Post on 28-Jan-2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA Y - DƯỢC
BỘ MÔN KỸ THUẬT Y HỌC
CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH
U TUYẾN YÊN
Người thực hiện: Giảng viên hướng dẫn:
Nguyễn Đức Anh ThS.BS. Doãn Văn Ngọc
Sinh viên lớp Y3
Mã sinh viên: 13100102
Hà Nội - 2016
MỤC LỤC
I. Đặt vấn đề .............................................................................................................. 1
II. Nội dung ............................................................................................................ 3
1. Giải phẫu tuyến yên .............................................................................................. 3
2. Sinh lý tuyến yên .................................................................................................. 6
3. Sinh lý bệnh và Dịch tễ học các loại u tuyến yên .............................................. 13
4. Triệu chứng lâm sàng của u tuyến yên .............................................................. 16
5. Chẩn đoán hình ảnh u tuyến yên ....................................................................... 23
5.1. Đôi nét về các phương pháp chẩn đoán hình ảnh u tuyến yên ................... 23
5.2. Phương pháp chụp cắt lớp vi tính (CT) ....................................................... 24
5.3. Phương pháp chụp cộng hưởng từ (MRI) ................................................... 25
5.4. Phương pháp chụp cộng hưởng từ động học tuyến yên (Dynamic MRI) ... 30
5.5. Phương pháp sử dụng thụ thể somatostain (Somatostain Receptor) .......... 33
6. Điều trị u tuyến yên ............................................................................................ 35
III. Kết luận ......................................................................................................... 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
U tuyến yên là khối u tăng trưởng bất thường, phát triển trong tuyến yên –
một trong những tuyến nội tiết chính, quan trọng nhất của cơ thể. Một số khối u
tuyến yên làm cho tuyến yên sản xuất quá nhiều hormone điều hoà các chức
năng quan trọng của cơ thể. Các khối u tuyến yên khác có thể hạn chế chức năng
bình thường của tuyến yên, gây ra hạn chế sản xuất kích thích tố. Khoảng 11 -
14% dân số thế giới có các loại u tuyến yên. Nói cách khác, cứ hơn 10 người thì
có 1 người có khối u tuyến yên [1]. Điều may mắn là đa số các u tuyến yên đều
lành tính. Tuy nhiên, khá nhiều khối u không gây ra triệu chứng gì và vì thế
không bao giờ được chẩn đoán trong suốt cuộc đời.
Chẩn đoán một khối u tuyến yên phụ thuộc vào sự kết hợp các triệu chứng
lâm sàng và dấu hiệu cận lâm sàng - là kết quả từ kích thước của khối u hoặc
loại hormone được nó sản xuất.
Chụp mạch (Angiography) hiếm khi được thực hiện; nếu có chỉ định, cắt lớp
vi tính (CLVT) mạch máu (CT Angiography - CTA) và cộng hưởng từ (CHT)
mạch máu (MRA) là phương pháp thay thế cho chụp động mạch thông thường.
Chụp mạch chỉ có vai trò khi can thiệp được chỉ định trong các xoang hang hoặc
ở phần xuống của động mạch cảnh.
Thông thường chụp CLVT có một vai trò hạn chế trong chẩn đoán hình ảnh
tuyến yên, với độ nhạy 17-22% trong việc phát hiện microadenomas. Chụp
CLVT 64 dãy có thể có một vai trò tốt hơn, đặc biệt là ở những bệnh nhân
không thể chụp CHT. CLVT là phương pháp tốt nhất cho việc hình dung chi tiết
xương và các ổ vôi hóa trong các khối u như germinomas, craniopharyngiomas,
và u màng não. CLVT mạch là phương pháp tuyệt vời cho việc hiển thị các hình
thái phình vùng cận hố yên và lập kế hoạch trước phẫu thuật. CLVT có giá trị
hơn cả CHT trong một vài trường hợp như ở bệnh nhân sử dụng máy tạo nhịp
hoặc có cấy ghép kim loại trong não hoặc mắt.
2
CHT thường được ưu tiên hơn CLVT trong chẩn đoán u tuyến yên vì sự vượt
trội của nó trong việc thể hiện các tổn thương nhỏ trong tuyến yên và cải thiện
hình ảnh giải phẫu của nó trước khi phẫu thuật. CHT cũng được ưu tiên dành
cho quá trình đánh giá nhận định kết quả sau phẫu thuật.
Somatostatin thụ xạ hình (Somatostatin-receptor scintigraphy) có thể được
sử dụng để phân biệt khối u tái phát hay chỉ là khối u còn sót lại từ vết sẹo hay
mô bị hoại tử sau khi phẫu thuật.
3
II. NỘI DUNG
1. Giải phẫu tuyến yên [2]
Hình 1. Vị trí giải phẫu của tuyến yên. Nguồn: newhealthguide.org
Tuyến yên (pituitary gland) là một cấu trúc hình hạt đậu có đường kính
khoảng 1 – 1,5cm. Nó nằm trong hố yên của xương bướm, ở dưới vùng hạ đồi
và bám vào vùng hạ đồi bằng một cuống hay phễu (infudibulum). Tuyến yên có
hai phần riêng biệt về giải phẫu và chức năng: Thùy trước (anterior lobe) và
Thùy sau (posterior lobe). Thùy trước tuyến yên chiếm khoảng 75% trọng lượng
tuyến yên. Thùy này phát triển từ một phần trồi ra của ngoại bì gọi là túi tuyến
yên ở vòm miệng. Thùy sau tuyến yên cũng phát triển từ một phần trồi ra của
ngoại bì gọi là nụ tuyến yên thần kinh. Thùy sau chứa các sợi trục và các đầu tận
cùng sợi trục của trên 10 000 nơ ron mà thân tế bào của chúng nằm ở các nhân
trên thị và quanh não thất của vùng hạ đồi.
4
Hình 2. Tuyến yên trước, tuyến yên sau và các thành phần khác. Nguồn:
urmc.rochester.edu
Thùy trước của tuyến yên hay tuyến yên tuyến (adenohypophyis), tiết ra
những hormone điều hòa hoạt động của cơ thể, từ tăng trưởng đến sinh sản. Sự
giải phóng các hormone thùy trước tuyến yên được kích thích bởi các hormone
giải phóng (releasing hormones) và bị kìm hãm bởi các hormone ức chế
(inhibiting hormones) từ vùng dưới đồi. Những hormone này là công cụ liên kết
quan trọng giữa hệ thần kinh và hệ nội tiết.
Các hormone vùng dưới đồi đi tới thùy trước tuyến yên qua một hệ mạch
cửa. Các động mạch tuyến yên trên (nhánh của các động mạch cảnh trong và
não sau) tạo nên một mạng lưới mao mạch (thứ nhất) bao quanh các tế bào thần
kinh tiết (neurosecretory cells) ở đáy (nền) của vùng dưới đồi. Các hormone giải
phóng và ức chế do các tế bào thần kinh tiết tổng hợp khuếch tán vào mạng lưới
mao mạch này. Từ mạng lưới mao mạch thứ nhất, máu đi vào các tĩnh mạch cửa
của tuyến yên. Các tĩnh mạch này đi xuống bên ngoài phễu. Ở thùy trước tuyến
yên, các tĩnh mạch cửa lại chia thành một mạng lưới mao mạch thứ hai bao
quanh các tế bào của thùy trước. Con đường trực tiếp này cho phép các hormone
của vùng dưới đồi tác động một cách nhanh chóng lên các tế bào thùy trước
5
tuyến yên trước khi bị pha loãng hoặc phá hủy trong hệ tuần hoàn. Những
hormone do các tế bào thùy trước tuyến yên tiết ra đi vào mạng lưới mao mạch
thứ hai của hệ cửa rồi sau đó đi vào các tĩnh mạch tuyến yên trước rồi về tim
phân phối tới các mô đích trên khắp cơ thể.
Thùy sau tuyến yên hay tuyến yên thần kinh (neurohypophysis), chứa các sợi
trục và các đầu tận cùng sợi trục của trên 10 000 nơ ron mà thân tế bào của
chúng nằm ở nhân trên thị và nhân quanh não thất của hạ đồi. Các đầu tận cùng
sợi trục ở thùy sau tuyến yên gắn kết với những tế bào thần kinh đệm có tên là
các tế bào tuyến yên (pituicytes).
Các thân tế bào thần kinh tiết của vùng hạ đồi sản xuất ra hai hormone là
oxytocin và antidiuretic hormone (ADH). ADH còn được gọi là vasopresin. Hai
hormone này được các sợi trục vận chuyển tới các đầu tận cùng sợi trục ở thùy
sau tuyến yên và được dự trữ ở đó. Mỗi hormone được giải phóng để đáp ứng
với một kích thích riêng.
2. Sinh lý tuyến yên [3]
Hình 3. Hoạt động sinh lý của tuyến yên. Nguồn:
biology.stackexchange.com
2.1 Các hormon thùy trước
6
2.1.1 Hormon tăng trưởng (GH)
- Bản chất hoá học:
GH là một phân tử polypeptid, có 191 acid amin, trọng lượng phân tử 22.005.
- Tác dụng:
+ Tác dụng phát triển cơ thể: tác dụng lên hầu hết các mô cơ thể, tăng số
lượng và kích thước tế bào, tăng kích thước các phủ tạng. Kích thích phát triển
các mô sụn ở đầu xương dài do đó làm thân xương dài ra, đồng thời mô sụn
cũng dần được cốt hoá sao cho đến tuổi vị thành niên, lúc này đầu xương và
thân xương hợp nhất với nhau và xương không dài nữa. GH gây dày màng
xương ở xương đã cốt hóa. Tác dụng này rõ trong giai đoạn phát triển và tiếp tục
duy trì suốt đời.
