông tin phòng, chống rửa tiền đã có từ năm 2006, nhưng tiến độ
triển khai đầu tư hiện cũng mới chỉ bắt đầu ở giai đoạn thuê tư vấn lựa chọn
công nghệ, chi phí đầu tư công nghệ ước tính khoảng 2 triệu USD.
2.4.2.2. Phòng, chống rửa tiền tại HSBC Việt Nam.
HSBC là một trong những định chế tài chính lớn nhất thế giới có 8000
văn phòng tại 88 quốc gia và vùng lãnh thổ, đến cuối năm 2009 với tổng giá trị
tài sản của tập đoàn là 2.364 tỉ USD. Tại Việt Nam, ngân hàng này đã bắt đầu
hoạt động ở Sài Gòn vào năm 1970, được coi là một trong những ngân hàng
nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam. Ngày 01 tháng 01 năm 2009, HSBC chính
thức đưa ngân hàng con đi vào hoạt động trên cơ sở các chi nhánh của ngân hàng
này tại Việt Nam, trở thành ngân hàng nước ngoài đầu tiên đưa ngân hàng con
vào hoạt động tại Việt Nam sau khi nhận được giấy phép của Ngân hàng Nhà
Nước cho phép thành lập Ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam vào
59
tháng 09 năm 2008. Hiện nay tại Việt Nam, HSBC có chi nhánh ở Hà nội, Cần
Thơ, Bình Dương cung cấp nhiều sản phẩm và dịch vụ trong đó có dịch vụ ngân
hàng công ty, ngân hàng cá nhân.
Việc thực hiện phòng, chống rửa tiền đã được các chi nhánh ngân hàng
này tại Việt Nam thực hiện từ rất lâu trước khi có Nghị Định 74/2005/NĐ-CP về
phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Đối với ngân hàng thương mại nước ngoài
có đẳng cấp quốc tế thì việc xây dựng quy trình phòng, chống rửa tiền là một
việc làm tất yếu. Tại HSBC Việt Nam, quy trình phòng, chống rửa tiền được xây
dựng dựa trên sự kết hợp quy định của tập đoàn và Nghị Định 74/2005/NĐ-CP
về phòng, chống rửa tiền. Cũng như HSBC tại các nước trên thế giới, HSBC tại
Việt Nam cũng xây dựng hệ thống thông tin khách hàng
Sơ đồ 2.3: Quy trình phòng, chống rửa tiền của HSBC Việt Nam.
Nhận dạng
Điều tra
Báo cáo
Kiểm tra
Hành động
Các báo cáo và ứng dụng
Một nhóm điều tra tiến hành hiểu rõ hơn
các giao dịch, hoạt động kinh doanh của
khách hàng, thu thập thêm thông tin từ
khách hàng
Nếu có khách hàng/giao dịch bị nghi ngờ
Nguồn: Ngân hàng thế giới (2006), Nhận biết và theo dõi khách hàng, Hà nội
60
2.5. Đánh giá hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân
hàng Việt Nam trong thời gian qua.
2.5.1. Những kết quả đạt được.
Nhìn tổng quát, với sự nỗ lực to lớn của Ngân hàng nhà nước, trong thời
gian qua công tác phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam đã
đạt được một số kết quả đáng ghi nhận đó là:
Một là, Chính phủ đã ban hành Nghị định 74/2005/NĐ-CP ngày
07/06/2005 về phòng, chống rửa tiền, và tiếp theo đó là thành lập ban chỉ đạo
quốc gia về phòng, chống rửa tiền.
Hai là, Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền (nay là Cục phòng,
chống rửa tiền) được thành lập vào ngày 08/07/2005, là đơn vị trực thuộc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam
Ba là, hầu hết các ngân hàng thương mại đều ban hành qui định nội bộ về
phòng, chống rửa tiền, và ở một số ngân hàng hàng lớn như: Vietcombank,
Vietinbank đã thành lập bộ phận chuyên trách về phòng, chống rửa tiền.
Bốn là, Việt Nam đã được kết nạp làm thành viên thứ 33 của Nhóm Châu
Á Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền và đã được tổ chức này đánh giá
đa phương vào năm 2009.
Năm là, hoạt động phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam được sự hỗ trợ của
nhiều tổ chức quốc tế đặc biệt là WB, IMF, ADB.
Sáu là, Nghị định 74/2005/NĐ-CP ra đời không làm giảm lượng tiền huy
động trong dân chúng. Điều này thể hiện qua lượng tiền huy động tại một số
ngân hàng ở Việt Nam trong các năm sau khi ban hành nghị định vẫn tăng so với
năm 2004.
61
Biểu đồ 2.5: Lượng tiền huy động tại một số ngân hàng.
ĐVT: tỷ đồng
0
20000
40000
60000
80000
100000
120000
140000
160000
180000
2004 2005 2006 2007 2008 2009
Vietcombank Vietinbank Sacombank Eximbank
Nguồn: Báo cáo thường niên Vietcombank, Vietinbank, Sacombank, Eximbank
2.5.2. Những tồn tại.
2.5.2.1. Vấn đề nhận thức về công tác phòng, chống rửa tiền.
Chủ trương xây dựng Nghị định được bắt đầu từ năm 2000, nhưng tới
tháng 6/2005 mới chính thức được ban hành. Thật vậy, kể từ khi bắt đầu xây
dựng đến khi ban hành Nghị định 74/2005/NĐ-CP đã có rất nhiều quan điểm
khác nhau về công tác phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: việc triển khai công tác phòng, chống rửa
tiền sẽ làm giảm nguồn vốn huy động từ dân cư, đặc biệt là những nguồn vốn
nhàn rỗi. Do tâm lý khách hàng lo sợ sẽ bị truy cứu về nguồn gốc của những
khoản tiền lớn trong giao dịch. Theo Nghị định, tổng giá trị giao dịch (gồm
VNĐ, ngoại tệ, vàng) trong ngày của một cá nhân, hay một tổ chức từ 200 triệu
đồng trở lên đối với tiền mặt hoặc 500 triệu đồng đối với các khoản tiết kiệm sẽ
thuộc diện giám sát và báo cáo. Theo các ngân hàng thương mại, mức giao dịch
này hơi thấp và việc báo cáo, giám sát có thể gây phiền hà cho khách hàng khiến
họ ngại gửi tiền tại ngân hàng.
62
Quan điểm thứ hai khẳng định rằng: Phòng, chống rửa tiền là nghiệp vụ
đã được thế giới đặt ra từ hàng chục năm nay và nhiều tổ chức cũng có hiệp ước
để cùng nhau phối hợp hành động. Việc triển khai công tác phòng, chống rửa
tiền tại Việt Nam là hết sức cần thiết và không ảnh hưởng gì đến hoạt động kinh
doanh của ngân hàng nếu nâng cao được nhận thức của công chúng về phòng,
chống rửa tiền. Thực tế đã chứng minh sau 5 năm thực hiện, lượng tiền gửi vào
các ngân hàng vẫn tăng đều.
Từ những quan điểm trên cho thấy, việc nhận thức công tác phòng, chống
rửa tiền là hết sức quan trọng và quyết định việc thực hiện thành công Nghị định
này. Một khi vẫn còn ý kiến chưa thống nhất giữa người xây dựng và người thực
hiện thì khó khăn trong công tác phòng, chống rửa tiền vẫn còn tồn tại.
2.5.2.2. Các ngân hàng thương mại chưa tuân thủ chặt chẽ các quy định của
pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
Các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành như Nghị định
74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005, chỉ mang tính hình thức và có tính thực tiễn
thấp. Do vậy, các quy trình chống rửa tiền được thiết lập tại các ngân hàng
thương mại mang tính đối phó.