+ Tác dụng lên chuyển hóa:
Tăng tổng hợp protein, tăng thu nhận acid amin vào tế bào.
Gây tăng đường huyết do làm giảm sử dụng glucose tế bào, tăng dự trữ
glycogen tế bào, giảm đưa glucose vào tế bào, tăng bài tiết insulin và kháng
insulin ở mô cơ làm giảm vận chuyển glucose qua màng tế bào.
Tăng huy động mỡ dự trữ nhằm cung cấp năng lượng do đó làm tăng nồng độ
acid béo trong máu. Dưới tác dụng của GH, lipid được sử dụng để tạo năng
lượng nhằm tiết kiệm protein dành cho sự phát triển cơ thể.
Sự tương tác giữa GH và somatomedin (IGF-I):
Somatomedine là một polypeptid do gan và thận sản xuất. Đó là một yếu tố
có cấu trúc gần giống insulin, được gọi là insulinlike growth factor I (IGF-I). Có
tác dụng tương tác phối hợp với GH trong chuyển hoá protein, phát triển sụn và
phát triển cơ thể. Vì nó kết hợp sulfat vào sụn. Nó còn có tác dụng kích thích tạo
keo. Tác dụng phối hợp này xảy ra ở nhiều tổ chức , vì vậy được gọi là
somatomedin.
- Điều hòa bài tiết GH:
7
Nồng độ GH thay đổi tùy lứa tuổi 1,5-3ng/ml ở người trưởng thành, 6ng/ml ở
trẻ em và tuổi dậy thì. Sự bài tiết dao động từng phút và phụ thuộc nhiều yếu tố
(hạ đường huyết, vận cơ, chấn thương...). Nồng độ GH cao nhất ban ngày 3-4
giờ sau bữa ăn, ban đêm GH tăng hai giờ đầu giấc ngủ say rồi giảm dần đến
sáng.
GH được kiểm soát bởi hai hormon vùng dưới đồi là GRH và GIH qua cơ
chế điều hòa ngược. Nồng độ glucose máu giảm, nồng độ acid béo giảm, thiếu
protein kéo dài làm tăng tiết GH. Ngoài ra, các tình trạng stress, chấn thương,
luyện tập sẽ làm tăng tiết GH.
2.1.2 Hormon kích thích tuyến giáp (TSH)
- Bản chất hoá học:
TSH là một glycoprotein, trọng lượng phân tử khoảng 28.000.
- Tác dụng:
Tất cả các giai đoạn tổng hợp, bài tiết hormon giáp.
Dinh dưỡng tuyến giáp và tăng phát triển hệ thống mao mạch của tuyến giáp.
- Điều hoà bài tiết:
TSH được bài tiết do sự điều khiển của TRH, phụ thuộc vào nồng độ T3,
T4 tự do theo cơ chế điều hòa ngược. Nồng độ bình thuờng người trưởng thành
là 2,12 ( 0,91 mU/L).
2.1.3 Hormon kích thích vỏ thượng thận (ACTH)
- Bản chất hoá học:
ACTH là một polypeptid có 39 acid amin, trọng lượng phân tử 5000. Phần lớn ở
dạng tiền chất POMC
- Tác dụng:
Dinh dưỡng, kích thích sự tổng hợp và bài tiết hormon vỏ thượng thận.
Tác dụng chủ yếu lên lớp bó và lớp lưới bài tiết glucocorticoid và androgen.
Trên tổ chức não, ACTH làm tăng quá trình học tập và trí nhớ.
8
Do có một phần cấu trúc gần giống MSH nên cũng có tác dụng MSH. Ở
người do lượng MSH bài tiết không đáng kể nên chính ACTH có tác dụng kích
thích tế bào sắc tố sản suất melanin, do đó sự rối loạn bài tiết ACTH cũng gây
tăng hay giảm sắc tố ở da.
- Điều hoà bài tiết:
Sự bài tiết ACTH do nồng độ CRH của vùng dưới đồi quyết định, khi nồng
độ CRH tăng làm tăng tiết ACTH. Ngoài ra còn do tác dụng điều hoà ngược âm
tính và dương tính của cortisol. Đồng thời ACTH cũng được điều hoà theo nhịp
sinh học, nồng độ cao nhất từ 6-8 giờ sáng. Ở người Việt Nam trưởng thành (lấy
máu lúc 8 giờ 30 phút trên 25 nam khoẻ mạnh) nồng độ ACTH là 9,78 (4,60
pg/ml.
2.1.4 Các hormon hướng sinh dục
- Bản chất hoá học:
Cả FSH và LH đều là các glycoprotein.
FSH (kích noãn tố) có 236 acid amin, trọng lượng phân tử 32.000. Còn LH
(kích hoàng thể tố), có 215 acid amin, trọng lượng phân tử 30.000.
- Tác dụng:
FSH:
Ở nam giới: dinh dưỡng tinh hoàn, phát triển ống sinh tinh và sản sinh tinh
trùng
Ở nữ giới: kíck thích sự phát triển của các nang trứng trong giai đoạn đầu,
phối hợp LH làm cho trứng chín, rụng và bắt đầu bài tiết estrogen
LH:
Ở nam giới: dinh dưỡng tế bào Leydig, kích thích sự bài tiết testosteron
Ở nữ giới: gây hiện tượng rụng trứng, tiết estrogen, sau đó tạo hoàng thể và
kích thích sự bài tiết progesteron.
- Điều hoà bài tiết:
9
Hai hormon trên được điều hòa theo cơ chế điều khiển ngược âm tính của
estrogen, progesteron, testosteron và GnRH. Riêng estrogen còn có tác dụng
điều hoà ngược dương tính, ngay trước giai đoạn phóng noãn, nồng độ estrogen
trong máu cao kích thích tuyến yên bài tiết FSH và LH.
Nồng độ FSH và LH ở nữ dao động trong chu kỳ kinh nguyệt.
2.1.5 Hormon kích thích bài tiết sữa- Prolactin (PRL)
- Bản chất hoá học:
198 acid amin, trọng lượng phân tử 22.500.
- Tác dụng:
Kích thích tăng trưởng tuyến vú và sự sản xuất sữa lúc có thai và cho con bú,
đồng thời ức chế tác dụng của Gonadotropin tại buồng trứng.
- Điều hoà bài tiết:
Bình thường prolactine bị ức chế bởi PIH ở vùng dưới đồi và được bài tiết với
nồng độ rất thấp, 110-510 mU/L ở nam và 80-600 mU/L ở nữ. Khi có thai
prolactin tăng dần từ tuần thứ 5 của thai kỳ cho tới lúc sinh, gấp 10-20 lần bình
thường.
Do estrogen và progesteron ức chế bài tiết sữa nên khi đứa trẻ sinh ra, cả hai
hormon trên giảm đột ngột tạo điều kiện cho prolactin phát huy tác dụng bài tiết
sữa.
2.2 Các hormon thùy sau
Hai hormon được bài tiết từ thuỳ sau tuyến yên có nguồn gốc từ vùng dưới đồi,
do nhân trên thị và nhân cạnh não thất bài tiết. Sau khi được tổng hợp chúng
được vận chuyển theo sợi trục đến chứa ở các túi nằm trong tận cùng thần kinh
khu trú ở thuỳ sau tuyến yên. Hai hormon đó là oxytocin và ADH.
2.2.1 ADH (antidiuretic hormon)
- Bản chất hoá học:
ADH còn có tên là vasopressin là một peptid gồm 9 acid amin (Cys-Tyr-Phe-
Gln-Asn-Cys-Pro-Arg-Gly-NH2).
10
- Tác dụng:
Chủ yếu là tăng tái hấp thu nước ở ống xa và ống góp, liều cao gây co mạch,
tăng huyết áp nên còn gọi là vasopressin
Cơ chế tác dụng: giải phóng AMP vòng trong tế bào ống góp, làm tăng tính
thấm màng tế bào đối với nước.
- Điều hoà bài tiết:
Bài tiết phụ thuộc vào áp suất thẩm thấu và thể tích dịch ngoại bào.
Khi áp suất thẩm thấu tăng, nhân trên thị bị kích thích sẽ truyền tín hiệu đến
thuỳ sau tuyến yên và gây bài tiết ADH.
Thể tích máu giảm, gây kích thích mạnh bài tiết ADH khi giảm 15-25% thể
tích máu, lúc này ADH tăng gấp 50 lần và có thể gây co mạch mạnh nên còn
gọi là vasopressin.
Các receptor căng dãn ở nhĩ bị kích thích cũng có thể kích thích bài tiết ADH.
2.2.2 Oxytocin
- Bản chất hoá học:
Là peptid có 9 acid amin với trọng lượng phân tử 1025.
- Tác dụng:
Gây co thắt tế bào biểu mô cơ (myoepithelial cells) là những tế bào nằm
thành hàng rào bao quanh nang tuyến sữa. Những tế bào này co lại sẽ ép vào các
nang tuyến và đẩy sữa ra ống tuyến, khi đứa trẻ bú sẽ nhận được sữa. Tác dụng
này được gọi là tác dụng bài xuất sữa, khác với tác dụng gây bài tiết sữa của
prolactin.
Gây co cơ tử cung mạnh khi có thai, đặc biệt mạnh vào cuối thai kỳ, lúc
chuyển dạ.
- Điều hoà bài tiết:
Oxytocin được bài tiết khi có kích thích trực tiếp vào tuyến vú (động tác mút
vú của đứa trẻ) hoặc kích thích tâm lý. Những kích thích tâm lý hoặc giao cảm
có liên quan đến cảm xúc đều có ảnh hưởng đến vùng dưới đồi kích thích hoặc
11
ức chế bài tiết oxytocin và ảnh hưởng đến sự bài xuất sữa ở các bà mẹ cho con
bú.
3. Sinh lý bệnh và Dịch tễ học các loại u tuyến yên`
U tuyến yên tương đối phổ biến, chiếm khoảng 15% của tất cả các khối u não
nguyên phát [4]. Phần lớn bắt nguồn từ thùy trước tuyến yên và thường là u
tuyến lành tính . Những u tuyến lành tính thường không được chẩn đoán và chỉ
khi được phân tích tổng hợp từ các nghiên cứu của người sau khi chết đã chứng
minh tỷ lệ tổng thể từ 11-14% có các u tuyến yên trong dân số nói chung [5],
[6]. Các khối u của tuyến yên sau là rất hiếm và có di căn, thường là u tế bào
hạt, và có khả năng trở thành khối u trụ trục thần kinh.
U tuyến yên được chia thành 2 loại là: microadenomas (khi kích thước <10
mm) là loại thường gặp nhất (75%) có bài tiết và macroadenomas (khi kích
thước > 10 mm) thường không bài tiết.
3.1 U tuyến yên Micro (microadenomas):
3.1.1 Sinh lý bệnh
Thường đơn dòng – nghĩa là chúng chỉ tiết ra một hormone đơn thuần.
Khoảng 1-2% các u tuyến tiết ra 2 hoặc nhiều kích thích tố, là hormone tăng
trưởng (GH) và prolactin (PRL) và thường cao đồng thời [7], [8].
U tuyến yên tiết prolactin (prolactinomas) là loại phổ biến nhất [9]. Ngay cả
microadenomas cũng có thể gây nên các triệu chứng, nhưng đó cũng là một mối
tương quan trực tiếp giữa các khối u của prolactinomas và quá trình sản xuất
hormone [10]. Mặc dù prolactinomas có triệu chứng điển hình là tiết nhiều sữa
(galactorrhea) nhưng triệu chứng này không phải lúc nào cũng xuất hiện.
U tuyến yên tiết GH (GH-secreting adenomas) là u tuyến phổ biến thứ hai,
tiếp theo là u tuyến yên tiết kích thích tố vỏ thượng thận ACTH(ACTH-
secreting adenomas) và u gonadotroph (khối u tiết ra hormone kích thích hoàng
thể [LH] và kích thích nang trứng hormone [FSH]); u thyrotroph (khối u tiết ra
hormone hướng tuyến giáp TSH) chiếm tỉ lệ nhỏ ít hơn 1% của u tuyến yên.
12
Ung thư biểu mô tuyến yên là khá hiếm, đòi hỏi các cuộc khảo sát kĩ lưỡng
trong di căn ung thư để chẩn đoán [10], [11].
3.1.2 Dịch tễ học
- Ở Mỹ, việc khám nghiệm tử thi tìm để tìm u tuyến yên, gần như tất cả
chúng là các microadenomas, trong 10-14% các tử thi. Tổng phân tích các
nghiên cứu khám nghiệm tử thi trong chẩn đoán hình ảnh cho thấy
microadenomas có ở 22% và 14% các trường hợp [12], [13]. Chúng xảy ra ở
mọi lứa tuổi, không phân biệt giới tính.
- Trên thế giới, một nghiên cứu ở 3048 trường hợp khám nghiệm tử thi tìm
thấy 316 tử thi có một hoặc nhiều u ở trong tuyến yên (10%), phần lớn là nhỏ
hơn 3 mm. Nhuộm miễn dịch với prolactin cho kết quả dương tính ở 40% các
trường hợp[14]. Dường như không có bất kỳ sự khác biệt nào trong tỷ lệ mắc u
tuyến yên từ các nghiên cứu trên toàn thế giới.
- Microadenomas trên lý thuyết có thể xảy ra ở cả hai giới. Tuy nhiên
prolactinoma, là dạng microadenomas phổ biến nhất, thấy thường xuyên hơn ở
phụ nữ, có thể vì các triệu chứng nổi bật như vô kinh hay tăng tiết sữa.
3.2 U tuyến Macro (Macroadenomas)
3.2.1 Sinh lý bệnh
Đặc biệt là những người có vùng trên hố yên mở rộng hoặc chấn thương đầu
có thể gây cường tiết prolactin “hyperprolactinemia” không liên quan đến
“prolactinoma”. Thông thường, dopamine được tiết ra từ vùng dưới đồi và được
vận chuyển qua cuống tuyến yên đến thùy trước tuyến yên, nơi mà nó ức chế
tiết lactotrophs . Khi khối u phát triển đủ lớn, một "hiệu ứng cuống" (stalk
effect) xảy ra, và vận chuyển này bị phá vỡ. Kết quả là, sự tiết dopamine không
còn ức chế một cách thích hợp, và lactotroph tăng sản phát triển.
Các rối loạn di truyền phổ biến nhất ảnh hưởng đến tuyến yên là u đa tuyến nội
tiết (multiple endocrine neoplasia-1 - MEN-1), đặc trưng bởi u của tuyến yên,
tuyến cận giáp, và tuyến tụy. Nguyên nhân di truyền khác của bệnh bao gồm các
13
đột biến trong pit-1, một yếu tố phiên mã tuyến yên mà dẫn đến kết quả thiếu
hụt đồng thời GH, PRL, và hormone kích thích tuyến giáp (TSH).
Hội chứng Sheehan, còn được gọi là suy tuyến yên sau đẻ, là do nhồi máu
của tuyến yên do giảm thể tích tuần hoàn từ xuất huyết sản khoa. Các biểu hiện
lâm sàng đầu tiên của hội chứng thường là sự giảm sản xuất sữa trong thời kỳ
hậu sản. Sau đó là sự giảm sản xuất các hormone, và chức năng tuyến yên có thể
giảm hơn nữa theo thời gian [15].
Ngập máu tuyến yên là một hội chứng nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng, xảy
ra như một kết quả của xuất huyết, nhồi máu hay xuất huyết nhồi máu trong một
khối u tuyến yên [16]. Áp lực do phù nề và sự tích tụ của máu chèn ép các cấu
trúc lân cận dẫn đến các triệu chứng: khởi phát là đột ngột rối loạn chức năng thị
giác, nhức đầu dữ dội, và sau đó suy tuyến yên. Hội chứng này là một cấp cứu
phẫu thuật thần kinh cần can thiệp để điều trị ngay lập tức.
3.2.2 Dịch tễ học
Khối u macro tuyến yên được tìm thấy trên khám nghiệm tử thi trong khoảng
25% các trường hợp không được chọn. Tỷ lệ mắc hằng năm của u tuyến yên
macro thay đổi từ 1-7 trên 100.000 người dựa trên phẫu thuật thần kinh.
4. Triệu chứng lâm sàng [17], [18], [19], [20], [21]
Gồm những triệu chứng do khối u tiết quá nhiều hormon, hoặc triệu chứng do
khối u chèn ép. Hầu hết u tuyến yên là khối u lành tính, nhưng cũng có thể xâm
lấn tại chỗ vào tổ chức xung quanh, có hoặc không tiết hormon, tiên lượng
tương đối tốt. Ngược lại, các khối u cạnh hố yên thường ác tính, xâm lấn, tiên
lượng xấu hơn.
4.1 Khối u tiết hormone
- Triệu chứng do khối u chèn ép tổ chức xung quanh:
+ Đau đầu: thường gặp, không tương ứng với kích thước khối u.
+ Chèn ép về phía trên và chèn lên giao thoa thị giác, có thể gây bán manh
thái dương hai bên, mù màu đỏ, có nhiều điểm tối, mù hoàn toàn.
14
+ Xâm lấn sang bên có thể chạm đến xoang bướm làm tổn thương các dây
thần kinh sọ não III, IV, VI, V1 gây song thị, sụp mi, liệt cơ mắt, và một số thần
kinh mặt.
+ Cơn động kinh, rối loạn bản thể, mất khứu giác có thể có nếu các thuỳ não
thái dương và trán bị xâm lấn do phát triển của khối cạnh hố yên.
+ Nôn tái phát có hoặc không có tổn thương ống ngoại tháp hoặc ống tháp.
+ Sinh dục-nội tiết: có thể dậy thì sớm ở trẻ nhỏ, suy sinh dục ở người lớn.
+ Ngoài ra có thể bị đái tháo nhạt hoàn toàn hoặc không hoàn toàn, đặc biệt vì
rối loạn cơ chế khát, hội chứng tiết không thích hợp ADH, rối loạn giấc ngủ, rối
loạn nhiệt độ, rối loạn sự ngon miệng béo phì, ăn nhiều, hoặc chán ăn, mất cảm
giác khát hoặc cuồng uống đều có thể gặp trên lâm sàng.
-Triệu chứng do tăng tiết hormone:
+ U tiết prolactin (prolactinomas): tăng nồng độ prolactin máu làm mất kinh
nguyệt và chảy sữa ở phụ nữ, giảm libido và rối loạn cương ở nam giới. Khối u
kích thước lớn có triệu chứng do chèn ép thần kinh thị giác, thần kinh sọ não và
suy chức năng thùy trước tuyến yên.