Thực tế, Nghị định số 74/2005/NĐ- CP được ban hành ngày 07/06/2005,
có hiệu lực từ 01/08/2005, nhưng đến cuối năm 2009, Cục Phòng, chống rửa tiền
mới chỉ nhận được 118 báo cáo giao dịch đáng ngờ. Đây là con số khá thấp so
với số lượng ngân hàng, tiềm năng rửa tiền tại Việt Nam
2.5.2.3. Cơ sở vật chất của các ngân hàng thương mại, Cục Phòng, chống
rửa tiền chưa thể đáp ứng được yêu cầu phòng, chống rửa tiền.
Tại Việt Nam một năm bình quân có hơn 6 triệu giao dịch trị giá từ 200
triệu đồng trở lên. Do vậy, số lượng các báo cáo mà các ngân hàng gửi về Cục
phòng, chống rửa tiền rất lớn, trong khi hệ thống công nghệ thông tin tại các
ngân hàng thương mại cũng như tại Cục phòng, chống rửa tiền chưa thể đáp ứng
được yêu cầu này. Trong thời gian qua, các ngân hàng có trách nhiệm lưu giữ và
63
phân loại các giao dịch theo quy định, khi cần thì Cục phòng, chống rửa tiền yêu
cầu các ngân hàng cung cấp. Và chỉ khi nào các ngân hàng nhận thấy các giao
dịch có hành vi đáng ngờ thì mới gửi thông báo về Cục phòng, chống rửa tiền.
Thực tế hiện nay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, chưa có một
ngân hàng nào có chương trình tiên tiến phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền.
Đa số việc theo dõi khách hàng nằm trong danh sách rửa tiền đều thực hiện một
cách thủ công. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác phòng, chống rửa
tiền, trong thời gian quan các ngân hàng thương mại lớn tại Việt Nam như:
Vietcombank, ACB, BIDV đã tiến hành thuê tư vấn lựa chọn công nghệ phục vụ
công tác phòng, chống rửa tiền. Tuy nhiên để có phần mềm hiệu quả có tính ổn
định cao, ít phải nâng cấp thì giá cả khá cao khoảng trên 2 triệu USD, trong khi
đó các chương trình giao dịch tiên tiến như Core Banking T24 được các ngân
hàng triển khai sử dụng hiện nay cũng chỉ có giá 2,5 – 4 triệu USD.
2.5.2.4. Đội ngũ cán bộ của Cục phòng, chống rửa tiền vừa thiếu, vừa yếu.
Bên cạnh vấn đề về công nghệ ngân hàng, thì vấn đề nhân sự cũng gây
không ít trở ngại trong công tác phòng, chống rửa tiền. Trung tâm thông tin
phòng, chống rửa tiền (nay là Cục phòng, chống rửa tiền) ngay từ ngày đầu
thành lập chỉ có 3 cán bộ, đến nay số lượng cán bộ tại Cục là 20 người, kinh
nghiệm về công tác phòng, chống rửa tiền chưa nhiều.
2.5.2.5. Đội ngũ nhân viên làm công tác phòng, chống rửa tiền tại các ngân
hàng thương mại chưa được quan tâm đúng mức.
Tại các ngân hàng thương mại, hiện đã thành lập các bộ phận về phòng,
chống rửa tiền, nhân viên làm việc tại bộ phận này chủ yếu là kiêm nhiệm. Đối
với nhân viên tiếp xúc trực tiếp khách hàng tại các bộ phận thanh toán hầu hết
chưa được đào tạo về nghiệp vụ phòng, chống rửa tiền.
2.5.2.6. Các yếu tố nội tại của hệ thống ngân hàng tạo cơ hội cho tội phạm
rửa tiền.
64
Các ngân hàng thương mại Việt Nam đang trong quá trình thực hiện bổ
sung vốn theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước. Do vậy, nguy cơ các ngân hàng
dễ dàng chấp nhận việc góp vốn của bất kỳ ai mà không quan tâm đến nguồn gốc
của các khoản vốn đó.
Một điểm cần lưu ý hiện nay các ngân hàng đang cạnh tranh nhau huy
động tiền gửi từ các cá nhân, doanh nghiệp và thậm chí còn sử dụng nhiều hình
thức mời chào khách hàng gửi tiền vào ngân hàng rất hấp dẫn. Điều đó sẽ tạo ra,
tâm lý không quan tâm đến nguồn gốc của các khoản tiền gửi vào ngân hàng của
mình. Một ngân hàng có lẽ sẽ rất vui mừng khi nhận được một lượng tiền gửi lớn
từ công chúng với một mức lãi suất huy động thấp hơn những đối thủ cạnh tranh
khác.
2.5.3. Nguyên nhân của những tồn tại.
2.5.3.1. Chưa có sự tuyên truyền cho công chúng về mục tiêu, biện pháp
thực hiện phòng, chống rửa tiền.
Việc triển khai công tác phòng, chống rửa tiền không chỉ gây trở ngại cho
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, mà còn có thể gây ảnh
hưởng tiêu cực đến nền kinh tế nếu chúng ta không có sự tuyên truyền cho công
chúng về mục tiêu của chính sách này.
Khi Nghị định về phòng, chống rửa tiền được ban hành, có hiệu lực từ
01/08/2005. Việc thực hiện giám sát và báo cáo giao dịch đáng ngờ làm cho
người dân và doanh nghiệp có thu nhập chân chính lo ngại, thậm chí không
muốn quan hệ với ngân hàng và có cảm giác tài sản của mình luôn bị theo dõi.
Và hệ qủa có thể nhìn thấy trước là, thay vì gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi
thì người dân sẽ đầu tư vào vàng, đôla Mỹ hoặc nhà đất để đảm bảo bí mật.
Nguồn kiều hối về nước vì thế cũng giảm đi nhanh chóng. Còn các doanh nghiệp
sẽ ưu tiên thanh toán bằng tiền mặt để khỏi bị “nhòm ngó” mỗi khi giao dịch qua
ngân hàng với giá trị lớn. Do vậy, các ngân hàng thương mại cũng rất miễn
cưỡng khi nghĩ tới chuyện phải tuân thủ hoàn toàn các điều khoản trong Nghị
65
định, một phần vì lo ngại sẽ mất khách và số lượng báo cáo theo quy định là vô
cùng lớn.
2.5.3.2. Các quy phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền vừa thiếu, vừa
yếu.
Nghị định số 74/2005/NĐ- CP được ban hành ngày 07/06/2005, nhưng
mãi tới ngày ngày 17/11/2009, Ngân hàng Nhà Nước mới ban hành Thông tư số
22/2009/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền.
Việc chậm ban hành thông tư gây không ít khó khăn trong công tác phòng,
chống rửa tiền, đặc biệt là công tác phòng, chống rửa tiền tại các ngân hàng
thương mại.
Mức xử phạt đối với cá nhân, tổ chức có trách nhiệm phòng, chống rửa
tiền theo Nghị định số 74/2005/NĐ-CP là khá thấp chưa đủ răn đe, với mức phạt
tối đa là 30 triệu đồng, thấp so với mức phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
chứng khoán, ngân hàng theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính là 500 triệu
đồng, và thấp hơn nhiều so với các chi phí để các ngân hàng thực hiện nghiêm
các biện pháp phòng, chống rửa tiền.