+U tiết hormone tăng trưởng: Tùy thời gian xuất hiện bệnh trước hay sau tuổi
trưởng thành mà sinh bệnh to đầu chi (acromegaly) hay bệnh khổng lồ
(gigantism).
+ U tiết ACTH: có những triệu chứng của “Bệnh Cushing”.
+ U tiết TSH: biểu hiện cường chức năng tuyến giáp (hồi hộp, đánh trống
ngực, rối loạn nhịp, sút cân, run tay..) và bướu cổ to. Khối u thường lớn, trên
60% có xâm lấn tại chỗ gây các triệu chứng chèn ép về thị giác, thần kinh sọ
não.
+ U tuyến yên tiết gonadotropin: thường có kích thước lớn. Người bệnh
thường có rối loạn về nhìn, các triệu chứng suy chức năng tuyến yên, nhức đầu.
Một số khối u tăng tiết FSH, LH hoặc tiểu đơn vị alpha, người bệnh có triệu
chứng suy sinh dục do giảm điều hòa chức năng tuyến sinh dục.
15
- Suy chức năng tuyến yên (hypopituitarism):
+ Suy tuyến yên bẩm sinh hay bệnh xuất hiện lúc nhỏ sẽ gây những rối loạn
nặng về tuyến giáp, sinh dục, thượng thận, sự phát triển và cân bằng nước.
+ Giảm tiết ACTH gây hạ huyết áp, sốc, hạ đường huyết, buồn nôn, mệt lả, hạ
Na+ máu. Cần định lượng cortisol và ACTH trước khi chỉ định glucocorticoid.
Cần làm nghiệm pháp kích thích bằng Cosyntropin một vài tuần sau khi xuất
hiện triệu chứng giảm nồng độ ACTH máu.
+ Người bệnh thường có triệu chứng suy giáp trên lâm sàng; tuy nhiên, ngay
cả khi không có triệu chứng, cần định lượng FT4 để đánh giá tình trạng bệnh.
+ Rối loạn chức năng sinh dục: phụ nữ thường có rối loạn kinh nguyệt hoặc
mất kinh, nồng độ LH hoặc FSH không tăng; nam giới có triệu chứng rối loạn
sinh dục và giảm testosterone. Điều trị thay thế hormon sinh dục rất quan trọng
để đề phòng loãng xương. Thiếu GH thường xẩy ra khi thiếu ≥ 2 hormon.
4.2 Một số u tuyến yên không tiết hormon
- Nang hố yên/ nang cạnh hố yên (Sella/parasella cysts):
+ Thường gặp nhất là các u sọ hầu (craniopharyngiomas), là những nang bị
vôi hóa, các khối u trên hố yên phát sinh từ những phần sót lại của tế bào có vẩy
trong bào thai của khe Rathke (Rathke′s cleft).
+ Thường xuất hiện vào hai đỉnh tuổi: trẻ em từ 5-10 tuổi, và cuối tuổi trung
niên. Thường gặp ở nữ, hầu hết các nang là những khối ở trong hoặc trên hố yên
đã bị vôi hóa.
+ Trẻ thường kêu nhức đầu, nôn, hẹp thị trường và không phát triển.
+ Người lớn có thể có bán manh hai thái dương (bitemporal hemianopsia), các
triệu chứng bất thường thần kinh sọ não (thần kinh III, IV, VI và V1), giảm tiết
các hormon thùy trước tuyến yên và bệnh đái tháo nhạt.
+ Các nang khe Rathke (Rathke′s cleft cyts) thường lành tính, tổn thương
không bị vôi hóa, giống u tuyến nội tiết không hoạt động hoặc u sọ hầu. Các
nang này có tỷ lệ tái phát thấp sau phẫu thuật cắt bỏ.
16
- U nguyên sống (Chordomas):
+ Là những khối u ít gặp, phát sinh từ phần còn lại của nguyên sống
(notochordal remnant) trong mặt dốc (clivus). Các u này thường gây phá hủy
xương cùng với viêm tại chỗ, hay tái phát.
+ Nam giới thường gặp hơn, ở độ tuổi từ 30-50.
+ Hay gặp triệu chứng bệnh lý thần kinh sọ não và song thị. Rối loạn chức
năng nội tiết không thường xuyên, khối u bị vôi hóa chỉ gặp ở 50% trường hợp.
- U tế bào mầm (Germinomas):
+ Phát sinh trong tuyến yên/trên tuyến yên, bao gồm vùng dưới đồi, giao thoa
thần kinh thị giác và vùng tuyến tùng.
+ Người bệnh có triệu chứng suy hoặc cường chức năng tuyến yên; dậy thì
sớm, đái tháo nhạt, rối loạn thị trường và các triệu chứng tăng áp lực sọ não.
+ Khối u di căn vào hệ thống thần kinh trung ương khoảng 10% trường hợp.
- U dạng bì (Dermoid tumors):
+ Khối u ít phát triển ở trẻ em, gây viêm màng não tái phát do sự thoát ra các
thành phần của khối u.
- Di căn đến tuyến yên:
+ Các di căn ung thư đến tuyến yên thường gặp nhất ở người già, thường phát
sinh từ ung thư vú ở phụ nữ và ung thư phổi.
+ Ung thư tiên phát ở các vị trí khác di căn đến tuyến yên như ung thư ống
tiêu hóa, thận, tuyến tiền liệt và da.
+ Triệu chứng thường gặp: Rối loạn chức năng thùy trước tuyến yên, rối loạn
thị trường, đái tháo nhạt, liệt các dây thần kinh sọ não. Khối u to lên nhanh càng
chứng tỏ khối u do di căn.
- Phình mạch (aneurysms):
+ Các phình mạch có thể phát sinh từ xoang hang, hoặc từ các động mạch
cảnh trong trên hoặc dưới chêm, mạch phình có thể tỳ đè vào thần kinh mắt và
giao thị gây hẹp thị trường thái dương, liệt nhãn cầu, đau đầu nhiều, đau trên ổ
17
mắt. Phình mạch có thể phát triển vào trong hố yên chèn ép trực tiếp vào tuyến
yên làm suy chức năng tuyến yên và tăng tiết prolactin. U phình mạch có thể xác
định bằng MRI hoặc chụp mạch bằng cộng hưởng từ - MRA (MR angiography)
rất cần thiết để quyết định sinh thiết qua xương bướm.
- Các u hạt tuyến yên:
+ Viêm màng não do lao có thể xẩy ra ngay tại hố yên hoặc cạnh hố yên. Các
u lao có thể có trong hố yên hoặc trên hố yên, kết hợp với các triệu chứng suy
chức năng tuyến yên, rối loạn thị trường và đái tháo nhạt.
+ Bệnh sacoid (Sarcoidosis) vùng dưới đồi - tuyến yên, hầu hết người bệnh có
những triệu chứng của hệ thần kinh trung ương và có thể là nguyên nhân làm
suy chức năng thùy trước tuyến yên có hoặc không có triệu chứng khối u trong
hố yên. Sarcoidosis rất hay gặp ở vùng dưới đồi, thùy sau tuyến yên và thần kinh
sọ não. Rối loạn nội tiết thường gặp nhất là suy chức năng sinh dục do thiểu tiết
hormon sinh dục (gonadotropic hypogonadism), tăng tiết prolactin vừa phải, và
đái tháo nhạt.
+ U hạt tế bào khổng lồ (Giant cell granuloma - Granulomatous hypophysitis)
là u hạt tế bào khổng lồ không bã đậu hóa, hiếm gặp, chiếm chỗ một phần hoặc
toàn bộ tuyến yên và không có tổn thương các cơ quan khác, thường gặp nhất ở
phụ nữ tuổi trung niên và lớn tuổi. Nguyên nhân chưa rõ, triệu chứng lâm sàng
thường gặp là suy chức năng thùy trước tuyến yên và tăng prolactin máu.
+ Histiocytosis X (HX): Có thể là bệnh u hạt tế bào ái toan một ổ hoặc nhiều
ổ hoặc thể ác tính hơn - bệnh Letterer- Siwe. HX thường gặp trong vùng dưới
đồi, một nửa người bệnh có đái tháo nhạt. Trẻ em có thể chậm phát triển, suy
giảm hormon thùy trước tuyến yên. Bệnh HX gồm có ba triệu chứng: đái tháo
nhạt, lồi mắt và tiêu hủy xương.
+ Viêm tuyến yên tế bào lympho (lymphocytic hypophysitis), gặp chủ yếu ở
nữ, 60-70% xẩy ra vào giai đoạn cuối thai kỳ hoặc sau đẻ. Các bệnh tự miễn
khác (viêm tuyến giáp tự miễn) gặp khoảng 20-25%, khối u trong/ trên tuyến
18
yên có thể to, suy chức năng thùy trước tuyến yên, đái tháo nhạt, và/hoặc rối
loạn thị trường (50-70%). Sự phục hồi chức năng tuyến yên có thể tự phát hoặc
bằng corticosteroid và điều trị thay thế các hormon khác. Chẩn đoán bằng tổ
chức học, hoặc khi phẫu thuật khối u. Phẫu thuật cần thiết nếu có các triệu
chứng về rối loạn thị trường hoặc triệu chứng chèn ép ngày càng tăng.
+ Áp xe tuyến yên: Hiếm gặp, xảy ra do nhiễm khuẩn, thâm nhiễm trực tiếp
các cơ quan phụ cận trong xoang bướm, và nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung
ương khác. Người bệnh có triệu chứng rối loạn về thị giác, suy chức năng tuyến
yên, đái tháo nhạt (50%). Chụp MRI để phát hiện.