Ở khía cạnh khác, Nghị định số 74/2005/NĐ- CP chủ yếu tập trung trong
lĩnh vực ngân hàng, trong khi đó ở các lĩnh vực khác có nguy cơ cao như: sòng
bạc, xổ số, cá cược, chứng khoán, bất động sản … chỉ được Nghị định nhắc đến,
nhưng không có biện pháp kiểm soát rửa tiền ở lĩnh vực này.
2.5.3.3. Chi phí đầu tư phầm mềm chống rửa tiền khá lớn so với quy mô của
các ngân hàng thương mại.
Đối với việc đầu tư phầm mềm giao dịch tiên tiến, trị giá từ 2,5 – 4 triệu
USD, có ý nghĩa quyết định thành công đối với các ngân hàng thương mại. Thì tới
nay mới chỉ có một số ngân hàng lớn có uy tín như: Vietcombank, Vietinbank,
Sacombank, ACB, Techcombank … cũng mới triển khai đầu tư phần mềm giao
dịch tiên tiến trong thời gian gần đây. Trong khi đó các ngân hàng thương mại có
quy mô trung bình nhỏ, đặc biệt là các ngân hàng vừa được chuyển đổi từ mô hình
66
ngân hàng TMCP nông thôn lên ngân hàng TMCP đô thị, hầu như chưa có sự đầu
tư nào do quy mô hoạt động, nguồn vốn đầu tư còn khá hạn chế. Do vậy, việc đầu
tư phầm mềm chống rửa tiền trị giá khoảng 2 triệu USD, chưa được các ngân hàng
thương mại triển khai trong thời gian qua.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương 2, tác giả đã tập trung phân tích thực trạng rửa tiền, công
tác phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian
qua. Qua đó đưa ra những kết qủa đạt được, những tồn tại trong quá trình thực
hiện. Và để giải quyết triệt để những tồn tại trên, đòi hỏi chúng ta phải có hệ
thống giải pháp hiệu quả để đối phó với việc lợi dụng hệ thống ngân hàng vào
mục đích rửa tiền. Chi tiết hệ thống giải pháp này sẽ được đề cập cụ thể hơn tại
chương 3 của luận văn.
67
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM.
3.1. Chiến lược phát triển ngành ngân hàng và định hướng phòng, chống
rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.
3.1.1. Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam.
Dựa trên định hướng phát triển các ngành dịch vụ do Đại hội Đảng lần thứ
X đề ra, ngày 24/05/2006 Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số
112/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án phát triển ngành ngân hàng Việt
Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, mục tiêu cụ thể như sau:
Mục tiêu phát triển Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Đổi mới tổ chức và hoạt động của ngân hàng nhà nước để hình thành bộ
máy tổ chức tinh gọn, chuyên nghiệp, có đủ nguồn lực, năng lực xây dựng và
thực thi CSTT theo nguyên tắc thị trường dựa trên cơ sở công nghệ tiên tiến,
thực hiện các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng trung ương,
hội nhập với cộng đồng tài chính quốc tế, thực hiện có hiệu quả chức năng quản
lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo nền tảng
đến sau năm 2010 phát triển ngân hàng nhà nước trở thành ngân hàng trung
ương hiện đại, đạt trình độ tiên tiến của các ngân hàng trung ương trong khu
vực châu Á.
Xây dựng và thực thi có hiệu quả CSTT nhằm ổn định giá trị đồng tiền,
kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và thực
hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều hành
tiền tệ, lãi suất và tỷ giá hối đoái theo cơ chế thị trường thông qua sử dụng linh
hoạt, có hiệu quả các công cụ CSTT gián tiếp. Ứng dụng công nghệ thông tin,
mở rộng nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua
ngân hàng. Nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đồng tiền
Việt Nam. CSTT tạo điều kiện huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực
68
tài chính. Kết hợp chặt chẽ CSTT với chính sách tài khóa để định hướng và
khuyến khích công chúng tiết kiệm, đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh.
Mục tiêu phát triển các TCTD
Cải cách căn bản, triệt để và phát triển toàn diện hệ thống các TCTD theo
hướng hiện đại, hoạt động đa năng để đạt trình độ phát triển trung bình tiên tiến
trong khu vực ASEAN với cấu trúc đa dạng về sở hữu, về loại hình TCTD, có
quy mô hoạt động lớn hơn, tài chính lành mạnh, đồng thời tạo nền tảng đến sau
năm 2010 xây dựng được hệ thống các TCTD hiện đại, đạt trình độ tiên tiến
trong khu vực Châu Á, đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về hoạt động
ngân hàng, có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và trên thế
giới. Bảo đảm các TCTD, kể cả các TCTD nhà nước hoạt động kinh doanh theo
nguyên tắc thị trường và vì mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận. Phát triển hệ thống
TCTD hoạt động an toàn và hiệu quả vững chắc dựa trên cơ sở công nghệ và
trình độ quản lý tiên tiến, áp dụng thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động
ngân hàng thương mại. Phát triển các TCTD phi ngân hàng để góp phần phát
triển hệ thống tài chính đa dạng và cân bằng hơn. Phát triển và đa dạng hóa các
sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là huy động vốn, cấp tín dụng, thanh
toán với chất lượng cao và mạng lưới phân phối phát triển hợp lý nhằm cung
ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện các dịch vụ, tiện ích ngân hàng cho nền kinh tế
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hình thành thị trường
dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là thị trường tín dụng cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng giữa các loại hình TCTD, tạo cơ hội cho mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu
hợp pháp, đủ khả năng và điều kiện được tiếp cận một cách thuận lợi các dịch
vụ ngân hàng. Ngăn chặn và hạn chế mọi tiêu cực trong hoạt động tín dụng.
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Tách bạch tín dụng
chính sách và tín dụng thương mại trên cơ sở phân biệt chức năng cho vay của
ngân hàng chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương
mại. Bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của TCTD trong kinh doanh.
69
Tạo điều kiện cho các TCTD trong nước nâng cao năng lực quản lý, trình độ
nghiệp vụ và khả năng cạnh tranh. Bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân
hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết của Việt Nam với
quốc tế. Gắn cải cách ngân hàng với cải cách doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp nhà nước. Tiếp tục củng cố, lành mạnh hóa và phát triển các ngân hàng
cổ phần; ngăn ngừa và xử lý kịp thời, không để xảy ra đổ vỡ ngân hàng ngoài
sự kiểm soát của NHNN đối với các TCTD yếu kém. Đưa hoạt động của quỹ
tín dụng nhân dân đi đúng hướng và phát triển vững chắc, an toàn, hiệu quả.
Phương châm hành động của các TCTD là "An toàn - Hiệu quả - Phát
triển bền vững - Hội nhập quốc tế".
3.1.2. Định hướng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt
Nam.
Việc hội nhập quốc tế đưa đến nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách
thức cho ngành ngân hàng Việt Nam, một trong những thách thức đó chính là
vấn nạn rửa tiền. Để chống lại nạn rửa tiền một cách cơ bản và hiệu quả, thì
hoạt động phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam cần phải
hướng đến các mục tiêu sau:
Thứ nhất, có hiệu quả trong việc ngăn ngừa tội phạm lợi dụng hệ thống tài
chính, nâng cao chất lượng quản lý rủi ro của các định chế tài chính. Tăng cường
sự phát triển hệ thống tài chính Việt Nam và hội nhập với toàn cầu.