+ Chảy máu và nhồi máu trong tuyến yên: Chảy máu và nhồi máu trong tuyến
yên là do tổn thương do thiếu máu hệ thống của tuyến yên, trên lâm sàng suy
chức năng tuyến yên khi 75% tuyến đã bị tổn thương. Tổn thương chỉ giới hạn
đến thùy trước, chức năng thùy sau còn nguyên vẹn. Hội chứng Sheehan xảy ra
sau chảy máu nặng sau đẻ, hội chứng ít gặp.
+ Ung thư tuyến yên (Pituitary carcinomas): Hiếm gặp, có thể tiết các
hormone như GH, ACTH hoặc prolactin, hoặc cũng có thể khối u không có hoạt
động chức năng. Chẩn đoán chỉ xác định được khi đã có di căn.
+ Tăng sản tuyến yên (Pituitary hyperplasia): To tuyến yên toàn bộ, tăng sản
tế bào tiết TSH do suy tuyến giáp tiên phát kéo dài; Tăng sản tế bào tiết hormon
sinh dục khi suy sinh dục tiên phát kéo dài. Tăng sản tế bào tiết sữa trong thời
kỳ có thai
+ U lympho hệ thống thần kinh trung ương tiên phát (Primary central nevous
system lymphoma), tổn thương có thể khu trú ở tuyến yên, vùng dưới đồi gây
nên những triệu chứng thần kinh, đôi khi kết hợp với suy giảm hormon tuyến
yên thùy trước và / hoặc thùy sau.
- Đột quỵ (ngập máu) tuyến yên (Pituitary apoplexy):
+ Là một cấp cứu nội tiết, do chảy máu tự phát trong khối u tuyến yên hoặc
sau chấn thương đầu.
19
+ Bệnh tiến triển sau 1-2 ngày với triệu chứng đau đầu dữ dội, cứng gáy, tổn
thương thần kinh sọ não ngày càng nặng, trụy tim mạch, thay đổi ý thức, rối
loạn thị trường.
+ Suy chức năng tuyến thượng thận cấp hay gặp.
+ Chụp tuyến yên phát hiện chảy máu trong khối u và lệch cuống tuyến yên.
+ Phần lớn người bệnh phục hồi một cách tự phát, nhưng kinh nghiệm cho
thấy về sau sẽ suy chức năng tuyến yên. Liệt cơ mắt (ophthalmoplegia) có thể
hết đi một cách tự phát, nhưng khi có dấu hiệu giảm thị trường, những biến đổi
về ý thức, cần chỉ định phẫu thuật qua xương bướm để giải phóng chèn ép.
5. Chẩn đoán hình ảnh u tuyến yên
5.1 Đôi nét về các phương pháp chẩn đoán hình ảnh u tuyến yên
Chẩn đoán một khối u tuyến yên phụ thuộc vào sự kết hợp các triệu chứng
lâm sàng và dấu hiệu cận lâm sàng - là kết quả từ kích thước của khối u hoặc
loại hormone được nó sản xuất. CT và MRI phần lớn đã thay thế phương pháp
chụp X - quang thông thường vì chụp X - quang không thể làm nổi bật vùng mô
mềm [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30].
Chụp mạch (Angiography) hiếm khi được thực hiện; nếu có chỉ định, CT
mạch máu (CT Angiography - CTA) và MRA sẽ là phương pháp thay thế cho
chụp động mạch thông thường. Chụp mạch chỉ có vai trò khi can thiệp được chỉ
định trong các xoang hang hoặc ở phần xuống của động mạch cảnh.
Thông thường chụp CT có một vai trò hạn chế trong chẩn đoán hình ảnh
tuyến yên, với độ nhạy 17-22% trong việc phát hiện microadenomas. Chụp CT
64 dãy có thể có một vai trò tốt hơn, đặc biệt là ở những bệnh nhân không thể
chụp MRI. CT là phương pháp tốt nhất cho việc hình dung chi tiết xương và các
ổ vôi hóa trong các khối u như germinomas, craniopharyngiomas, và u màng
não. CTA là phương pháp tuyệt vời cho việc hiển thị các hình thái phình vùng
cận hố yên và lập kế hoạch trước phẫu thuật. CT có giá trị hơn cả MRI trong
20
một vài trường hợp như ở bệnh nhân sử dụng máy tạo nhịp hoặc có cấy ghép
kim loại trong não hoặc mắt.
MRI thường được ưu tiên hơn CT trong chẩn đoán u tuyến yên vì sự vượt
trội của nó trong việc thể hiện các tổn thương nhỏ trong tuyến yên và cải thiện
hình ảnh giải phẫu của nó trước khi phẫu thuật. MRI cũng được ưu tiên dành
cho quá trình đánh giá nhận định kết quả sau phẫu thuật.
Somatostatin thụ xạ hình (Somatostatin-receptor scintigraphy) có thể được
sử dụng để phân biệt khối u tái phát hay chỉ là khối u còn sót lại từ vết sẹo hay
mô bị hoại tử sau khi phẫu thuật.
5.2 Phương pháp chụp cắt lớp vi tính (CLVT)
Trong đa số trường hợp, CLVT của tuyến yên được thực hiện với máy 64 dãy.
CLVT đơn kênh cắt ngang (Single-channel axial) và CLVT xoắn ốc (helical
CT) của tuyến yên được thực hiện tốt nhất trong mặt phẳng đứng ngang bằng
cách bệnh nhân mở rộng cổ tối đa trong khi nằm ngửa hoặc nằm nghiêng.
Phương pháp này biểu diễn được những bất thường của tuyến yên với liều bức
xạ thấp hơn so với hình ảnh cắt ngang thông thường (axial imaging).
Hình 4. Hình ảnh CLVT u tuyến yên. Hình A. Mặt cắt ngang cho thấy một
khối u tròn đầy trên hố yên; hình chiếc nhẫn tăng tỉ trọng (mũi tên) dưới bao
xuất huyết. Hình B. Giảm tỉ trọng trên mắt cắt đứng ngang qua một u tuyến xâm
lấn lớn. Lưu ý có sự lồng vào nhau của động mạch cảnh (mũi tên) và động mạch
não giữa (mũi tên). Hình C. Mặt cắt ngang trên CLVT cho sự mở rộng ở hai bên
xoang hang (mũi tên trắng) và một khối u hoại tử (mũi tên đen). Hình D. Tăng tỉ
21
trọng phần dưới thùy trán. Lưu ý các động mạch não giữa. Nguồn: Topical
Diagnosis: The Optic Chiasm JOEL S. GLASER (2009)
CLVT tuyến yên cũng có thể được thể hiện trong mặt phẳng ngang mỏng (1-
mm) ở phần tiếp giáp sau khi tiêm 100ml thuốc theo đường tĩnh mạch. Các
thông số phơi sáng là khoảng 120 kV, 200 mA, thời gian quét 2 giây và một
thuật toán mô mềm (soft tissue algorithm). Hình ảnh được định dạng trong mặt
phẳng đứng ngang và mặt phẳng đứng dọc.
U tuyến micro thường là u rất nhỏ, khối u tròn nhúng trong nhu mô của tuyến
yên. Chúng có thể không nhìn thấy được trên CLVT.
Macroadenomas có nhiều hình thái khác nhau. Vôi hóa là hiếm (1-8%). Hoại
tử, hình thành u nang, và xuất huyết có thể dẫn đến tổn thương hỗn hợp. CLVT
cũng cho thấy sự thay đổi xương và tổn thương hàng loạt, với sự mở rộng của vỏ
Sella có hoặc không tổn thương tầng Sellar về phía xoang bướm. Macrodenoma
tiết nhô ra hoặc mở rộng vào xoang hang nhiều hơn so với macroadenomas
không tiết [31].
CLVT mạch máu là phương pháp cực kỳ hữu ích trong việc lập kế hoạch
trước phẫu thuật cho macroadenomas. Mối quan hệ của khối u đến các động
mạch não trước và dây thần kinh thị giác rất quan trọng với các bác sĩ phẫu
thuật.
Một nghiên cứu trên 28 bệnh nhân phẫu thuật microadenomas cho thấy tiềm
năng trong sự kết hợp giữa CLVT đa dãy với việc dựng lại hình ảnh 3D, hứa hẹn
trong việc phát hiện các microadenomas bí ẩn. Trong nghiên cứu này, 15 trường
hợp được chẩn đoán chính xác bằng MRI, trong khi CLVT đa dãy chẩn đoán
chính xác 26 trường hợp. Độ chính xác rõ rệt hơn cho microadenomas tiết
hormone vỏ thượng thận, tăng từ 32% trên MRI lên 85% với CLVT đa dãy [32].
5.3 Phương pháp chụp cộng hưởng từ (CHT)
Ở trẻ em, độ dày của tuyến yên bình thường có thể được đánh giá là một yếu
tố phản ánh tuổi tác. Tuyến yên dày (Pituitary gland heights - PGHs) đã được
22
đo tăng tín hiệu T1 từ 3 đến 7mm độ dày. Các phép đo được thực hiện ở độ dày
lớn nhất, mà thường là trung điểm. PGH sinh lý dày lên khi sinh ra, ở tuổi dậy
thì (6-7 mm), trong khi mang thai (<10 mm), và sau khi sinh (<12 mm).
Có một sự khác biệt liên quan đến giới tính trong PGH . Ở nhóm tuổi 10-69,
độ dày tuyến yên ở những người phụ nữ lớn hơn so với ở những người nam. Các
bệnh nhân trẻ em trong độ tuổi từ 0-9, cả hai giới đều có độ dày tuyến yên tối
thiểu. Độ dày tối đa được quan sát thấy ở nhóm tuổi từ 10 đến 19. Độ dày tuyến
yên giảm dần từ tuổi 20 trở đi. Trong một nghiên cứu của Suzuki et al, không có
đối tượng nữ nào có một PGH lớn hơn 9 mm, và không một đối tượng nam nào
có một PGH lớn hơn 8 mm [33].
Trên CHT, bình thường tuyến yên trước và thân của nó hợp lại thống nhất so
với chất xám. Những cấu trúc này cũng cho thấy sự tăng cường độ mãnh liệt sau
khi tiêm thuốc tương phản. Tuyến yên có thể tăng tín hiệu ở trẻ sơ sinh và phụ
nữ mang thai. Tuyến yên sau bình thường xuất hiện rõ ràng sắc nét trên MRI
T1W. Trong khoảng 10% cá nhân, MRI cho thấy những trung tâm bất thường,
được cho là gây ra bởi các phân tử protein trong tuyến.
Trên T2W và T1W không tiêm thuốc đối quang từ, thùy trước của tuyến yên
có tín hiệu tương đương so với chất xám của não. Thùy sau là tăng tín hiệu trên
T1W chủ yếu do các túi thần kinh tiết protein ở thùy sau tuyến yên.
U nang lành tính được nhìn thấy trong 20% các khám nghiệm tử thi và có thể
đại diện cho một biến thể bình thường hoặc thoái hóa của tuyến yên. Ở những
phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, tuyến yên thay đổi đáng kể về kích thước trong chu
kỳ kinh nguyệt. Trong những phụ nữ này, tuyến yên bình thường có thể có một
bề mặt cao lồi, có thể xuất hiện sự phình ra của vỏ Sella.
23
Hình 5. T2W trên mắt cắt ngang cho thấy giao thoa thị giác và dây thần kinh
thị. Nguồn: Medscape.com
Hình 6. T1W trên mặt cắt dọc cho thấy một macroadenoma tuyến yên. Nguồn:
Medscape.com
24
Hình 7. Mặt cắt dọc T1W cho thấy xuất huyết ở một u tuyến yên rất lớn.
Nguồn: Medscape.com
Hình 8. Mặt cắt ngang T1W tăng cường thể hiện một u nang biểu bì. Lưu ý giảm
tín hiệu trong khối u dọc đường nứt của khoang dưới nhện. Nguồn:
Medscape.com
25
Hình 9. Mặt cắt ngang T1W tăng cường biểu thị một sự di căn đến xương bướm
và xoang hang. Nguồn: Medscape.com
5.3.1 Microadenomas
Trong đánh giá các microadenomas tuyến yên, vấn đề cơ bản là sự có mặt
hay vắng mặt của một u, vị trí của u, và các hiệu ứng xâm lấn vào các cấu trúc
lân cận. Độ phân giải cao, mỏng phần MRI của tuyến yên trên các mặt cắt đứng
ngang và cắt đứng dọc là phương thức hình ảnh được lựa chọn.
Microadenomas tuyến yên thường hơi giảm tín hiệu so với chất xám trên
T1W và tăng tín hiệu so với chất xám trên T2W, trừ khi chúng có xuất huyết
dưới thái dương hoặc thay đổi nang. Microadenomas thường rất khó phát hiện,
trừ khi T1W tăng tín hiệu.
5.3.2 Macroadenomas
Macroadenomas cho thấy một mô hình nâng cao không đồng nhất phản ánh
mức độ khác nhau của hoại tử, hình thành u nang, và xuất huyết.
Trong macroadenomas, mục đích của hình ảnh là để phân ranh giới chính xác
của mô bình thường đối với các mô ung thư, để đánh giá sự xâm lấn vào xoang
hang, và để chứng minh bất kỳ hiệu ứng khối trên các cấu trúc lân cận (ví dụ,
giao thoa thị giác). Một đánh giá cũng quan trọng, đó là sự tổn thương đến các
mạch máu ở gần đó. Những yếu tố nào là quan trọng từ quan điểm của bác sĩ
phẫu thuật? Sự xâm lấn vào xoang hang là có liên quan đến u hoạt động mạnh
về mặt sinh học và làm tăng nguy cơ bệnh tật và tử vong với các thủ tục phẫu
26
thuật mặc dù khối u vẫn còn liên quan đến mô lành tính trong hầu hết các trường
hợp.
Trong một nghiên cứu của Connor và các cộng sự của mình, trong 49 bệnh
nhân đã trải qua phẫu thuật nội soi qua xương bướm (transsphenoidal) cho
macroadenomas, các tính năng chụp ảnh MRI trước phẫu thuật đó là hữu ích
trong việc dự đoán loại bỏ hoàn toàn các thành phần cận hố yên của một u tuyến
yên (theo đánh giá của MRI sau phẫu thuật ) là mô tả của các khoang bên và
dưới bên của xoang hang và giảm chèn ép vào động mạch cảnh [34].
Theo Patel và cộng sự, hậu phẫu ở MRI độ phân giải cao rất có giá trị trong
việc xác định sự có mặt hay vắng mặt của khối u còn lại sau khi phẫu thuật qua
xương bướm cho macroadenomas. Các tác giả cũng lưu ý rằng khối lượng
khoang hầu như luôn luôn giảm sau khi phẫu thuật, và thuyên giảm như vậy nên
được báo cáo cho bác sĩ phẫu thuật khả năng nén liên tục của bộ máy quang học
để có thể đảm bảo mổ lại [35].
Trong một nghiên cứu, việc sử dụng các 3T MRI qua xương bướm vi phẫu
trên macroadenomas tuyến yên dẫn đến sự gia tăng cả mức độ cắt bỏ khối u (8
trong 73 bệnh nhân, hay 10,9%) và tỷ lệ cắt bỏ cấp (69% thay vì 60 %) [36].
5.3.3. Cộng hưởng từ động học tuyến yên (Dynamic MRI)
CHT đã được chứng minh là phương thức hình ảnh tốt nhất trong việc đánh
giá các khối u tuyến yên. Tuy nhiên CHT động học (dynamic MRI) đã nổi lên
như một công cụ đầy hứa hẹn trong việc đánh giá các u tuyến yên, đặc biệt là
phân biệt chính xác về những microadenomas không có bất thường về đường
viền xung quanh với các adenoma tái phát từ xung quanh mô hậu phẫu [37],
[38]. CHT động học không chỉ hữu ích trong việc đánh giá microadenomas
tuyến yên mà còn có vai trò quan trọng không kém trong việc đánh giá
macroadenoma [39], [40], [41], [42].
Kỹ thuật CHT động học chụp trong một giai đoạn ngắn, ở giai đoạn này mức
độ ngấm thuốc của khối u với nhu mô tuyến yên khác nhau. Khoảnh khắc
27
thoáng qua này kéo dài vài giây nhưng rất có giá trị trong việc chẩn đoán u
tuyến yên có kích thước nhỏ [43].
Hình 10. Hình ảnh CHT động học u tuyến yên sau 1 phút. Nguồn:
radiopaedia.org
CHT động học nổi lên như là một phương pháp chụp ảnh mới trong thập niên
90 vì sự phát triển của tiến bộ kỹ thuật và sàng lọc các hình ảnh cộng hưởng từ.
Miky và các cộng sự của ông là những tác giả đầu tiên áp dụng nghiên cứu CHT
động học trong microadenoma [44]. Sau đó, Sakomoto thực hiện nghiên cứu
CHT động học trong microadenoma và macroadenoma. Bảy đến mười hình ảnh
thu được trong mỗi 20 đến 30 giây sau tiêm gadolinium. Việc tăng cường độ
tương phản sớm nhất của cấu trúc bình thường được thấy trong các phễu và thùy
sau của tuyến yên ở giây thứ 20, tiếp theo là tăng cường độ tương phản dần từ
ngã ba của phễu để phần ngoại vi của thùy trước trong vòng 80 giây sau khi tiêm
gadolinium. Việc tăng cường đỉnh cao của u tuyến yên xảy ra vào giây thứ 60
đến 200, thường sau những cải tiến rõ rệt nhất của tuyến yên bình thường [44].
Yuh mô tả u tuyến yên tăng sớm hơn ở thùy trước, khác với những phát hiện của
28
Sakomato. Điều này là do u tuyến yên có một nguồn cung cấp máu động mạch
trực tiếp tương tự như tuyến yên thùy sau [45].
Hình 11. Hình ảnh chụp MRI động một microadenoma tuyến yên. Chú ý phía
bên trái microadenoma (mũi tên) đã biến mất ở phút thứ 5. Nguồn:
mriquestions.com
Hayashi và cộng sự tiến hành nghiên cứu CHT động học cho 14 bệnh nhân bị
u tuyến yên [38]. Trong nghiên cứu, Gadodiamide-DTPA đã được tiêm từ từ
trong vòng 90 giây, cung cấp bảy đến chín hình ảnh động trong 350 giây từ khi
bắt đầu tiêm. Nghiên cứu cho thấy thời gian trung bình để đạt được cường độ tín
hiệu tối đa là 170 giây trong u tuyến yên và 156 giây trong tuyến yên bình
thường. Sự tương phản đáng chú ý nhất giữa u tuyến và mô bình thường thu
được từ hình ảnh thứ tư đến hình ảnh thứ tám, xảy ra giữa giây thứ 145-300 sau
khi bắt đầu tiêm.