Thứ hai, phát triển một hệ thống giám sát các dòng vốn, cải thiện các báo
cáo vượt ngưỡng và các báo cáo giao dịch đáng ngờ, tăng cường hợp tác và chia
sẻ thông tin giữa các cơ quan phòng, chống rửa tiền, và nâng cao năng lực của
các cơ quan điều tiết tài chính, lập pháp, hành pháp trong việc phát hiện, điều tra
và chống tội phạm.
Thứ ba, ngăn chặn, chống tội phạm rửa tiền bằng cách tham gia hiệu quả
hơn trong hợp tác quốc tế với mục tiêu xây dựng một mạng lưới quốc tế phòng,
70
chống rửa tiền hiệu quả hơn, đặc biệt là trong mục tiêu chống rửa tiền xuyên
quốc gia và các hoạt động tài trợ khủng bố.
Thứ tư, tham gia các tổ chức quốc tế về chống rửa tiền một cách tích cực
hơn, nhằm phát triển và cải thiện các khuôn khổ phòng, chống rửa tiền quốc tế.
3.2. Dự báo tình hình rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.
3.2.1. Dự báo tình hình quốc tế.
Cho đến nay, ngân hàng là một trong các định chế tài chính bị lợi dụng
rửa tiền phổ biến nhất trên thế giới với các ưu điểm: chi phí thấp, có thể rửa với
số lượng lớn, đồng tiền được rửa qua hệ thống ngân hàng đảm bảo sạch hơn so
với các hệ thống khác.. Ở khía cạnh khác, với sự phát triển của khoa học kỹ
thuật công nghệ, các giao dịch tài chính, mua bán hàng hóa, thanh toán các hợp
đồng hầu hết sẽ được thực hiện thông qua hệ thống tài chính ngân hàng. Qua các
yếu tố trên, có thể nói hệ thống ngân hàng đang phải đối mặt với những nguy cơ
rất lớn, nguy cơ bị bọn tội phạm lợi dụng hệ thống ngân hàng để thực hiện hành
vi rửa tiền.
3.2.2. Dự báo tình hình Việt Nam.
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với các nền kinh tế
khác trên thế giới nói chung và việc Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại
Quốc Tế nói riêng, mở ra nhiều cơ hội và thách thức đối với ngành ngân hàng.
Bên cạnh những cơ hội như: nâng cao tính cạnh tranh, nâng cao trình độ quản trị
điều hành ở các ngân hàng …. Thì chúng ta phải đối mặt với không ít thách thức
như: công nghệ còn tương đối lạc hậu, hiệu quả điều hành thấp, năng lực cạnh ở
các ngân hàng còn yếu, tạo nhiều kẽ hở cho bọn tội phạm tấn công vào hệ thống
tài chính ngân hàng còn non yếu để thực hiện hành vi rửa tiền thông qua: hoạt
động đầu tư nước ngoài, thanh toán bằng hình thức thư tín dụng, kiều hối..
Việc tăng vốn điều lệ đối với các ngân hàng thương mại cổ phần theo quy
định của ngân hàng nhà nước, cùng với xu hướng cổ phần hoá tại các ngân hàng
71
trong nước ngày càng tăng cao, tạo nhiều kẻ hở cho các nhà đầu tư có nguồn vốn
bất hợp pháp thực hiện đầu tư với mục đích rửa tiền. Điều này tạo ra một rủi ro
rất lớn cho các ngân hàng đối với nguy cơ bị liên lụy trong các vụ án kinh tế, ảnh
hưởng uy tín, dẫn đến khả năng phá sản.
Hiện nay, hầu hết các ngân hàng thương mại lớn của Việt Nam đều có
Công ty chứng khoán và thực hiện mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng kinh
doanh chứng khoán. Tuy nhiên, nguồn gốc thu nhập để mua cổ phiếu của khách
hàng chưa được các ngân hàng quan tâm đúng mức. Do vậy, việc “tiền bẩn”
được tẩy rửa trên thị trường chứng khoán thông qua ngân hàng là hoàn toàn có
thể, và rủi ro về uy tín xảy ra đối với ngân hàng là tất yếu.
Ở một khía cạnh khác, hệ thống pháp luật chưa đầy đủ cũng là những trở
ngại cho hệ thống ngân hàng xây dựng một cơ chế riêng cho mình trong công tác
phòng, chống rửa tiền. Nghị định phòng, chống rửa tiền được ban hành vào năm
2005, nhưng đến cuối năm 2009, ngân hàng nhà nước mới ban hành thông tư
hướng dẫn. Bên cạnh đó, hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần trong nước
có quy mô nhỏ chưa nhận thức hết được tác hại của rửa tiền đối với ngân hàng
mình và nếu nhận ra được vấn đề thì cũng hết sức băn khoăn về biện pháp
phòng, chống rửa tiền, nên những ngân hàng này hoàn toàn có khả năng bị bọn
tội phạm lợi dụng rửa tiền.
Nói tóm lại, từ những dự báo như trên, chúng ta đã có một bức tranh tổng
thể về nguy cơ rửa tiền xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam trong thời gian tới. Rõ
ràng, nguy cơ này rất cao. Để đẩy lùi nguy cơ này, cần phải có một hệ thống giải
pháp thích hợp dựa trên chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng và dự báo tình
hình rửa tiền ở Việt Nam.
3.3. Các giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt
Nam.
3.3.1. Nhóm giải pháp thuộc về nhà nước.
3.3.1.1 Về luật pháp.
72
Phòng, chống rửa tiền là một vấn đề mang tính toàn cầu, để đấu tranh với
vấn nạn này, hầu hết các quốc gia đều xây dựng cho mình một khuôn khổ pháp
lý phù hợp. Một hệ thống pháp lý đồng bộ bao gồm hệ thống các văn bản như:
Luật, Pháp lệnh, Nghị định và các thông tư hướng dẫn chi tiết, đồng bộ.
Cho đến nay mặc dù Việt Nam đã có một Nghị Định riêng về phòng,
chống rửa tiền nhưng việc thực thi vẫn còn nhiều bất cập. Nghị định được ban
hành từ năm 2005, nhưng đến năm 2009 Ngân hàng nhà nước mới ban hành
thông tư hướng dẫn, còn Bộ Công An đóng vai trò là đơn vị tiếp nhận, xử lý
thông tin và điều tra tội phạm liên quan rửa tiền lại chưa có một thông tư hướng
dẫn cụ thể. Vì thế, việc lập văn phòng đại diện tại nước ngoài của các ngân hàng
lớn của Việt Nam như: Vietcombank, BIDV, ACB.. hiện vẫn chưa được các
nước sở tại chấp nhận do việc triển khai Nghị định về phòng, chống rửa tiền tại
Việt Nam chưa thực sự hiệu qủa.
Tại hầu hết các nước, Luật phòng, chống rửa tiền được xây dựng và có
hiệu lực cao nhất. Hiện nay, chúng đang triển khai Nghị định, tuy nhiên hiệu lực
pháp lý không cao. Do vậy trong khoảng thời gian 5 năm tới, chúng ta nên nâng
Nghị định lên thành Luật. Và để Luật phòng, chống rửa tiền thực sự có hiệu quả
thì:
Thứ nhất, việc xây dựng Luật phải dựa trên cơ sở tuân thủ 40+9 khuyến
nghị của FATF về phòng, chống rửa tiền và tham khảo thêm về Luật phòng,
chống rửa tiền của các nước đã triển khải hiệu qủa như: Mỹ, Singapore …
Thứ hai, phạm vi điều chỉnh của Luật không chỉ tập trung trong lĩnh vực
ngân hàng, mà còn vào các lĩnh vực có nguy cơ cao như: xổ số, sòng bạc, chứng
khoán, bất động sản ….
Thứ ba, Luật phải đưa các biện pháp xử phạt cụ thể đối với các tổ chức, cá
nhân thực hiện hành vi rửa tiền, đồng thời cũng đưa ra các biện pháp chế tài thực
sự nghiêm minh đối với các tổ chức, cá nhân không thực hiện các biện pháp
phòng, chống rửa tiền theo quy định.
73
Bên cạnh đó, trong các văn bản pháp luật về đầu tư, thương mại, hải quan
…cần bổ sung các điều khoản về phòng, chống rửa tiền, để đảm bảo công tác
phòng, chống rửa tiền được triển khai một cách đồng bộ và có hiệu quả
Ở khía cạnh khác Pháp lệnh ngoại hối được ban hành năm 2005, với các
quy định giao dịch ngoại tệ thông thoáng hơn trước giúp các doanh nghiệp dễ
dàng trong việc thanh toán, giao dịch với các đối tác nước ngoài. Nhưng đồng
thời cũng tạo ra rất nhiều kẽ hở cho tội phạm rửa tiền lợi dụng chuyển “ngoại tệ
bẩn” vào trong nước hoặc chuyển ra nước ngoài. Vì vậy, trong thời gian tới cần
bổ sung thêm các quy định trong Pháp lệnh ngoại hối hướng tới các mục tiêu về
phòng, chống rửa tiền để hạn chế khả năng rửa tiền của bọn tội phạm.
3.3.1.2. Về chính sách.
Hạn chế sử dụng tiền mặt trong thanh toán
Việt Nam với đặc điểm là nền kinh tế tiền mặt, đang được xem là điểm
đến lý tưởng của tội phạm rửa tiền. Vì vậy, vấn đề hạn chế sử dụng tiền mặt
trong thanh toán ở nước ta là một yêu cầu bức thiết đặt ra để hạn chế loại tội
phạm này. Tuy nhiên các biện pháp đưa ra từ trước tới nay để hạn chế lượng tiền
mặt trong thanh toán vẫn chưa đem lại kết quả mong đợi. Sau đây là một số đề
xuất đối với Chính phủ trong việc khuyến khích phát triển thanh toán không
dùng tiền mặt:
Thứ nhất, ban hành các chính sách ưu đãi về thuế, phí đối với các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán.
Thứ hai, xây dựng các phương án miễn, giảm thuế nhập khẩu để giảm nhẹ
gánh nặng đầu tư cho các đơn vị đầu tư trang thiết bị phục vụ hoạt động thanh
toán.
Thứ ba, xây dựng các phương án miễn giảm thuế giá trị gia tăng đối với
các thanh toán qua ngân hàng, xây dựng cơ chế tính phí dịch vụ thanh toán hợp
lý đối với các giao dịch thanh toán liên ngân hàng. Trên cơ sở đó tác động tới
74
toàn bộ cơ cấu tính phí của các tổ chức tín dụng nhằm tạo lập một mức phí hợp
lý cho người sử dụng cuối cùng, nhằm khuyến khích sử dụng các dịch vụ thanh
toán qua ngân hàng, và thông qua đó tạo lập thói quen giao dịch qua ngân hàng
trong nhân dân.
Thứ tư, đối với một số giao dịch có giá trị lớn như: chuyển nhượng quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, mua bán ô tô … Khi tiến hành đăng ký chuyển
quyền sử dụng, sở hữu thì bắt buộc phải có chứng từ thanh toán qua ngân hàng.
Thứ năm, tuyển dụng các cán bộ có trình độ, kinh nghiệm vào làm việc tại
các bộ phận xây dựng chiến lược, chính sách phát triển hoạt động thanh toán
không dùng tiền mặt. Xây dựng các chương trình đào tạo chuyên sâu nhằm tạo
ra các chuyên gia trong lĩnh vực thanh toán.
Tăng cường công tác phòng, chống các loại tội phạm nguồn, đặc biệt là
tội phạm tham nhũng.
Để công tác phòng, chống rửa tiền hiệu quả thì việc phòng, chống các loại
tội phạm nguồn như: ma túy, buôn lậu, trốn thuế … và đặc biệt là tham nhũng
cần phải được quan tâm đúng mức. Sau đây là một số đề xuất nhằm nâng cao
hiệu quả phòng, chống tham nhũng, qua đó đẩy lùi hoạt động rửa tiền:
Thứ nhất, tăng cường cải cách hành chính thông qua việc đơn giản hóa,
công khai hóa các thủ tục hành chính, áp dụng phương thức quản lý theo cơ chế
“một cửa”.
Thứ hai, cần có những cơ chế kiểm soát chặt chẽ nguồn thu nhập của các
cá nhân, tổ chức, đặc biệt là các yếu nhân, những người có khả năng lạm dụng
chức vụ, quyền hạn để tham nhũng. Qua đó, nâng cao khả năng phát hiện và
khắc phục hậu qủa tham nhũng.
Thứ ba, khi phát hiện ra các trường hợp phạm tội thì cần có biện pháp xử
phạt tài chính thật nặng, có thể gấp đôi giá trị tham nhũng. Tiền phạt sẽ được
trích lập cho Quỹ phòng, chống tham nhũng để thưởng cho người đã đứng ra tố
75
cáo hành vi tham nhũng đó.
Thứ tư, thành lập Tổng cục điều tra tham nhũng, trực thuộc Quốc hội
(ngang tầm với tòa án nhân dân tối cao) để đảm bảo tính độc lập, khách quan
trong quá trình điều tra. Ở các tỉnh cũng có Cục điều tra chống tham nhũng, có
quyền điều tra tất cả các cơ quan nhà nước đóng trên địa bàn.
Thành lập trung tâm thông tin tài sản quốc gia.
Về lâu dài, khi hệ thống công nghệ thông tin phát triển ở mức độ cao hơn,
thông tin về tài sản của các cá nhân, tổ chức ở từng nhóm ngành đã được hệ
thống hóa một cách đầy đủ, thì chúng ta nên thành lập Trung tâm thông tin tài
sản quốc gia. Trung tâm này nên thuộc Tổng cục thống kê.
Theo đó, trung tâm này sẽ được đầu tư phần mềm tổng hợp thông tin tài sản
của các cá nhân, tổ chức từ các bộ ngành quản lý như: Bộ tài nguyên và môi
trường (quản lý về đất đai và nhà ở), Bộ công an (quản lý về các phương tiện giao
thông như xe ô tô, xe máy), Bộ giao thông vận tải (quản lý về xe cơ giới, phương
tiện vận tải chuyên dùng), ngân hàng nhà nước (quản lý về tài khoản của các
khách hàng tại các TCTD). Và các thông tin này được xem như thông tin mật, chỉ
dùng để cung cấp cho các đơn vị xây dựng chính sách, các cơ quan điều tra.
Việc thành lập trung tâm này, sẽ giúp các cơ quan chức năng đánh giá tình
trạng tài sản của các cá nhân, tổ chức một cách đầy đủ và kịp thời. Qua đó, các
cơ quan điều tra dễ dàng phát hiện các vụ tham nhũng, rửa tiền.
3.3.1.3 Tổ chức thực hiện.
Hoạt động rửa tiền thực chất là tội phạm phái sinh của các loại tội phạm
khác. Chính vì vậy, việc phòng, chống loại tội phạm này cần phải có sự phối hợp
đồng bộ giữa các ban ngành như: ngân hàng, công an, chứng khoán, bất động
sản, bảo hiểm …
Tuy nhiên, để thiết lập một cơ chế phối hợp đồng bộ và hiệu quả giữa các
bộ ngành là một điều không dễ dàng. Vì thế trong giai đoạn đầu có thể thiết lập
76
cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành có khả năng, kinh nghiệm tiếp xúc với loại
tội phạm này như: ngân hàng, công an. Sau khi đã có sự phối hợp hiệu quả giữa
các cơ quan này, sẽ tiến hành mở rộng phối hợp đến các cơ quan, bộ ngành khác.