5.4 Phương pháp sử dụng thụ thể somatostain (somatostain –
receptor)
Thụ thể Somatostatin đã được chứng minh có trong ống nghiệm ở hầu hết
các u tuyến yên tiết ra GH và trong một số khối u tuyến yên TSH và PRL. Các
thụ thể đã không được chứng minh là có trong u tuyến không hoạt động. Khối u
29
tuyến yên còn lại hoặc tái phát rất khó để phân biệt từ sau phẫu thuật với MRI và
CT.
Hình nhấp nháy của khối u còn lại là có thể là các chất tương tự somatostatin
có nhãn, như indium-111 axit diethylenetriaminepentaacetic (DTPA) -
octreotide. Phương pháp này cho phép mô sẹo được phân biệt với các khối u tái
phát và giúp trong việc xác định bệnh nhân có thể được hưởng lợi từ các chất
tương tự somatostatin.
Xạ hình với technetium-99m pentavalent axit dimercaptosuccinic, hoặc
99mTc (V) DMSA, cũng giúp trong việc phát hiện hầu hết u tuyến yên tiết GH,
tiết PRL và cả u không hoạt động, với tỷ lệ khối khối u trên nền khoảng trên 25.
Hình ảnh chức năng của tuyến yên còn lại (> 10 mm) với 99mTc (V) DMSA mô
tả những tàn tích của u tuyến yên. Cách tiếp cận này có thể có giá trị ở những
bệnh nhân có u tuyến không hoạt động để theo dõi ảnh hưởng của xạ trị trên lâm
sàng [46].
Xạ hình Indi-111-DTPA-octreotide là một kỹ thuật mới cho các thụ thể tạo
ảnh somatostatin trong nhiều khối u thần kinh nội tiết (ví dụ, u tuyến yên). Đây
là chất đánh dấu có độ nhạy cao và phù hợp để đánh giá tình trạng của thụ thể
somatostatin trong u tuyến yên. Trong một nghiên cứu, 111 In-DTPA-octreotide
xạ photon đơn CT (SPECT) mô tả u tuyến của 21 bệnh nhân (78%) trong số 27
bệnh nhân có 1 u không tiết, 10 u tiết GH, và 10 khối u tiết PRL.
Vai trò của xạ hình 111In-DTPA-octreotide trong việc đánh giá các khối u
tuyến yên không hoạt động vẫn chưa được nghiên cứu. Điều trị với octreotide
untagged có thể cho là cản trở sự hấp thu chất đánh dấu trong các khối u tuyến
yên. Vì vậy, bệnh nhân trải qua xạ hình nên ngừng điều trị trong 2-3 ngày trước
khi thử nghiệm. [47]
Các nghiên cứu đã chỉ ra một sự tương quan giữa sự hấp thu 111In-DTPA-
octreotide cao và đáp ứng với điều trị octreotide ở bệnh nhân u tuyến yên tiết
TSH và GH. Phương pháp này có thể tạo điều kiện cho sự phát triển của phương
30
pháp điều trị không xâm lấn của somatostatin thụ thể dương u tuyến yên, bệnh
nhân có thể được hưởng lợi từ điều trị octreotide. Những nghiên cứu này có thể
là một bước đột phá cho các phẫu thuật viên tay nghề chưa cao, cho bệnh nhân
từ chối phẫu thuật, hoặc cho trước phẫu thuật.
Naswa et al báo cáo một trường hợp u tuyến yên đa tiết loại 1 liên quan với u
tuyến yên lạc chỗ trong đó somatostatin thụ dựa trên PET / CT hình ảnh sử dụng
68Ga-DOTANOC là công cụ trong việc chẩn đoán u tuyến yên lạc chỗ. [48].
6. Điều trị U tuyến yên
6.1 Các khối u tuyến yên không tiết hormone
- Chụp cộng hưởng từ để chẩn đoán và theo dõi, CHT có thể hai năm làm lại
một lần, nếu như không có dấu hiệu phát triển của tổn thương.
- Phẫu thuật chỉ định khi khối u lớn có xu hướng ngày càng phát triển.
- Nếu tổn thương không có triệu chứng, CHT cần làm lại sau 6 tháng đến 1
năm, sau đó hàng năm. Phẫu thuật có thể trì hoãn, trừ khi có dấu hiệu khối u
phát triển.
- Nếu có triệu chứng chèn ép vào giao thoa thị giác, xâm lấn vào xoang hang,
hoặc suy chức năng tuyến yên, phẫu thuật sẽ được tiến hành và cân nhắc điều trị
bằng tia xạ (đặc biệt dao gamma, điều trị bằng chiếu tia từ ngoài). 10% các khối
u đáp ứng với bromocriptine giảm kích thước khối u.
- Phương pháp mới nội soi Transnasal transsphenoidal: loại bỏ khối u qua
xoang mũi.
31
Hình 12. Phẫu thuật loại bỏ khối u qua xoang mũi. Nguồn: mayoclinic.org
+ Ưu điểm: không ảnh hưởng các phần khác của não và không nhìn thấy sẹo.
+ Nhược điểm: gặp khó khăn khi loại bỏ khối u lớn đặc biệt khi khối u đã xâm
lấn các dây thần kinh gần đó hoặc mô não.
6.2. Các khối u tuyến yên tiết hormone
6.2.1. Các khối u tiết prolactin
Điều trị bằng thuốc đối kháng thụ thể dopamin.
6.2.2 U tiết GH – Acromegaly
Phẫu thuật qua xương bướm là phương pháp được chọn, 70% người bệnh có
nồng độ GH đạt < 5ng/mL và nồng độ IGF bình thường, nhưng tái phát 5- 10%.
Sau khi điều trị bằng tia xạ truyền thống, 40% người bệnh đạt được nồng độ GH
< 5ng/mL sau 5 năm, và 60-70% sau 10 năm.
6.2.3 Bệnh Cushing
Phẫu thuật qua xương bướm áp dụng cho 80-90% người bệnh. Tỷ lệ tái phát
5-10%, trục dưới đồi - tuyến yên - thượng thận có thể bị ức chế tới 1 năm. Điều
trị bằng tia được chỉ định cho các người bệnh không điều trị bằng phẫu thuật,
những người bệnh cắt bỏ thượng thận hai bên hoặc bị hội chứng Nelson. 61%
người bệnh giảm bệnh được 12 tháng, 70% được 24 tháng.
6.2.4 U tiết TSH
32
Phẫu thuật qua xương bướm, nhưng ít hiệu quả. Hầu hết người bệnh đáp ứng
tốt với octreotide acetate (sandostatin) làm nhỏ khối u. Điều trị bằng tia tùy
thuộc khi không phẫu thuật được. Điều trị bằng các thuốc cường giáp như điều
trị các trường hợp cường giáp khác.
33
3. KẾT LUẬN
Phương pháp chẩn đoán hình ảnh u tuyến yên phổ biến được sử dụng hiện
nay chính là MRI. Tuy nhiên nó cũng có những bất cập như kết quả dương tính
giả hay âm tính giả. Trong khoảng 10% số người trưởng thành khỏe mạnh, MRI
cho thấy những bất thường tuyến yên tương thích với chẩn đoán u tuyến yên
không có triệu chứng. Hầu hết các u tuyến yên vẫn không có triệu chứng và
không cần điều trị.
Kết quả dương tính giả có thể xảy ra với các tổn thương tuyến yên không có
triệu chứng, chẳng hạn như di căn, nhồi máu, u nang biểu bì, và áp-xe. Các tổn
thương này có thể giảm tín hiệu sau khi tiêm gadolinium. MRI tuyến yên dương
tính giả cũng đã được báo cáo ở những bệnh nhân tiết ACTH lạc chỗ và hội
chứng Cushing. Ở những bệnh nhân bị hội chứng Cushing, tỷ lệ mắc u tuyến
yên lúc phẫu thuật là cao; do đó, một khu vực giảm tín hiệu tối sau khi tiêm
gadolinium được chấp nhận như là chẩn đoán của một microadenoma tuyến yên
[49].
Vì vậy để có được một chẩn đoán chính xác, chúng ta nên phối hợp nhiều
phương pháp chẩn đoán hình ảnh để hỗ trợ nhau. Ngoài ra nên khai thác triệt để
những triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân, không nên bỏ sót bất kì một triệu
chứng nào dù là nhỏ nhất.
Cuối cùng, việc điều trị u tuyến yên phẫu thuật cắt bỏ khối u là một phương
pháp thích hợp. Đối với bệnh nhân không thể phẫu thuật thì việc điều trị ngoại
khoa bằng dao Gamma là một lựa chọn tốt. Việc điều trị này bao gồm cả chụp
CT và MRI để giúp bác sĩ phẫu thuật hướng nhiều tia phóng xạ nhỏ từ nhiều góc
khác nhau qui tụ về khối u làm cho nó co lại và tiêu diệt nó. Cũng có thể sử
dụng các loại thuốc đặc hiệu cho từng loại u để điều trị khối u.
34
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Walter A. Hall, MD; Mark G. Luciano, MD, PhD; John L. Doppman,
MD; Nicholas J. Patronas, MD; and Edward H. Oldfield, MD (Annals
Journal 4-2012). “Pituitary Magnetic Resonance Imaging in Normal
Human Volunteers: Occult Adenomas in the General Population”
2. Ngô Văn Đãng, Nguyễn Văn Huy (2011). “Giải phẫu Người”. Hệ nội tiết,
38, 384 – 385.