Để có sự phối hợp hiệu quả giữa ngành ngân hàng và công an trong việc
thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền, cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, Cục phòng, chống rửa tiền cần thường xuyên cập nhật “danh
sách đen” từ Bộ Công an, để cung cấp thông tin cho các ngân hàng.
Thứ hai, Các giao dịch đáng ngờ được Cục phòng, chống rửa tiền chuyển
tới Bộ Công An để tiến hành điều tra cần phải có sự phản hồi về kết quả điều tra.
Thứ ba, Cục phòng, chống rửa tiền, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công
An và các cơ quan khác có liên quan nên cộng tác nghiên cứu các loại hình rửa
tiền, qua đó cải tiến, chia sẻ phương pháp điều tra.
3.3.2. Nhóm giải pháp thuộc về ngân hàng nhà nước.
3.3.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phòng, chống rửa tiền.
Nghị định phòng, chống rửa tiền đã được ban hành. Tuy nhiên, do công
tác tuyên truyền chưa được tốt, người dân chưa hiểu về phòng, chống rửa tiền đã
tạo một tâm lý lo lắng cho người dân, đã ảnh hưởng rất lớn đối với các ngân
hàng thương mại trong việc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền.
Do vậy, để công tác phòng, chống rửa tiền hiệu quả, trước tiên Ngân hàng
Nhà nước cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phòng, chống rửa tiền. Cụ
thể là cần phải tuyên truyền cho người dân hiểu về giao dịch phải báo cáo, đó là
việc các ngân hàng ghi lại và báo cáo về các giao dịch như là một nghiệp vụ nội
bộ của ngân hàng, không có liên quan gì đến khách hàng. Các thông tin này nằm
trong nội bộ ngân hàng và vẫn trong vòng bí mật, và khi Cục phòng, chống rửa
tiền yêu cầu thì ngân hàng sẽ cung cấp.
Ngân hàng nhà nước cần phối hợp với Hiệp hội ngân hàng mở các lớp đào
tạo về kỹ năng phòng, chống rửa tiền cho các cán bộ ngân hàng thương mại làm
77
công tác giao dịch với khách hàng, để có những giải thích kịp thời cho khách
hàng về công tác phòng, chống rửa tiền mà ngân hàng đang thực hiện, nhằm
tránh những hiểu nhầm không đáng có từ khách hàng.
3.3.2.2. Đầu tư hệ thống công nghệ thông tin về phòng, chống rửa tiền cho
Cục phòng, chống rửa tiền.
Hàng năm Việt Nam có khoảng hơn 6 triệu giao dịch phải báo cáo theo
quy định. Tuy nhiên, hiện nay Cục phòng, chống rửa tiền chưa được trang bị hệ
thống công nghệ thông tin về phòng, chống rửa tiền nên chưa thể tập hợp các
giao dịch phải báo cáo từ các ngân hàng thương mại.
Do vậy trong thời gian tới, Ngân hàng nhà nước cần phải đầu tư hệ thống
công nghệ thông tin về phòng, chống rửa tiền cho Cục phòng, chống rửa tiền.
Việc đầu tư này sẽ giúp Cục phòng, chống rửa tiền thu thập, phân tích thông tin
về các giao dịch phải báo cáo, các giao dịch đáng ngờ từ các tổ chức tín dụng
một cách nhanh chóng và kịp thời. Qua đó, Cục phòng, chống rửa tiền có thể kịp
thời phát hiện chính xác những giao dịch có nguy cơ rửa tiền, đưa ra các cảnh
báo đối với các ngân hàng thuơng mại và đề nghị cơ quan cảnh sát tiến hành
điều tra.
3.3.2.3. Ban hành quy chế giám sát việc tuân thủ các quy định về phòng,
chống rửa tiền.
Trong thời gian qua, hầu hết các ngân hàng thương mại đều ban hành quy
trình nội bộ về phòng, chống rửa tiền, tuy nhiên chỉ một số ít ngân hàng lớn quan
tâm thực hiện triển khai quy trình nội về phòng, chống rửa tiền, nên Nghị định
74/2005/NĐ-CP chưa có hiệu quả cao. Sở dĩ như vậy là do Ngân hàng nhà nước
chưa ban hành quy chế giám sát việc tuân thủ các quy định về phòng, chống rửa
tiền.
Việc ban hành quy chế giám sát sẽ giúp cho Cơ quan thanh tra của Ngân
hàng nhà nước nói chung và Cục phòng, chống rửa tiền nói riêng chủ động trong
việc thanh tra giám sát các ngân hàng thương mại. Qua đó đưa ra những biện
78
pháp hữu hiệu yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm chỉnh các quy định
về phòng, chống rửa tiền.
Đối với các ngân hàng thương mại, bên cạnh việc ban hành quy chế giám
sát, Ngân hàng Nhà nước cần đưa tiêu chí tuân thủ các quy định về phòng, chống
rửa tiền vào trong bộ tiêu chuẩn đánh giá xếp hạng các ngân hàng thương mại,
cũng như là cho phép thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, phê duyệt mở
rộng mạng lưới, chi nhánh của các ngân hàng này.
3.3.2.4. Thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm về phòng, chống rửa tiền
với các ngân hàng thương mại.
Việc thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm về phòng, chống rửa tiền
không chỉ là cơ hội để Cục phòng, chống rửa tiền tiếp nhận được các ý kiến phản
hồi của các ngân hàng thương mại trong việc thực hiện các biện pháp phòng,
chống rửa tiền, mà còn là cơ hội để các ngân hàng thương mại trao đổi kinh
nghiệm về phòng, chống rửa tiền. Qua đó, hạn chế các hành vi lợi dụng hệ thống
ngân hàng thương mại để thực hiện các hành vi rửa tiền.
3.3.2.5. Tăng cường hợp tác quốc tế.
Để công tác phòng, chống rửa tiền hiệu quả, bên cạnh việc đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, tăng cường đầu tư hệ thống công nghệ thông tin, ban hành quy
chế giám sát thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền … thì rất cần sự tăng
cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, các nước trên thế giới để trao đổi thông
tin và nhận được nhiều sự trợ giúp từ các tổ chức quốc tế, các quốc gia có nhiều
kinh nghiệm về phòng, chống rửa tiền, đặc biệt là kinh nghiệm về chống rửa tiền
qua hệ thống ngân hàng.
3.3.3. Nhóm giải pháp thuộc về các ngân hàng thương mại.
Hoạt động rửa tiền chủ yếu thông qua các giao dịch tài chính. Do vậy, nếu
các ngân hàng thương mại có hệ thống kiểm soát hữu hiệu thì sẽ giảm thiểu được
các hành vi rửa tiền qua ngân hàng mình, muốn vậy các ngân hàng thương mại
79
phải thực hiện các biện pháp sau:
3.3.3.1. Thành lập bộ phận chuyên trách về phòng, chống rửa tiền.
Hiện nay, tại hầu hết các ngân hàng thương mại đều chưa có bộ phận
phòng, chống rửa tiền, và nếu có thì cũng chỉ hoạt động mang tính chất kiêm
nhiệm nên công tác phòng, chống rửa tiền chưa được chú trọng và hiệu quả
phòng, chống rửa tiền còn thấp.
Do vậy, việc thành lập bộ phận chuyên trách về phòng chổng rửa tiền là
thực sự cần thiết. Bộ phận chuyên trách này sẽ là đơn vị chịu trách nhiệm xây
dựng, giám sát thực hiện quy trình nội bộ, thực hiện công tác thu nhập, tổng hợp
mọi thông tin về những giao dịch đáng ngờ báo cáo Cục phòng, chống rửa tiền
và đề xuất các biện pháp khác liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền
3.3.3.2. Xây dựng chính sách nhận biết khách hàng.
Theo dõi, tìm hiểu khách hàng một cách thích hợp là một phần quan trọng
trong việc kiểm soát các rủi ro của ngân hàng. Thiếu trách nhiệm này, các ngân
hàng có thể gánh chịu những rủi ro về uy tín, về hoạt động, về pháp luật.
Một số nội dung phải được các ngân hàng đưa vào khi xây dựng chính
sách nhận biết khách hàng gồm: (i) Nhận dạng khách hàng; (ii) Chấp nhận khách
hàng; (iii) Quản lý thuờng xuyên các tài khoản và các giao dịch; (iv) Quản lý rủi
ro.
Nhận dạng khách hàng.
Quá trình nhận dạng khách hàng được áp dụng một cách tự nhiên bên
ngoài mối quan hệ. Thời gian thích hợp cho việc nhận dạng là khi một số nội
dung thông thường trên giấy tờ của khách hàng bị thay đổi đáng kể hoặc khi có
sự thay đổi trên tài khoản so với hoạt động thông thường của khách hàng.
Các ngân hàng phải xây dựng chính sách nhận biết khách hàng rõ ràng.
Trên cơ sở đó, các thông tin về khách hàng được lưu giữ đầy đủ. Hoạt động này
rất quan trọng cho phép ngân hàng quản lý được mối quan hệ với khách hàng,
80
Chấp nhận khách hàng.
Các ngân hàng cần phải xây dựng những quy định chấp nhận khách hàng
một cách rõ ràng, bao gồm việc miêu tả cụ thể các loại khách hàng có thể gây ra
rủi ro cao hơn mức bình thường cho ngân hàng. Khi xây dựng những quy định
này, các yếu tố như: lý lịch khách hàng, quốc tịch, chức danh … và các tài khoản
có liên quan cần phải được xem xét. Các ngân hàng cần phải xây dựng những
quy định chấp nhận khách hàng theo mức độ rủi ro và đòi hỏi theo dõi sâu rộng
hơn.
Quản lý thường xuyên các tài khoản và các giao dịch.
Quản lý thường xuyên là khía cạnh cơ bản trong quy trình nhận biết khách
hàng hiệu qủa. Các ngân hàng chỉ có thể kiểm soát một cách hiệu qủa để giảm
thiểu rủi ro cho mình nếu như họ hiểu về những giao dịch của khách hàng. Đối
với tất cả các tài khoản, các ngân hàng phải có chương trình phát hiện ra những
dấu hiệu bất thường hay đáng ngờ trong hoạt động. Điều này có thể làm được
bằng cách thiết lập nên những hạn mức nhất định cho từng tài khoản cụ thể và
phải đặc biệt chú ý những giao dịch vượt hạn mức này.
Quản lý rủi ro
Cần phải chú ý chặt chẽ hơn đối với những tài khoản rủi ro cao. Mỗi ngân
hàng phải đưa ra những tiêu chí chính cho các khách hàng rủi ro cao thông qua:
quốc tịch và nguồn vốn của khách hàng, loại giao dịch được thực hiện và những
yếu tố rủi ro khác.
3.3.3.3. Thực hiện nghiêm chỉnh quy trình nội bộ về phòng, chống rửa tiền.
Sau khi Nghị định 74/2005/NĐ-CP được ban hành vào ngày 07/06/2005,
đến nay hầu hết các ngân hàng đã ban hành được quy trình nội bộ về phòng,
81
chống rửa tiền, nhưng công tác triển khai thực hiện vẫn chưa được các ngân
hàng quan tâm, nên hiệu quả phòng, chống rửa tiền tại các ngân hàng thương
mại, đặc biệt là các ngân hàng thương mại có quy mô nhỏ vẫn còn hạn chế.
Để nâng cao hiệu quả phòng, chống rửa tiền, một trong những biện pháp
quan trọng là các ngân hàng thương mại cần phải triển khai thực hiện quy trình
nội bộ phòng, chống rửa tiền một cách nghiêm chỉnh.
3.3.3.4. Đào tạo nâng cao chuyên môn cho cán bộ về công tác phòng, chống
rửa tiền.
Tất cả các ngân hàng thương mại cần phải có chương trình đào tạo về
phòng, chống rửa tiền để nhân viên am hiểu quy trình phòng, chống rửa tiền. Nội
dung cốt lõi trong công tác đào tạo phòng, chống rửa tiền là đào tạo theo dõi,
nhận biết, cập nhật thông tin về khách hàng. Đội ngũ nhân viên mới cần phải
được trang bị về kiến thức, tầm quan trọng của các chính sách nhận biết khách
hàng và những yêu cầu cơ bản tại ngân hàng. Đối với cán bộ làm việc ở các bộ
phận khác nhau cần phải phải có những chương trình và thời gian đào tạo một
cách phù hợp. Qua đó, nhân viên sẽ thực hiện việc xem xét kỹ lưỡng đối với
khách hàng có rủi ro cao, kịp thời phát hiện các giao dịch đáng ngờ để hạn chế
rủi ro cho ngân hàng.
3.3.3.5. Hiện đại hóa công nghệ tin học trong ngân hàng.
Hằng ngày, một cán bộ ngân hàng phải thực hiện hàng trăm giao dịch
khác nhau. Nếu không có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin thì sẽ mất rất nhiều
thời gian, nhưng lại không chính xác. Do vậy, hiện đại hóa công nghệ tin học
trong ngân hàng, đầu tư các phần mềm phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền
có khả năng cảnh báo đối với các khách hàng nằm trong “danh sách đen”, lọc
tách dữ liệu nằm trong mức giao dịch phải báo cáo, phân loại tài khoản theo mức
độ rủi ro … là hoàn toàn phù hợp. Qua đó, hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
3.3.3.6. Phối hợp chặt chẽ với Cục phòng, chống rửa tiền
82
Bên cạnh việc thành lập bộ phận chuyên trách về phòng, chống rửa tiền,
xây dựng chính sách nhận biết khách hàng, hiện đại hóa công nghệ tin học trong
ngân hàng … thì các ngân hàng cũng cần phải quan tâm phối hợp với Cục
phòng, chống rửa tiền. Việc phối hợp này không chỉ giúp các ngân hàng thương
mại nhận được sự tư vấn chính xác trong việc xây dựng các biện pháp phòng,
chống rửa tiền và xử lý các giao dịch đáng ngờ, mà còn là cơ hội để Cục phòng,
chống rửa tiền nhận được các phản hồi chính xác từ phía các ngân hàng thương
mại trong việc thực hiện các qui định pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
TÓM TẮT CHƯƠNG 3
Thông qua những kết qủa đạt được, những tồn tại trong công tác phòng,
chống rửa tiền và những dự báo về tình hình rửa tiền tại Việt Nam trong thời
gian tới. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp về phòng, chống rửa tiền qua hệ
thống ngân hàng tại Việt Nam, những giải pháp này được trình bày thành từng
nhóm giải pháp và phân theo đơn vị thực hiện giải pháp. Đối với từng nhóm giải
pháp, thứ tự trình bày của giải pháp được bố trí theo trình tự thời gian thực hiện.