3. Phạm Thị Minh Đức (2011). “Sinh lý học”. Sinh lý nội tiết, 13, 299 – 308.
4. CBTRUS. Statistical Report: Primary Brain and Central Nervous System
Tumors Diagnosed in the United States in 2004-2007. Central Brain
Tumor Registry of the United States. 2011.
5. Ezzat S, Asa SL, Couldwell WT, Barr CE, Dodge WE, Vance ML, et al.
The prevalence of pituitary adenomas: a systematic review. Cancer. 2004
Aug 1. 101(3):613-9.
6. Molitch ME. Pituitary tumours: pituitary incidentalomas. Best Pract Res
Clin Endocrinol Metab. 2009 Oct. 23(5):667-75.
7. Famini P, Maya MM, Melmed S. Pituitary magnetic resonance imaging
for sellar and parasellar masses: ten-year experience in 2598 patients. J
Clin Endocrinol Metab. 2011 Jun. 96(6):1633-41.
8. Lundin P, Nyman R, Burman P, Lundberg PO, Muhr C. MRI of pituitary
macroadenomas with reference to hormonal activity. Neuroradiology.
1992. 34(1):43-51.
9. Lübke D, Saeger W. Carcinomas of the pituitary: definition and review of
the literature. Gen Diagn Pathol. 1995 Oct. 141(2):81-92.
10. Al-Shraim M, Asa SL. The 2004 World Health Organization
classification of pituitary tumors: what is new?. Acta Neuropathol. 2006
Jan. 111(1):1-7.
35
11. Murad-Kejbou S, Eggenberger E. Pituitary apoplexy: evaluation,
management, and prognosis. Curr Opin Ophthalmol. 2009 Nov.
20(6):456-61.
12. Ezzat S, Asa SL, Couldwell WT, Barr CE, Dodge WE, Vance ML. The
prevalence of pituitary adenomas: a systematic review. Cancer. 2004 Aug
1. 101(3):613-9.
13. Hall WA, Luciano MG, Doppman JL, Patronas NJ, Oldfield EH. Pituitary
magnetic resonance imaging in normal human volunteers: occult
adenomas in the general population. Ann Intern Med. 1994 May 15.
120(10):817-20.
14. Buurman H, Saeger W. Subclinical adenomas in postmortem pituitaries:
classification and correlations to clinical data. Eur J Endocrinol. 2006
May. 154(5):753-8.
15. Sert M, Tetiker T, Kirim S, Kocak M. Clinical report of 28 patients with
Sheehan's syndrome. Endocr J. 2003 Jun. 50(3):297-301.
16. Spencer WR, Das K, Nwagu C, Wenk E, Schaefer SD, Moscatello A.
Approaches to the sellar and parasellar region: anatomic comparison of
the microscope versus endoscope. Laryngoscope. 1999 May. 109(5):791-
4.
17. Thái Hồng Quang (2008). Bệnh Nội tiết. Nhà xuất bản Y học.
18. Mai Thế Trạch, Nguyễn Thy Khuê (2003). Nội tiết học đại cương. Nhà
Xuất bản Y học - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh.
19. The Washington Manual (subspecialty consult series) (2009).
Endocrinology subspecialty consult. Second Edition.
20. The Washington Manual of Medical Therapeutics. 33rd Edition (2010).
21. David G. Gardner. Dolores Shoback. Greenspan’s Basic and clinical
Endocrinology, 9th Edition. 2011.
36
22. Bonneville JF, Cattin F, Bonneville F. [Imaging of pituitary adenomas].
Presse Med. 2009 Jan. 38(1):84-91.
23. Cox TD, Elster AD. Normal pituitary gland: changes in shape, size, and
signal intensity duringthe 1st year of life at MR imaging. Radiology. 1991
Jun. 179(3):721-4.
24. Elster AD. Modern imaging of the pituitary. Radiology. 1993 Apr.
187(1):1-14.
25. FitzPatrick M, Tartaglino LM, Hollander MD, et al. Imaging of sellar and
parasellar pathology. Radiol Clin North Am. 1999 Jan. 37(1):101-21, x.
26. Kricheff II. The radiologic diagnosis of pituitary adenoma: an overview.
Radiology. 1979 Apr. 131(1):263-5.
27. Majos C, Coll S, Aguilera C, et al. Imaging of giant pituitary adenomas.
Neuroradiology. 1998 Oct. 40(10):651-5.
28. Zee CS, Go JL, Kim PE, et al. Imaging of the pituitary and parasellar
region. Neurosurg Clin N Am. 2003 Jan. 14(1):55-80, vi.
29. Davies BM, Carr E, Soh C, Gnanalingham KK. Assessing size of pituitary
adenomas: a comparison of qualitative and quantitative methods on MR.
Acta Neurochir (Wien). 2016 Jan 29.
30. Smith KA, Leever JD, Chamoun RB. Prediction of Consistency of
Pituitary Adenomas by Magnetic Resonance Imaging. J Neurol Surg B
Skull Base. 2015 Sep. 76 (5):340-3.
31. Kinoshita M, Tanaka H, Arita H, Goto Y, Oshino S, Watanabe Y, et al.
Pituitary-Targeted Dynamic Contrast-Enhanced Multisection CT for
Detecting MR Imaging-Occult Functional Pituitary Microadenoma. AJNR
Am J Neuroradiol. 2015 May. 36 (5):904-8.
32. Suzuki M, Takashima T, Kadoya M, et al. Height of normal pituitary
gland on MR imaging: age and sex differentiation. J Comput Assist
Tomogr. 1990 Jan-Feb. 14(1):36-9.
37
33. Suzuki M, Takashima T, Kadoya M, et al. Height of normal pituitary
gland on MR imaging: age and sex differentiation. J Comput Assist
Tomogr. 1990 Jan-Feb. 14(1):36-9.
34. Connor SE, Wilson F, Hogarth K. Magnetic resonance imaging criteria to
predict complete excision of parasellar pituitary macroadenoma on
postoperative imaging. J Neurol Surg B Skull Base. 2014 Feb. 75(1):41-6.
35. Patel KS, Kazam J, Tsiouris AJ, Anand VK, Schwartz TH. Utility of
Early Post-operative High Resolution Volumetric MR Imaging after
Transsphenoidal Pituitary Tumor Surgery. World Neurosurg. 2014 Jul 18.
36. Fomekong E, Duprez T, Docquier MA, Ntsambi G, Maiter D,
Raftopoulos C. Intraoperative 3T MRI for pituitary macroadenoma
resection: Initial experience in 73 consecutive patients. Clin Neurol
Neurosurg. 2014 Nov. 126:143-9.
37. Bonneville JF, Cathin F, Gorczyca W, Hardy J. Pituitary
microadenomas: early enhancement with dynamic CT-implications of
arterial blood supply and potential importance. Radiology 1993;
187:857-861
38. Yuh WTC, Fisher DJ, Nguyen Hd et al. Sequential MR
enhancement patterns in normal pituitary gland and in pituitary
adenoma. AJNR 1994; 15:101-108
39. Hayashi S, Ito K, Shimada M et al. Dynamic MRI with slow
injection of contrast material for the diagnosis of pituitary adenomas
Radiat Med 1995; 13:167-70
40. Davis PC, Hoffmann JC et al. Gadolinium DTPA and MR imaging
of pituitary adenoma: a preliminary report . AJNR 1987; 8:817-823
38
41. Nakamura T, Schoerner W, Bittner RC. The value of
paramagnetic contrast agent gadolinium -DTPA in the diagnosis of
pituitary adenomas. Neuroradiology 1988; 30: 481-486
42. Scotti G, Yu CYST, Dilon WP et al. MR Imaging of cavernous
sinus involvement by pituitary adenomas AJR 1988; 151: 799-806
43. Lundin P, Bergstorm K. Gd DTPA enhanced MR imaging of
pituitary macroadenoma. Acta Radiologica 1992; 33:323-332
44. Sakamoto Y, Takahashi M, Korogi Y, Bussakhi H, Ushio Y.
Normal and abnormal pituitary glands: gadopentate dimeglumine
enhanced MR imaging. Radiology 1997; 178:441- 445
45. Elster AD. Modern Imaging of the pituitary. Radiology 1993;
187:1-14
46. Colao A, Ferone D, Lombardi G, Lastoria S. (99m)Technetium
pentavalent dimercaptosuccinic acid scintigraphy in the follow-up of
clinically nonfunctioning pituitary adenomas after radiotherapy. Clin
Endocrinol (Oxf). 2002 Jun. 56(6):713-21.
47. Shimamura N, Ogane K, Takahashi T, et al. Pituitary abscess showing
high uptake of thallium-201 on single photon emission computed
tomography--case report. Neurol Med Chir (Tokyo). 2003 Feb. 43(2):100-
3.
48. Naswa N, Das CJ, Sharma P, Karunanithi S, Bal C, Kumar R. Ectopic
pituitary adenoma with empty sella in the setting of MEN-1 syndrome:
detection with 68Ga-DOTANOC PET/CT. Jpn J Radiol. 2012 Nov.
30(9):783-6.
49. Chittiboina P, Montgomery BK, Millo C, Herscovitch P, Lonser
RR. High-resolution(18)F-fluorodeoxyglucose positron emission
39
tomography and magnetic resonance imaging for pituitary adenoma
detection in Cushing disease. J Neurosurg. 2015 Apr. 122 (4):791-7