Tuy nhiên, để thực hiện tốt các giải pháp trên thì rất cần sự phối hợp đồng bộ
giữa các đơn vị thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền như: Các ngân hàng
thương mại, Cục phòng, chống rửa tiền, Bộ công an..
83
KẾT LUẬN
Trước tình hình rửa tiền trên thế giới ngày càng phức tạp, xu hướng
chuyển tiền bất hợp pháp sang các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước
có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, có mức độ hội nhập sâu rộng với các nền kinh
tế trên thế giới và ở đó cũng có hệ thống tài chính ngân hàng còn non trẻ như
Việt Nam để tiến hành tẩy rửa.
Để góp phần giảm bớt những rủi ro này, luận văn đã sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu để giải quyết vấn đề mang tính chiến lược và đã hoàn
thành những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, luận văn đã đề cập một cách có hệ thống cơ sở lý luận về rửa tiền,
tác động của rửa tiền đến nền kinh tế xã hội, quy trình và phương thức rửa tiền,
những nỗ lực của các nước trên thế giới trong công tác phòng, chống rửa tiền.
Hai là, luận văn đã phân tích thực trạng rửa tiền và công tác phòng, chống
rửa tiền tại Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận văn đã đưa ra
những tồn tại trong công tác phòng, chống rửa tiền cần phải tập trung giải quyết
trong thời gian tới.
Ba là, luận văn đã đề ra một hệ thống giải pháp về phòng, chống rửa tiền
qua hệ thống ngân hàng bao gồm các nhóm giải pháp thuộc về nhà nước, ngân
hàng nhà nước và ngân hàng thương mại.
Trên đây là nội dung chính mà tác giả đã đề cập trong luận văn. Do hạn
chế về thời gian và tư liệu nghiên cứu, nên chắc chắn tác giả không thể tránh
khỏi những khiếm khuyết. Vì vậy, tác giả rất mong nhận được sự đóng góp qúy
báu của qúy thầy cô và các nhà nghiên cứu quan tâm đến đề tài này.
84
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. ADB (2007), Chính sách chống tham nhũng tại Châu Á – Thái Bình
Dương, Hà nội.
2. Nguyễn Hải Bình (2005), “Phòng, chống rửa tiền trên thế giới và một số
lưu ý khi áp dụng tại Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng số 11, Hà Nội.
3. TS.Lê Vinh Danh (1997), Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của
ngân hàng trung ương ở các nước tư bản phát triển, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà nội.
4. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2008), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội
5. TS. Nguyễn Trọng Hoài, Nguyễn Hoài Bảo (2005), “Rửa tiền trở ngại cho
phát triển kinh tế”, Tạp chí kinh tế phát triển, (số 186), TPHCM
6. PGS.TS Trần Huy Hoàng, Ths Trần Thị Lan Phương (2006), “Phòng
chống rửa tiền ở Việt Nam”, Tạp chí kinh tế phát triển, (số 186), TPHCM.
7. TS. Đoàn Hồng Lê (2009), “Kinh nghiệm của Hồng Kông vào việc chống
tội phạm “rửa tiền” ở nước ta hiện nay”, Tạp chí sinh hoạt lý luận, (số
4/2009), Đà Nẵng.
8. Ngô Thái Phương (2006), “Chống rửa tiền và tài trợ khủng bố – kinh
nghiệm của một số nước trong khu vực”, Tạp chí ngân hàng, (số 9), Hà
nội
9. Liên Hiệp Quốc (1988), Công ước Viên về chống buôn lậu ma tuý tổng
hợp và các chất hướng thần, Vienna.
10. Liên Hiệp Quốc (2000), Công ước Palermo về chống tội phạm có tổ chức,
Palermo
85
11. Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2010), Báo cáo thường niên năm 2009,
Hà nội
12. Ngân hàng thế giới (2006), Nhận biết và theo dõi khách hàng, Hà nội.
13. Paul Allan Schott (2007), Hướng dẫn tham khảo về chống rửa tiền và tài
trợ khủng bố, NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội.
14. Phạm Xuân Sơn, Phạm Thế Lực (2008), Nhận diện tham nhũng và các
giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính Trị
Quốc Gia, Hà nội
15. Nguyễn Thị Minh Quế (2005), “Một số ý kiến về rửa tiền và phòng chống
rửa tiền trong các giao dịch tài chính giữa nước ta với nước ngoài”, Tạp
chí ngân hàng, (số 5), Hà Nội.
16. Robert Procope, Ludmila Greechanik (2005), “Cuộc chiến chống rửa
tiền”, Tạp chí ngân hàng, (số 12), Hà Nội.
17. Stoyan Tenev và cộng sự (2003), Hoạt động không chính thức và môi
trường kinh doanh ở Việt Nam, NXB Thông Tấn, Hà Nội.
18. TS. Tôn Thanh Tâm (2010), “Cần thiết lập cơ chế giải thích nhanh trước
những tin đồn thất thiệt”, Tạp chí ngân hàng, (số 24/2009), Hà nội.
19. Văn Tạo, Kim Anh (2010), “Phòng, chống rửa tiền kinh nghiệm của các
nước và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, (số 1), Hà Nội.
20. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang (2005), Chống rửa tiền và chủ trương tự do
hóa dòng chu chuyển vốn quốc tế, Tạp chí phát triển kinh tế, (số 177),
TPHCM.
21. PGS.TS. Trần Ngọc Thơ (2005), “Chống rửa tiền nhưng chống ai?”, Tạp
chí kinh tế phát triển, (số 186), TPHCM
22. TS. Trương Quang Thông (2005), Rửa tiền điện tử, Tạp chí phát triển
kinh tế, (số 177), TPHCM.
86
23. Phan Nguyễn Bảo Vân (2008), Phát triển nguồn lực kiều hối tại Ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh, Luận
văn thạc sĩ kinh tế, Đại học kinh tế TPHCM, TPHCM
Tiếng Anh
24. APG (2009), Mutual Evaluation Report On Anti-money Laundering And
Combating The Financing Of Terrotirsm In Viet Nam, France
25. Development Prospects Group, World Bank (2010), Outlook for
Remittance Flows 2010-11 - Migration and Development Brief 12, USA
26. FATF (2007), First Mutual Evaluation Report on Anti-money Laundering
anh combating the financing of terrotirsm in China, France
27. FATF, APG (2009), First Mutual Evaluation Report on Anti-money
Laundering anh combating the financing of terrotirsm in Korea, France
28. FATF, APG (2006), Thist Mutual Evaluation Report on Anti-money
Laundering anh combating the financing of terrotirsm in USA, France
29. FATF, APG (2008), Third Mutual Evaluation Report on Anti-money
Laundering anh combating the financing of terrotirsm in Singapore,
France
30. FATF (2009), Methodology for Assesssing Compliance with the FATF 40
Recommendations and the FATF 9 special Recommendations, France
31. FATF (2009), Handbook for Countries and Assessors about AML/CFT
Evaluations and Assessments, France
32. Ministry for Finance and Deregulation Australia (2006), The Amounts
And The Effects Of Money Laundering, Australia.
33. UN (1988), Convention Against Illicit Traffic In Narcotic Drugs And
Psychotropic Substances, Vienna.
87
34. UN (2000), Convention Against Transnational Organized Crime,
Palermo.
35. World Bank (2009), Stolen Asset Recovery, USA